← Quay lại trang sách

không bay

Vở kịch của BF viết vào mùa hè thứ ba sau Đại Di Cư, “Không bay” dài bốn mươi lăm phút (mà nhiều khán giả mô tả họ có cảm giác như trải qua bốn mươi lăm giờ, trong trường hợp nán xem bằng hết), trình diễn lần đầu ở một sân khấu thể nghiệm, và nhận được nhiều phản ứng bực bội. Kịch chỉ có một hồi với màn duy nhất, trên sân khấu có trần thấp, vừa với người đàn ông dáng nhỏ thó, hói đầu, mọi hành động của ông xoay quanh một cây me èo uột. Phục trang cho thấy ông ta không mấy khá giả, áo gài lệch khuy. Xen giữa các hành động bệ rạc như tưới cây, treo cái xích đu bện bằng dây thừng và tháo nó ra, rồi treo lại, hoặc ngồi sững ra với cái nhìn trống rỗng, là loạt độc thoại chừng như bâng quơ, những khoảng lặng dài (đây là lý do phần lớn khán giả bỏ về trong buổi công diễn đầu tiên, họ nói rằng các khoảng lặng khiến họ ngộp thở, khi mà nhân vật không nói gì không làm gì, bất động đến phông màn không lay, nhưng sự thật như đạo diễn vở kịch sau này tiết lộ, rằng đội hậu đài đã dùng một thủ thuật nhỏ để phong kín khán phòng, không có không khí lưu thông, gây cảm giác bức bối, “khiến người xem gần như ngay lập tức chia sẻ được tâm trạng của nhân vật”).

Toàn bộ vở kịch có chín câu thoại gồm: “bay nói ngồi xích đu như bay lên, ba nhớ chớ”, “cây cao đụng nóc rồi còn đâu”, “trời thấp, mưa thẳng đứng”, “tàu về mà cũng như không”, “ai biết cây nhà giàu đâm ngọn tới đâu”, “bày đặt rụng lá làm màu”, “tới treo cổ cũng không xong”, “cứ nghĩ bán thận là mua được một chỗ tốt”, “giỗ má bay tháng Bảy”. Trong buổi công diễn duy nhất, thỉnh thoảng diễn viên đóng vai người đàn ông đã thoại nhịu lẫn giữa các câu, kiểu như “tàu về treo cổ còn đâu”, hay “mưa thẳng đứng bán thận”. Hồi đầu khán giả tưởng nghệ sĩ không thuộc thoại, nhưng nếu tinh ý nhận ra nghệ sĩ cố tình trưng ra một nhân vật mỏi mòn.

Không gian của vở kịch được hé lộ nhờ sự xuất hiện vài người gù lưng cúi đầu và câm lặng đi lại bên tấm phông xanh im sững. Trần thấp nên họ không thể đứng thẳng. Đây có thể là tầng cuối của Ngầm nào đó, nơi dung thân của lớp dân nghèo, không có khả năng mua lấy một nơi chốn rộng rãi hơn, sau cuộc tháo chạy khỏi Bề Mặt nóng chảy. Lòng đất đâu thể đủ chỗ cho tất cả. Một vài khán giả kiên nhẫn phần nào nắm bắt được câu chuyện, qua hành động người đàn ông treo cái xích đu lên cây me, nhưng để đung đưa nó là bất khả. Treo cao thì không thể ngồi vì đầu vướng cành me, nhưng treo thấp là chạm đất. Trong hành động nghèo nàn buộc rồi tháo, thấy rõ người đàn ông hy vọng đứa con (thích bay) sẽ trở về nếu xích đu có thể đong đưa. Một khán giả nói rằng kịch chịu ảnh hưởng của “Trong khi chờ Godot” của Samuel Beckett, nhưng non tay hơn vậy nên kịch cũng dễ chịu hơn vì chúng ta còn biết được người đàn ông đơn độc nọ chờ kẻ nào.

Vở kịch không được công diễn sau đó. Cả kế hoạch diễn miễn phí ở những nhà ga, đều bị hoãn vô thời hạn. Một nguồn tin cho hay có sự tác động của Hội đồng Ngầm để vở “Không bay” lưu kho. Họ nghĩ tinh thần của kịch chẳng giúp gì cho cuộc sống người dân chỉ vừa được ổn định phần nào sau cuộc di tản. Cướp bóc vẫn còn diễn ra khắp nơi, những lời thề thốt hóa ra hão huyền. Liệu ai được an ủi khi xem cảnh cuối cùng của vở kịch đen, người đàn ông dùng dây thừng của xích đu để làm thòng lọng mắc lên cây, và sau khi ướm vào nó ước lượng, ông thở dài “tới treo cổ cũng không xong”.