Chương 6 “Franklin Là Nhà Chính Trị, Nhưng Eleanor Nói Ra Từ Lương Tâm”.
Một người đàn ông rụt rè, nhút nhát chắc chắn sẽ rất ghét sự chú ý từ người lạ, nhưng khó có thể nói là anh ta sợ họ. Anh ta có thể rất dũng cảm như một người hùng trên chiến trường, ấy vậy nhưng vẫn chẳng hề có một chút tự tin nào khi phải nói về những điều nhỏ nhặt trước mặt người lạ.
—CHARLES DARWIN
o O o
Buổi sáng Chủ Nhật ngày lễ Phục Sinh, 1939, tại Đài Tưởng Niệm Lincoln, Mỹ. Marian Anderson, một trong những ca sĩ tài năng nhất của thế hệ bà, tiếp quản sân khấu, các bức tượng của mười sáu đời tổng thống Mỹ đứng phía sau lưng bà. Một người phụ nữ với phong thái uy quyền đế vương, với nước da màu nâu bánh mật, chăm chú nhìn 75.000 khán giả của mình: những người đàn ông trong những chiếc mũ rộng vành, những người phụ nữ trong bộ váy Ngày Chủ Nhật đẹp nhất của họ, một biển người rộng lớn của những khuôn mặt cả trắng và đen. “My country ’tis of thee”, bà bắt đầu cất tiếng hát, chất giọng vút cao, mỗi ca từ đều trong vắt và rõ ràng. “Sweet land of liberty”. Đám đông bị cuốn hút, và nước mắt họ rơi. Họ chưa bao giờ dám nghĩ ngày hôm nay có thể tới.
Và nó đã có thể sẽ không bao giờ tới, nếu không có Eleanor Roosevelt 28. Trước đó, Anderson đã có ý định muốn được hát tại Constitution Hall tại Washington D.C., nhưng tổ chức Daughters of the American Revolution, những người sở hữu tòa nhà, đã từ chối bà vì lý do phân biệt chủng tộc. Eleanor Roosevelt, người sinh ra từ một gia đình đã từng chiến đấu trong cuộc Cách Mạng, đã quyết tâm từ chức khỏi tổ chức Daughters of the American Revolution, rồi giúp sắp xếp để Anderson được hát tại Đài Tưởng Niệm Lincoln—và châm ngòi cho một làn sóng chỉ trích phẫn nộ từ khắp nơi trên toàn quốc. Roosevelt không phải là người duy nhất chống lại, nhưng bà đã mang cả ảnh hưởng chính trị của mình vào sự kiện này, cùng lúc đó liều lĩnh đánh cược cả danh tiếng của chính mình.
28 Anna Eleanor Roosevelt (11 tháng 10 năm 1884 – 7 tháng 11 năm 1962) là chính khách Mỹ, Đệ nhất Phu nhân Hoa Kỳ, vợ của Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt Bà là nhà tiên phong trong phong trào ủng hộ nữ quyền, là người kiến tạo một hình mẫu mới cho vai trò Đệ nhất Phu nhân. Roosevelt hoạt động tích cực trong nỗ lực hình thành nhiều định chế, đáng kể nhất là Liên Hiệp Quốc, Hiệp hội Liên Hiệp Quốc và Nhà Tự do. Bà chủ toạ uỷ ban soạn thảo và chuẩn thuận Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền Con Người. Tổng thống Harry S. Truman gọi bà là Đệ nhất Phu nhân của Thế giới, nhằm tôn vinh người phụ nữ đặc biệt này vì những chuyến du hành đưa bà đến nhiều nơi trên thế giới để vận động cho quyền con người. (Nguồn: Wikipedia)
Với Roosevelt, người dường như hiển nhiên luôn không thể ngoảnh mặt làm ngơ khi người khác đang gặp khó khăn, những hành động đầy lương tâm như vậy chẳng có gì kỳ lạ cả. Nhưng những người khác thì biết được rằng chúng phi thường đến thế nào. “Có một thứ gì đó rất đặc biệt”, nhà lãnh đạo phong trào bình quyền cho người Mỹ gốc Phi James Farmer nhớ lại về sự đứng lên dũng cảm của Roosevelt. “Franklin thì là một nhà chính trị. Ông cân nhắc hậu quả chính trị cho từng hành động của mình. Và ông cũng là một nhà chính trị rất tốt nữa. Nhưng Eleanor nói ra từ lương tâm, và hành động như một người rất tận tâm. Đó là thứ khác biệt”.
Đó cũng chính là vai trò mà bà đã đảm nhận trong suốt cả cuộc đời mình: làm người cố vấn cho Franklin, làm lương tâm cho Franklin. Cũng có thể ông đã chọn bà làm người bạn suốt đời cho mình chính vì lý do này; ở tất cả những mặt khác, họ đều chẳng giống nhau một chút nào.
Họ gặp nhau khi ông mới hai mươi tuổi. Franklin là anh em họ xa của Eleanor, một sinh viên năm cuối của Harvard được bao bọc cẩn thận trong một gia đình đại-thượng-lưu. Eleanor khi đó mới chỉ mười chín tuổi, cũng đến từ một gia đình giàu có, nhưng cô đã chọn sống cùng với những nỗi khổ của những người nghèo, bất chấp sự phản đối của gia đình mình. Là một tình nguyện viên tại một nhà tế bần trong khu vực Hạ Bờ Đông nghèo khó của quận Manhattan; cô đã gặp những em bé bị bắt ép phải khâu hoa giả tới mức kiệt sức trong những căn nhà xưởng không có lấy một ô cửa sổ. Một hôm cô đưa cả Franklin tới đó cùng cô. Anh không thể tin được rằng những con người này lại phải sống trong điều kiện khắc nghiệt tới vậy—hay việc rằng một cô gái trẻ cùng tầng lớp với anh lại là người đã giúp mở mắt anh tới mặt này của nước Mỹ. Anh đã nhanh chóng phải lòng cô gái ấy.
Nhưng Eleanor không phải là dạng vui vẻ, dí dỏm mà anh đã kỳ vọng là mình sẽ cưới. Chính xác là điều ngược lại mới đúng: cô rất chậm cười, rất nhanh chán bởi chuyện phiếm, đầu óc luôn nghiêm túc, và nhút nhát, rụt rè. Mẹ của cô, một nữ quý tộc thanh mảnh, xinh đẹp và hoạt bát, đã đặt cho cô biệt danh “Bà Ngoại” bởi lối cư xử của cô. Cha cô, người em trai quyến rũ và nổi tiếng của Theodore Roosevelt, thì luôn hết mực khen ngợi và yêu chiều cô mỗi lúc ông nhìn thấy con gái, nhưng ông mắc chứng say rượu gần như triền miên, và đã mất khi Eleanor mới lên chín tuổi. Cho đến lúc Eleanor gặp Franklin, cô đã không dám tin được được rằng một người như anh lại có hứng thú với cô. Franklin là tất cả những gì cô không phải là: bạo dạn và sôi nổi, vui vẻ, luôn nở một nụ cười thật lớn đầy hào hứng; dễ dàng giao tiếp với mọi người nhiều ngang mức cô cẩn trọng trong giao tiếp với mọi người. “Anh ấy rất trẻ, đầy tự tin và hết sức điển trai”, Eleanor nhớ lại, “còn tôi thì nhút nhát, rụt rè, vụng về lúng túng, và luôn run lên vì phấn khích mỗi khi được anh ấy mời khiêu vũ”.
Cũng cùng lúc đó, nhiều người bảo Eleanor rằng Franklin không đủ tốt để xứng với cô. Một số người nhìn ông như một kẻ tầm thường, một học giả không có gì nổi trội, một kẻ chỉ thích theo đuổi những thứ lông bông phù phiếm. Và bất chấp việc Eleanor tự đánh giá bản thân của mình thấp đến đâu, cô cũng không hề thiếu những người ngưỡng mộ luôn trân trọng sự nghiêm túc của cô. Một vài trong số những người theo đuổi cô đã viết những lá thư chúc mừng “hằn học” tới Franklin khi anh cuối cùng cũng giành được trái tim cô. “Tôi dành nhiều kính trọng và ngưỡng mộ cho Eleanor hơn với bất cứ người con gái nào tôi từng gặp”, một người viết thư viết. “Ông thật vô cùng may mắn. Người vợ tương lai của ông là một thứ vinh hạnh cao quý ít người đàn ông nào được có”, một lá thư khác viết.
Nhưng những ý kiến của xã hội chẳng có ý nghĩa gì với Franklin và Eleanor. Mỗi người đều có những sức mạnh mà người kia hằng mong muốn—sự cảm thông của cô, sự dũng cảm của anh. “E là một Thiên thần”, Franklin đã viết như vậy trong cuốn nhật ký của ông. Khi cô chấp nhận lời cầu hôn của ông vào năm 1903, ông đã công khai tuyên bố rằng ông là người đàn ông hạnh phúc nhất trên đời. Họ cưới nhau vào năm 1905 và có tới sáu người con.
Bất chấp sự hoan hỉ về hôn ước của họ, sự khác biệt giữa hai người đã gây ra rắc rối ngay từ những ngày đầu tiên. Eleanor luôn khát khao những cuộc nói chuyện thân tình và sâu sắc; ông thì thích những buổi tiệc, hẹn hò, tán tỉnh và buôn chuyện. Người đàn ông đã từng tuyên bố rằng ông không có gì để sợ cả ngoại trừ chính nỗi sợ, đã không thể nào hiểu nổi nỗi khổ sở của vợ ông với chứng rụt rè. Khi Franklin được bổ nhiệm chức phó tổng thư ký (assistant secretary) của Hải quân Mỹ vào năm 1913, nhịp độ trong đời sống giao tiếp xã hội của ông còn nhanh đến chóng mặt hơn nữa, và những địa điểm thì giàu sang hơn nữa—những câu lạc bộ tư dành riêng cho giới quý tộc, những tòa biệt thự lộng lẫy của những người bạn Harvard của ông. Ông chè chén tiệc tùng muộn hơn và muộn hơn nữa hàng tối. Eleanor thì trở về nhà càng lúc càng sớm hơn.
Trong lúc đó, Eleanor cũng có một lịch làm việc bận rộn đầy kín những hoạt động xã hội. Bà được mong chờ phải tới thăm các phu nhân của những người có tên tuổi lớn tại Washington khác, trao lại danh thiếp tại cửa nhà họ, và tổ chức những buổi tiếp đón lại họ tại chính nhà mình. Bà không hề ưa thích gì vai trò này, bởi vậy bà thuê một viên thư ký xã hội tên Lucy Mercer để giúp bà. Một ý tưởng có vẻ rất tốt—cho đến mùa hè năm 1917, khi Eleanor đưa bọn trẻ tới Maine để nghỉ hè, để Franklin lại Washington một mình với Mercer. Hai người họ bắt đầu một cuộc ngoại tình kéo dài suốt nhiều năm. Lucy chính xác là dạng người đẹp đầy tự tin mà Franklin đã kỳ vọng sẽ cưới ngay từ đầu.
Eleanor chỉ phát hiện ra sự phản bội của Franklin khi bà bất ngờ tìm thấy một gói thư tình trong valy của ông. Bà đã cực kỳ sốc và suy sụp, nhưng vẫn giữ nguyên cuộc hôn nhân với Franklin. Và mặc dù họ không bao giờ nhóm lại được ngọn lửa tình yêu trong mối quan hệ của mình nữa, bà và Franklin đã thay thế nó với một thứ rất đáng gờm: một liên minh giữa sự tự tin của ông và lương tâm của bà.
Tua nhanh đến thời điểm hiện tại, nơi chúng ta sẽ gặp một người phụ nữ khác với tính cách tương tự, hành động theo cảm giác lương tâm của riêng mình. Tiến sĩ Elaine Aron là một nhà nghiên cứu tâm lý học mà, kể từ công trình khoa học đầu tiên của bà được xuất bản năm 1997, đã một mình định hình lại thứ Jerome Kagan và những người khác gọi là “mức độ phản ứng cao” (và đôi lúc là “mức độ tiêu cực” hay “mức độ lo sợ”). Bà gọi nó là “mức độ nhạy cảm” (“sensitivity”), và cùng với cái tên mới bà đặt cho tính cách này, bà còn giúp cải biến và làm sâu sắc hơn những hiểu biết của chúng ta về nó nữa.
Khi tôi nghe được tin rằng Aron sẽ là diễn giả chính trong một buổi gặp-mặt-cuối-tuần hàng năm của “những người đặc biệt nhạy cảm” tại điền trang Walker Creek Ranch, hạt Marin, California; tôi nhanh chóng đặt vé máy bay. Jacquelyn Strickland, một nhà trị liệu tâm lý, chủ nhà và cũng là người sáng lập sự kiện này, giải thích rằng bà tạo ra những buổi cuối tuần này để những người nhạy cảm có thể thu được lợi ích từ việc ở bên những người giống mình. Bà gửi tôi một lịch trình làm việc, giải thích rằng chúng tôi sẽ ngủ trong những căn phòng được thiết kế “để ngủ, để viết nhật ký, để thủng thẳng từ tốn, để thiền, để sắp xếp tổ chức, để viết lách, và để suy ngẫm”.
“Xin hãy giao tiếp thật tĩnh lặng trong phòng của bạn (với sự đồng ý từ bạn cùng phòng của bạn), hoặc được khuyến khích hơn là trong những khu vực nhóm vào lúc đi dạo, hoặc vào những bữa ăn”, tờ lịch trình làm việc viết. Buổi hội thảo được nhắm vào những người thích các cuộc thảo luận có ý nghĩa và đôi lúc “đưa một cuộc trò chuyện tới một mức sâu sắc hơn, chỉ để tìm ra được rằng chúng ta là những kẻ duy nhất ở đó”. Sẽ có vô khối thời gian cho những cuộc nói chuyện nghiêm túc vào cuối tuần này, chúng tôi được đảm bảo vậy. Nhưng chúng tôi cũng đồng thời được tự do đến và đi khi nào tùy thích.
Strickland biết rằng phần lớn chúng tôi đều đã phải trải qua cả một đời toàn những hoạt động nhóm bắt buộc, và bà muốn giới thiệu cho chúng tôi một hình thức khác, cho dù chỉ là trong một vài ngày.
Điền trang Walker Creek Ranch trải dài trên gần 7 km2 vùng đất hoang vắng tại Bắc California. Nơi đây mời chào bạn với những con đường đi bộ, với môi trường hoang dã và bầu trời rộng lớn trong vắt, nhưng ở trung tâm của nó là trung tâm hội thảo ấm cúng, như một trang trại, nơi khoảng ba mươi người chúng tôi tụ tập vào một buổi chiều thứ Năm giữa tháng Sáu. The Buckeye Lodge, tên trung tâm hội thảo này, được phủ kín với thảm công nghiệp màu xám, những chiếc bảng trắng lớn, và những khung cửa sổ mở rộng nhìn ra những khu rừng gỗ đỏ ngập nắng. Bên cạnh những chồng đơn xin gia nhập cùng những bảng tên quen thuộc, còn có một bảng giấy lật flipchart lớn, nơi chúng tôi được yêu cầu ghi lên đó tên mình cùng loại tính cách của mình dựa theo bài trắc nghiệm Myers-Briggs. Tôi quét mắt nhanh một lượt qua cả danh sách. Tất cả mọi người đều là người hướng nội, ngoại trừ Strickland, người có một tính cách rất ấm áp, thân thiện, và diễn cảm. (Dựa trên nghiên cứu của của Aron, đại đa số, tuy không phải tất cả, người nhạy cảm đều là người hướng nội).
Tất cả bàn và ghế ở trong phòng đều được quây thành những khối vuông lớn để tất cả chúng tôi đều có thể ngồi mặt đối mặt với nhau. Strickland mời chúng tôi—tham gia hay không đều không bắt buộc— chia sẻ về việc điều gì đã khiến chúng tôi tới đây. Một kỹ sư phần mềm tên Tom bắt đầu trước, kể lại với sự say mê mãnh liệt về cảm giác nhẹ nhõm của anh khi nhận ra rằng có một “nền tảng sinh lý học cho nét tính cách nhạy cảm này. Đây là các nghiên cứu đây! Đây là tôi đây! Tôi không cần phải cố gắng đáp ứng kỳ vọng của bất cứ ai nữa. Tôi không cần phải cảm thấy tội lỗi hay gì nữa rồi”. Với khuôn mặt dài, hẹp của mình, mái tóc nâu và bộ râu cùng màu, Tom gợi tôi nhớ đến Abraham Lincoln. Anh giới thiệu với chúng tôi người vợ mình, người nói về việc cô và Tom hợp nhau đến đâu, và việc làm thể nào cùng nhau, hai người họ đã tình cờ biết về công trình nghiên cứu của tiến sĩ Aron.
Khi đến lượt tôi, tôi nói về việc tôi chưa bao giờ được ở trong một môi trường nhóm mà ở đó tôi không cảm thấy bắt buộc phải thể hiện một phiên bản bạo-dạn-hùng-hổ không tự nhiên của chính mình. Tôi nói rằng tôi rất hứng thú với mối quan hệ giữa tính hướng nội và sự nhạy cảm. Rất nhiều người gật đầu.
Đến sáng Thứ Bảy, Tiến sĩ Aron xuất hiện tại trung tâm Buckeye Lodge. Bà đợi một cách thoải mái phía sau một giá vẽ đỡ một bảng giấy lật flipchart trong khi Strickland giới thiệu bà với các khán giả. Rồi bà xuất hiện với nụ cười rạng rỡ—ta-da!—từ phía sau chiếc giá vẽ, ăn bận trang nhã với áo khoác gió, áo chui đầu, và áo nhung kẻ. Bà có mái tóc màu nâu ngắn, nhẹ và mềm; cùng đôi mắt xanh trông như thể chúng không bỏ sót dù chỉ một chi tiết nào. Bạn có thể thấy ngay lập tức người học giả được nể trọng Aron của ngày hôm nay; cũng như cả cô bé học sinh lúng túng, ngượng nghịu mà bà hẳn đã từng một thời là. Bạn cũng có thể thấy cả lòng tôn trọng bà dành cho các khán giả nữa.
Đi ngay vào công việc, bà thông báo với chúng tôi rằng bà có năm chủ đề nhỏ khác nhau bà muốn thảo luận, và yêu cầu chúng tôi giơ tay để bầu chọn cho chủ đề chúng tôi muốn thảo luận nhất, muốn thảo luận nhiều thứ hai, và nhiều thứ ba. Sau đó bà thể hiện, nhanh như chớp, một thao tác tính toán phức tạp để quyết định xem đâu là ba chủ đề nhỏ chúng tôi đã cùng chọn nhiều nhất. Đám đông nhất trí rất hòa nhã. Thực sự không quan trọng chủ đề nào đã được chọn, chúng tôi biết rằng Aron ở đây để nói về sự nhạy cảm, và rằng bà đang cân nhắc đến cả ý kiến của người nghe như chúng tôi nữa.
Một số nhà tâm lý học tạo tên tuổi của mình bằng cách tiến hành những nghiên cứu kỳ lạ. Cống hiến của Aron là ở việc đã nghĩ khác, khác một cách cực kỳ mới lạ, về những nghiên cứu mà những người khác đã làm. Khi còn là một cô bé, Aron thường được bảo là bà “quá nhạy cảm để sống tốt được”. Bà có hai người anh chị rất mạnh mẽ, và là đứa trẻ duy nhất trong nhà thích mơ mộng, thích chơi trong nhà, và dễ bị tổn thương cảm xúc. Khi bà lớn lên dần và bắt đầu bước xa dần khỏi quỹ đạo của gia đình, bà tiếp tục phát hiện ra có nhiều thứ ở bản thân bà khác biệt với tiêu chuẩn chung. Bà có thể lái xe một mình hàng giờ đồng hồ mà không bao giờ cần bật radio lên. Bà có những giấc mơ rất mạnh, đôi lúc ám ảnh, mỗi tối. Bà “dễ có xúc cảm mạnh mẽ đến kỳ lạ”, và thường xuyên bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc mạnh, cả tích cực lẫn tiêu cực. Bà gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thứ thực sự quan trọng với mình trong cuộc sống hàng ngày; nó có vẻ chỉ ở đó khi bà rút lui khỏi thế giới ngoài kia.
Aron lớn lên, trở thành một nhà tâm lý học, và cưới một người đàn ông mạnh mẽ rất yêu ở bà những đức tính đó. Với chồng bà, Art, Aron là con người sáng tạo, có trực giác mạnh, và là một người biết tư duy sâu sắc. Bà cũng rất trân trọng những điều này ở chính mình nữa, nhưng nhìn chúng như “một vẻ bên ngoài chấp nhận được cho một khuyết điểm vô cùng kinh khủng ẩn sâu bên dưới mà tôi đã nhận ra trong suốt cả đời mình”. Bà nghĩ rằng quả thực là một phép màu kỳ diệu khi Art vẫn yêu bà bất chấp khuyết điểm này.
Nhưng khi một nhà tâm lý học đồng nghiệp, một cách rất tự nhiên, đã miêu tả Aron là “đặc biệt nhạy cảm”, một tia sáng lóe lên trong đầu bà. Cứ như thể hai từ này đã diễn tả sai lầm khuyết điểm bí ẩn của bà vậy, chỉ trừ có việc là nhà tâm lý học kia không hề ám chỉ đến một khuyết điểm nào hết. Đó chỉ là một lời miêu tả rất trung tính mà thôi.
Aron nghiền ngẫm về khám phá mới này, và rồi bỏ công nghiên cứu về một nét tính cách vẫn được gọi là “sự nhạy cảm” (sensitivity). Không tìm được gì mấy, do vậy bà đọc lại những nghiên cứu về tính hướng nội, thứ có vẻ đặc biệt liên quan đến chủ đề của bà: các công trình của Kagan về những đứa trẻ có-mức-độ-phản-ứng-cao, và hàng loạt cách thí nghiệm về việc người hướng nội có xu hướng nhạy cảm hơn với các kích thích từ giao tiếp xã hội cũng như từ các giác quan. Những nghiên cứu này cho bà thấy dấu hiệu của thứ bà đang tìm kiếm, nhưng Aron nghĩ rằng hẳn phải có một miếng ghép chưa tìm thấy trong bức chân dung đang hiện dần lên về người hướng nội.
“Vấn đề của các nhà khoa học, đấy là chúng tôi luôn cố quan sát các hành vi, và đây lại là những thứ anh không thể quan sát được”, bà giải thích. Các nhà khoa học có thể dễ dàng báo cáo lại về hành vi của những người hướng ngoại, những người thường có thể được tìm thấy đang cười lớn, nói to và khoa tay múa chân thoải mái trong những bữa tiệc. Nhưng “nếu một người đang đứng một mình trong một góc của căn phòng, bạn thường có thể chỉ ra đến mười lăm lý do khác nhau cho hành động của người đó. Nhưng bạn không thực sự biết được điều gì đang diễn ra bên trong họ”.
Ấy vậy nhưng các hành vi bên trong thì vẫn là các hành vi, Aron nghĩ, kể cả khi chúng rất khó để xác định. Vậy đâu là hành vi bên trong của những người mà đặc điểm bên ngoài thấy rõ nhất của họ chỉ là khi bạn đưa họ tới một bữa tiệc, họ tỏ ra không hứng thú gì với nó cho lắm? Bà quyết định phải tìm hiểu cho ra.
Trước tiên Aron phỏng vấn ba mươi chín người tự miêu tả mình là hoặc người hướng nội, hoặc rất dễ bị quá tải bởi các kích thích từ bên ngoài. Bà hỏi họ về những bộ phim mà họ yêu thích, những ký ức đầu tiên của họ, mối quan hệ của họ với cha mẹ, tình bạn, cuộc sống yêu đương, các hoạt động sáng tạo, quan điểm triết học và tôn giáo của họ. Dựa trên các cuộc phỏng vấn này, bà tạo ra một bảng câu hỏi điều tra rất nhiều và chi tiết để sau đó bà phát cho nhiều nhóm lớn hơn. Sau đó bà tóm gọn các câu trả lời khác nhau của họ xuống thành một tập hợp hai mươi bảy thuộc tính cơ bản. Bà gọi tên những người có những nét thuộc tính này là “đặc biệt nhạy cảm” (“highly sensitive”).
Một số trong hai mươi bảy thuộc tính này đã rất quen thuộc từ công trình của Kagan và những người khác. Ví dụ, những người đặc biệt nhạy cảm thường là những kẻ quan sát rất chăm chú, luôn “nhìn trước khi họ nhảy”. Họ sắp xếp cuộc sống của mình theo cách giới hạn ít nhất những sự bất ngờ. Họ thường nhạy cảm với các hình ảnh, âm thanh, mùi hương, cảm giác đau đớn, và cả cà phê. Họ gặp khó khăn với việc bị theo dõi (ví dụ, ở chỗ làm chẳng hạn, hay khi biểu diễn ở một buổi biếu diễn âm nhạc), hoặc với việc bị đánh giá mức độ xứng đáng (ví dụ hẹn hò, phỏng vấn xin việc, vv...)
Nhưng đồng thời cũng có những phát hiện mới. Người đặc biệt nhạy cảm thường có định hướng triết học hoặc tâm linh, hơn là định hướng vật chất hay chủ nghĩa khoái lạc. Họ ghét nói chuyện phiếm. Họ thường tự miêu tả bản thân là sáng tạo hoặc có trực giác tốt (hệt như những gì chồng của Aron đã miêu tả về bà). Họ mơ những giấc mơ rất rõ ràng, và thường có thể nhớ lại những giấc mơ của họ vào sáng hôm sau. Họ thích âm nhạc, thiên nhiên, nghệ thuật, và vẻ đẹp thể xác. Họ cảm giác những xúc cảm cực kỳ mạnh—đôi lúc những khoảnh khắc ngập tràn niềm vui, nhưng cũng có cả nỗi buồn, sầu thảm, và cả sự sợ hãi nữa.
Những người đặc biệt nhạy cảm cũng đồng thời xử lý thông tin về môi trường xung quanh họ—cả về vật chất và tình cảm—một cách sâu sắc đến khác thường. Họ thường có xu hướng để ý thấy những chi tiết rất nhỏ mà người khác thường bỏ qua—một sự thay đổi nhỏ trong tâm trạng của một người chẳng hạn, hay một bóng đèn điện hơi một chút quá sáng.
Gần đây, một nhóm các nhà khoa học tại Đại học Stony Brook đã thử nghiệm khám phá này bằng cách đưa hai cặp bức ảnh (về một cái hàng rào hay một vài búi rơm) cho mười tám người khi họ đang nằm trong máy fMRI. Ở một cặp ảnh, các bức ảnh khác nhau thấy rõ, và ở một cặp khác sự khác nhau chỉ là rất nhỏ. Với mỗi cặp, các nhà khoa học đều hỏi các tình nguyện viên liệu tấm ảnh thứ hai có giống tấm ảnh thứ nhất không. Họ phát hiện ra rằng những người nhạy cảm dành nhiều thời gian hơn những người khác khi nhìn các bức ảnh với sự khác biệt nhỏ. Não của họ cũng đồng thời thể hiện nhiều hoạt động hơn tại những vùng giúp liên kết các hình ảnh này với các thông tin được lưu trữ khác. Nói một cách khác, những người nhạy cảm xử lý những bức ảnh này ở một mức độ phức tạp cao hơn nhiều so với các đồng bạn của họ, suy ngẫm nhiều hơn về những cột hàng rào hay những đống rơm này.
Nghiên cứu này còn rất mới, và những kết luận của nó còn cần được lặp lại và khám phá thêm trong nhiều bối cảnh khác. Nhưng nó cũng vọng lại những khám phá của Kagan về các học sinh lớp Một dành nhiều thời gian hơn những người bạn của chúng để so sánh giữa các lựa chọn khi chúng chơi trò ghép hình hoặc đọc những từ ngữ lạ. Và nó gợi ý, theo lời của Jadzia Jagiellowicz, nhà khoa học hàng đầu ở Stony Brook, rằng loại người nhạy cảm nghĩ theo một phong cách phức tạp đến khác thường. “Nếu bạn nghĩ theo những cách phức tạp hơn”, bà bảo với tôi, “vậy thì nói chuyện về thời tiết hay bạn vừa đi đâu vào kỳ nghỉ vừa rồi rõ ràng không hấp dẫn bằng nói về giá trị của đạo đức”.
Một điều khác nữa Aron đã tìm thấy, đấy là những người nhạy cảm đôi lúc đặc biệt cảm thông. Như thể họ có rào cản mỏng hơn nhiều ngăn cách giữa họ với cảm xúc của những người khác và với những bi kịch và sự tàn nhẫn của thế giới này. Họ thường có một lương tâm mạnh mẽ khác thường. Họ tránh những bộ phim và chương trình tivi nhiều bạo lực; họ có nhận thức rất mạnh về hậu quả của mỗi lỗi lầm nhỏ trong hành động của họ. Trong những bối cảnh giao tiếp, họ thường chú trọng mạnh vào những chủ đề như các rắc rối cá nhân, những thứ mà những người khác sẽ thường coi là “quá nặng nề”.
Aron nhận ra rằng bà đang tiến đến một thứ rất lớn. Rất nhiều trong số các đặc tính của người nhạy cảm mà bà đã nhận diện được—như tính cảm thông và sự phản ứng nhiệt tình với cái đẹp—được các nhà tâm lý học tin rằng là các đặc tính của những loại tính cách khác như “mức độ dễ chịu” (agreeableness) hay “cởi mở với các trải nghiệm” (openness to experience). Nhưng Aron đã thấy rằng chúng đồng thời cũng là một thành phần cơ bản của sự nhạy cảm. Những khám phá của bà đã ngầm thách thức những chủ nghĩa đã được chấp nhận từ trước trong tâm lý học tính cách.
Bà bắt đầu xuất bản các kết quả thu được trong báo cáo khoa học và các cuốn sách của mình, cũng như diễn thuyết về các công trình của mình. Lúc đầu điều này rất khó khăn. Các khán giả nói với bà rằng ý tưởng của bà rất cuốn hút, nhưng cách diễn thuyết thiếu tự tin của bà làm họ khó tập trung. Nhưng Aron có một ham muốn rất lớn được đưa thông điệp của mình tới với mọi người. Bà vẫn tiếp tục cố gắng, và học cách để nói với uy quyền như bà có. Đến thời điểm tôi được gặp bà tại Walker Creek Ranch, bà đã hoàn toàn thành thục, tự tin, và hoàn toàn chắc chắn. Sự khác biệt duy nhất giữa bà và người diễn giả quen thuộc của bạn, đấy là ở việc bà tận tâm đến đâu trong việc trả lời từng câu hỏi của khán giả. Bà nấn ná ở lại lâu hơn với nhóm, mặc dù với việc là một người hết sức hướng nội, hẳn bà đã phải cực kỳ muốn được về nhà ngay lập tức.
Lời miêu tả của Aron về những người đặc biệt nhạy cảm nghe có vẻ như đang nói về chính Eleanor Roosevelt. Thực vậy, trong những năm tháng khi Aron lần đầu tiên xuất bản những công trình của mình, các nhà khoa học đã tìm ra được rằng khi bạn cho những người có những gen di truyền thường được gắn với tính nhạy cảm và tính hướng nội (những người với các biến thể gen 5-HTTLPR như đã nhắc đến ở loài khỉ rhesus ở chương 3) vào trong máy fMRI, và cho họ xem những bức ảnh về các khuôn mặt sứt sẹo, những nạn nhân các vụ tai nạn, những thân thể bị xé xác, hay những cảnh tượng thiên nhiên bị ô nhiễm, thùy hạnh nhân—phần não đóng một vai trò quan trọng trong việc xử lý cảm xúc—lập tức được kích hoạt cực kỳ mạnh mẽ. Aron và một nhóm các nhà khoa học cũng đồng thời tìm thấy được rằng khi những người nhạy cảm nhìn thấy những khuôn mặt người đang thể hiện những trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, họ bị kích hoạt mạnh mẽ hơn so với những người khác trong những khu vực não liên kết với sự cảm thông và khả năng điều khiển những cảm xúc.
Như thể là, cũng như Eleanor Roosevelt, họ không thể không cảm thấy những gì mà người khác đang phải cảm thấy.
Vào năm 1921, FDR mắc phải căn bệnh bại liệt. Đó là một cú giáng khủng khiếp, và ông đã cân nhắc đến việc sẽ về nghỉ hưu tại vùng nông thôn như một người tàn phế. Nhưng Eleanor đã giúp giữ các mối liên lạc của ông với Đảng Dân Chủ trong khi ông bình phục, bà thậm chí còn đồng ý phát biểu tại một buổi tiệc gây quỹ. Eleanor rất sợ phải nói trước đám đông, và cũng không hề giỏi việc đấy một chút nào—bà có giọng nói rất cao, lại hay cười lớn kiểu rất căng thẳng vào toàn những lúc không thích hợp. Nhưng bà đã bỏ công sức tập luyện để cho sự kiện này, và đã xoay sở thành công với bài diễn thuyết.
Sau lần đó, Eleanor vẫn không cảm thấy chắc chắn gì hơn vào bản thân mình, nhưng bà bắt đầu hoạt động để thay đổi những thực trạng xã hội mà bà thấy xung quanh mình. Bà trở thành tiếng nói tranh đấu cho các vấn đề về quyền phụ nữ, và bắt tay liên minh với những người có đầu-óc-nghiêm-túc khác. Đến năm 1928, khi FDR được bầu làm Thống đốc Tiểu bang New York, bà đã là giám đốc Văn phòng về Hoạt động của Phụ nữ cho Đảng Dân Chủ, và là một trong số những phụ nữ quyền lực nhất trên chính trường Mỹ lúc bấy giờ. Bà và Franklin giờ đã là một mối liên kết hợp tác chặt chẽ và vô cùng hiệu quả giữa khả năng ứng xử khôn khéo của ông và lương tâm xã hội của bà. “Tôi biết về tình trạng xã hội, có lẽ còn biết rõ hơn cả ông ấy nữa”, Eleanor kể lại với sự khiêm tốn quen thuộc của mình. “Nhưng ông ấy thì lại hiểu rõ về chính phủ, và cách làm thế nào bạn có thể dùng chính phủ để cải thiện mọi thứ. Và tôi nghĩ chúng tôi đã bắt đầu hiểu dần cách làm việc đồng đội”.
FDR được bầu làm tổng thống vào năm 1933. Đó là thời kỳ đỉnh cao của cuộc Khủng hoảng, và Eleanor đã đi khắp đất nước—trong vòng chỉ một chuyến đi kéo dài ba tháng, bà đã hành trình đến hơn 40.000 dặm—để nghe những người dân thường kể lại những câu chuyện gian khó của họ. Mọi người cởi mở với bà theo những cách mà họ chưa bao giờ làm với một nhân vật có uy quyền nào trước đây. Bà đã trở thành tiếng nói từ những người bị tước đoạt tài sản tới Franklin. Khi bà trở về từ những chuyến đi của mình, bà thường kể lại với ông những gì mình đã nhìn thấy, và ép ông phải hành động. Bà đã giúp điều phối các chương trình chính phủ cho những công nhân đào mỏ khốn khổ đã gần-như-chết-đói tại Appalachia. Bà thúc giục FDR phải đưa cả phụ nữ và cư dân Mỹ gốc Phi vào những chương trình thúc đẩy lao động của ông. Và bà đã giúp sắp xếp để Marian Anderson được hát tại Đài tưởng niệm Lincoln. “Bà ấy luôn giữ cho ông ấy ở một mức tiêu chuẩn rất cao. Tất cả những ai đã từng nhìn thấy bà nhìn thẳng vào mắt ông và nói ‘Nào, Franklin, anh nên….’ đều sẽ không bao giờ có thể quên được điều đó”.
Người phụ nữ trẻ rụt rè, nhút nhát từng rất sợ nói trước đám đông ngày nào đã dần biết cách yêu cuộc sống xã hội. Eleanor Roosevelt trở thành vị Đệ Nhất Phu Nhân đầu tiên tổ chức một buổi họp báo, phát biểu tại một hội nghị chính trị cấp quốc gia, viết cho một chuyên mục báo, và xuất hiện trên hàng loạt các chương trình phát thanh. Về sau này trong sự nghiệp của mình, bà đã đảm nhiệm cả chức vụ người đại diện cho nước Mỹ tại Liên Hợp Quốc, nơi bà dùng thương hiệu kỳ lạ của cả những kỹ năng chính trị lẫn sự kiên trì đến cùng của mình để giúp thông qua Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền Con Người.
Bà chưa bao giờ có thể vượt qua hoàn toàn sự nhút nhát, dễ tổn thương của mình; cả cuộc đời bà đã phải chịu đựng thứ “tâm trạng Griselda” đen tối, như bà tự gọi nó như vậy (lấy theo tên một công chúa thời trung cổ, người đã lẩn sâu vào trong nơi yên lặng), và chật vật để “phát triển một vẻ bề ngoài cứng rắn như da tê giác”. “Tôi nghĩ những người rụt rè nhút nhát sẽ vẫn luôn rụt rè nhút nhát, nhưng họ có thể học cách để vượt qua chúng”, bà nói. Nhưng có lẽ chính sự nhạy cảm này đã giúp bà có thể dễ dàng liên hệ bản thân với những người bị tước đoạt nhân quyền, và cho bà lương tâm đủ mạnh để đứng lên đấu tranh đại diện cho họ. FDR, người được bầu cử vào thời điểm đầu của cuộc Khủng hoảng, được nhớ đến bởi lòng trắc ẩn của mình. Nhưng chính Eleanor là người đã đảm bảo rằng ông biết được người dân Mỹ đang phải chịu đựng khổ sở ra sao.
Mối liên hệ giữa tính nhạy cảm và lương tâm đã được phát hiện và quan sát từ khá lâu. Hãy xem xét thí nghiệm sau đây, tiến hành bởi nhà tâm lý học phát triển (developmental psychologist) Grazyna Kochanska. Một người phụ nữ tốt bụng đưa một món đồ chơi cho một đứa bé, giải thích với nó rằng đứa trẻ cần phải rất cẩn thận với món đồ chơi bởi đây là một thứ mà người phụ nữ rất yêu thích. Đứa trẻ gật đầu nghiêm túc đồng ý, và bắt đầu chơi với món đồ. Không lâu sau đó, theo điều khiển bí mật của những người làm thí nghiệm, món đồ chơi sẽ tự động gãy tan thành hai mảnh.
Người phụ nữ tỏ vẻ rất buồn bã và kêu lên: “Ôi không!”. Sau đó cô ấy sẽ đợi xem đứa trẻ sẽ phản ứng như thế nào.
Một số đứa trẻ, hóa ra, lại cảm thấy tội lỗi hơn nhiều so với những đứa trẻ khác về “tội lỗi” của chúng. Chúng quay mặt đi, tự ôm lấy mình, lắp bắp thú tội, giấu mặt đi. Và chính những đứa trẻ chúng ta coi là nhạy cảm nhất, có-mức-độ-phản-ứng cao nhất, những đứa có khả năng cao là người hướng nội, là những người cảm thấy tội lỗi nhất. Vì nhạy cảm đến khác thường với mọi loại trải nghiệm, cả tích cực lẫn tiêu cực, chúng có vẻ cảm thấy cả nỗi buồn của người phụ nữ khi món đồ chơi bị phá hỏng, lẫn cả nỗi lo lắng của chính mình khi đã làm một điều xấu. (Trong trường hợp bạn đang thắc mắc, người phụ nữ trong thí nghiệm đã nhanh chóng quay lại căn phòng với món đồ chơi “đã được sửa” và trấn an đứa trẻ rằng nó không có làm gì sai hết).
Trong nền văn hóa của chúng ta, “cảm giác tội lỗi” là một từ có nghĩa xấu, nhưng nó có lẽ lại là một trong những nền tảng căn bản cho việc xây dựng lương tâm. Nỗi lo lắng mà những em bé rất nhạy cảm này đã cảm thấy khi chúng (có vẻ) đã phá hỏng món đồ chơi cho chúng một động lực mạnh mẽ để không làm hỏng món đồ chơi của bất cứ người nào khác trong tương lai nữa. Khi lên bốn tuổi, theo Kochanska, chính những đứa trẻ này sẽ ít có xu hướng gian lận hay vi phạm luật lệ hơn các đồng bạn khác, kể cả khi chúng nghĩ chúng không thể bị bắt. Khi lên đến khoảng sáu hay bảy tuổi, chúng thường sẽ được cha mẹ mình miêu tả là có những dấu hiệu thể hiện mức độ đạo đức cao, chẳng hạn như lòng trắc ẩn. Chúng đồng thời cũng có ít những rắc rối về hành vi khác nói chung.
“Những cảm giác tội lỗi vừa đủ, thực tế”, Kochanska viết, “có thể giúp thúc đẩy trong tương lai lòng vị tha, tinh thần trách nhiệm cá nhân, cách ứng xử linh hoạt nơi trường học, và sự hòa thuận, khả năng cao, có mối quan hệ tốt với cha mẹ, thầy cô và bạn bè”. Đây là một bộ những đặc điểm tính cách cực kỳ quan trọng, nhất là ở vào thời điểm mà, như một nghiên cứu mà Đại học Michigan tiến hành năm 2010 đã chỉ ra: sinh viên đại học ngày nay ít cảm thông hơn tới 40% so với thế hệ của 30 năm trước, với những sự sụt giảm lớn nhất xảy ra từ sau năm 2000. (Các tác giả của nghiên cứu này đã suy đoán rằng sự suy giảm trong lòng cảm thông có liên hệ với sự thịnh hành của các phương tiện truyền thông xã hội, truyền hình thực tế, và một “tinh thần cạnh tranh siêu mạnh”).
Tất nhiên, có những đặc điểm này không có nghĩa là những đứa trẻ nhạy cảm là những thiên thần. Chúng cũng có những nét ích kỷ như mọi người khác vậy. Đôi lúc chúng hành động xa lánh hay thiếu thân thiện. Và khi chúng bị quá tải bởi những cảm xúc tiêu cực như sự hổ thẹn hay cảm giác lo sợ, Aron nói, chúng có thể hờ hững đến đáng ngạc nhiên với nhu cầu của những người khác.
Nhưng cũng chính khả năng dễ tiếp nhận trải nghiệm đó, thứ có thể khiến cuộc sống của những người nhạy cảm cao khó khăn đến thế nào, cũng đồng thời giúp xây dựng lương tâm cho họ. Aron kể câu chuyện về một thiếu niên nhạy cảm đã thuyết phục mẹ mình giúp đỡ một người vô gia cư mà cậu bé đã gặp trong công viên, và về một cô bé tám tuổi khác đã khóc không chỉ khi chính mình cảm thấy xấu hổ, mà còn cả khi các bạn của cô bị trêu chọc nữa.
Chúng ta đều biết rất rõ về kiểu người này qua các tác phẩm văn học, có lẽ là bởi rất nhiều các nhà văn bản thân họ cũng là những người hướng nội và nhạy cảm. Anh ấy “đã trải qua cuộc sống với ít hơn một lớp da so với phần lớn mọi người đàn ông khác”, tiểu thuyết gia Eric Malpass đã viết như vậy về nhân vật chính trầm lặng và thích suy nghĩ của ông, người đồng thời cũng là một nhà văn, trong cuốn tiểu thuyết “The Long Long Dances”. “Những rắc rối của những người khác tác động tới anh nhiều hơn, và cả vẻ đẹp náo nhiệt của cuộc sống nữa: tác động tới anh, thúc đẩy anh phải cầm lấy một cây bút và viết về chúng. [Anh bị tác động mãnh liệt khi] rảo bước trên những ngọn đồi, khi nghe một khúc nhạc của Schubert, và khi phải chứng kiến hàng đêm từ chiếc ghế bành của mình những cảnh đầu rơi máu chảy vẫn đầy rẫy trên những bản tin tivi lúc chín giờ”.
Lời miêu tả về những đặc điểm như da-mỏng-hơn-một-lớp (thin-skinned) này tất nhiên có nhiều ý nghĩa ẩn dụ, nhưng nó hóa ra còn khá là thực tế nữa. Một trong số những thí nghiệm các nhà nghiên cứu đã dùng để đo đạc các nét tính cách là thí nghiệm về mức độ dẫn truyền của da, trong đó họ ghi lại việc con người ra mồ hôi nhiều đến đâu khi phải tiếp xúc với tiếng ồn, những cảm xúc mạnh mẽ, cũng như những tác nhân kích thích khác. Những người hướng nội có-mức-độ-phản-ứng-cao ra mồ hôi nhiều hơn, những người hướng ngoại có-mức-độ-phản-ứng-thấp ra mồ hôi ít hơn. Da của họ đúng thực tế là “dày hơn” thật, có thể miễn nhiễm cao hơn với các tác nhân kích thích, chạm vào cũng mát hơn (cool) nữa. Trên thực tế, ý tưởng về sự “cool” của chúng ta chính là đến từ chỗ này: bạn càng có-mức- độ-phản-ứng-thấp, bạn sẽ càng có nhiệt độ thấp (cool). (Tình cờ, những kẻ điên rồ/sociopaths nằm ở điểm cực xa nhất trên thang đo mức độ mát/cool này, với mức độ bị kích thích, độ dẫn truyền của da, và mức độ lo lắng cực kỳ thấp. Đây là một vài bằng chứng cho thấy những kẻ điên rồ/sociopaths là những kẻ có thùy hạnh nhân bị tổn thương).
Máy phát hiện nói dối (hay polygraph) có một phần là thí nghiệm mức độ dẫn truyền của da (skin conductance tests). Chúng hoạt động trên nguyên lý rằng nói dối tạo nên căng thẳng, làm kích hoạt làn da tiết mồ hôi ở những mức độ rất nhỏ. Khi tôi còn ở đại học, tôi đã xin một công việc làm thêm trong hè là làm thư ký cho một hãng trang sức lớn. Tôi phải tham gia một bài kiểm tra với máy phát hiện nói dối như một phần của quá trình xin việc. Bài kiểm tra được tổ chức trong một căn phòng nhỏ, thiếu ánh sáng, với sàn gỗ, và bởi một người đàn ông cao gầy, rít thuốc lá phì phèo với nước da vàng vàng. Người đàn ông hỏi tôi một chuỗi những câu hỏi để khởi động: tên tôi, địa chỉ của tôi, và cứ thế, để xác định mức độ dẫn truyền của làn da tôi trong điều kiện bình thường. Sau đó các câu hỏi bắt đầu đi sâu dần và thái độ của người điều hành kiểm tra bắt đầu gay gắt hơn. Tôi đã từng bị bắt bao giờ chưa? Tôi đã lấy cắp đồ trong siêu thị bao giờ chưa? Tôi có dùng cô-ca-in bao giờ chưa? Với câu hỏi cuối cùng này, người thẩm vấn nhìn xoáy vào mắt tôi rất chăm chú. Khi làm thí nghiệm này, tôi chưa bao giờ dùng cô-ca-in cả, nhưng ông ta có vẻ nghĩ là tôi đã từng. Ánh nhìn buộc tội trên khuôn mặt ông ta là một mẹo kinh điển của các nhân viên cảnh sát khi họ nói với đối tượng nghi vấn là họ đã có bằng chứng rõ rành rành rồi, và chẳng có ích lợi gì trong việc cố chối tội cả.
Tôi biết là người đàn ông này đã lầm, nhưng tôi vẫn đỏ mặt. Và hẳn nhiên, kết quả máy trả về cho thấy tôi đã nói dối ở câu hỏi về cô-ca-in. Làn da của tôi có vẻ mỏng đến nỗi nó tiết ra mồ hôi để phản ứng với cả những tội ác trong tưởng tượng!
Chúng ta thường vẫn nghĩ về sự cool với hình ảnh một người với đôi kính râm, một thái độ bất cần, và một ly rượu trên tay. Nhưng có lẽ chúng ta đã không chọn những đặc điểm này một cách ngẫu nhiên. Có lẽ chúng ta đã thâu nhận kính đen, thái độ thoải mái tự tin, và cả rượu như những tín hiệu thông báo chính xác là vì chúng giúp che giấu đi những dấu hiệu của một hệ thần kinh đang bị quá tải. Kính đen ngăn cản những khác nhìn thấy đôi mắt đang mở lớn vì bất ngờ và sợ hãi của chúng ta; chúng ta cũng đã biết từ các công trình của Kagan rằng một phần thân trên thoải mái là một dấu hiệu điển hình của một mức độ phản ứng thấp; và rượu giúp gỡ bỏ sự ngại ngần và làm giảm bớt mức độ bị kích thích của chúng ta. Khi bạn đi xem một trận đấu bóng và ai đó mời bạn một ly bia, nhà tâm lý học tính cách Brian Little nói, “tức là họ đang nói chào, dùng một ly ‘hướng ngoại’ đi này”.
Các thiếu niên tuổi teen hiểu rõ một cách bản năng về bản chất sinh học của “cool”. Trong cuốn tiểu thuyết “Prep” của Curtis Sittenfeld, một cuốn sách khám phá những nghi thức xã hội của tuổi vị thành niên trong môi trường trường học nội trú với sự chính xác đến đáng kinh ngạc, nhân vật chính, Lee, đã bất ngờ được mời đến phòng ký túc của Aspeth, cô gái cool nhất trường. Điều đầu tiên cô để ý thấy là thế giới của Aspeth nhiều kích thích đến như thế nào. “Ngay từ ngoài cửa, tôi đã có thể nghe thấy tiếng nhạc xập xình ồn ã”, cô quan sát. “Những dây đèn Giáng Sinh trắng, ngay lúc này đều đang được bật toàn bộ, dán cao dọc khắp những bức tường, và trên bức tường phía bắc họ treo một bức tranh khổng lồ màu cam và xanh lá cây... Tôi thấy như mình bị quá tải và hơi có chút khó chịu nữa. Căn phòng mà tôi ở cùng [bạn cùng phòng của tôi] có vẻ quá yên lặng và đơn giản, cuộc sống của chúng tôi có vẻ quá yên lặng và đơn giản. Có phải Aspeth sinh ra đã cool rồi hay không, tôi tự hỏi, hay có ai đó đã dạy cô ấy tất cả những điều này, như một người chị gái hay một người anh chị em họ nào đó chẳng hạn?”.
Nền văn hóa thể thao (jock cultures) cũng cảm nhận được bản chất sinh học về mức-độ-phản-ứng-thấp của sự “cool” nữa. Với các nhà du hành vũ trụ thời kỳ đầu, có một mức nhịp tim thấp, thứ được liên kết với mức độ phản ứng thấp, là một biểu tượng của địa vị. Trung úy (lieutenant) John Glenn, người Mỹ đầu tiên đã đi hết quỹ đạo vòng quanh Trái Đất và sau này còn tranh cử Tổng Thống, đã rất được các đồng đội của ông ngưỡng mộ bởi mức nhịp tim “siêu cool” của ông trong khi cất cánh (chỉ có 110 nhịp một phút).
Nhưng sự thiếu “cool” có thể có giá trị về mặt xã hội nhiều hơn là ta nghĩ. Cái đỏ mặt khi một nhà thẩm vấn dí mặt vào sát mặt bạn và hỏi liệu bạn đã dùng cô-ca-in bao giờ chưa đó, hóa ra lại là một dạng “chất kết dính xã hội” (social glue). Trong một thí nghiệm mới đây, một nhóm các nhà tâm lý học, dẫn đầu bởi Corine Dijk, đã yêu cầu khoảng sáu mươi người tham gia đọc hồ sơ ghi chép về những người đã làm một hành động sai trái về mặt đạo đức nào đó, như lái xe bỏ đi khỏi một vụ tai nạn, hay một việc gì đó đáng xấu hổ, như làm đổ cà phê lên quần áo ai đó. Những người tham gia được cho xem ảnh của những “thủ phạm”, những người trong các bức ảnh này sẽ có một trong bốn biểu hiện khác nhau sau: hổ thẹn hoặc xấu hổ (đầu và mắt hướng xuống); xấu hổ/hổ thẹn kèm đỏ mặt; bình thản; bình thản kèm đỏ mặt. Sau đó họ được yêu cầu đánh giá mức độ cảm thông và mức độ đáng tin tưởng của những người “thủ phạm” này.
Hóa ra những người thủ phạm mà đỏ mặt đều nhận được đánh giá tích cực hơn là những người không đỏ mặt. Đó là bởi vì sự đỏ mặt là dấu hiệu của sự lo lắng dành cho người khác. Như Dacher Keltner, một nhà tâm lý học tại Đại học California, Berkeley, người chuyên tập trung nghiên cứu các cảm xúc tích cực, đã nói trên tạp chí New York Times: “Một cái đỏ mặt xuất hiện ngay trong hai hoặc ba giây, và nói “Tôi có quan tâm; tôi biết mình vừa vi phạm một thỏa thuận giao tiếp”.
Trên thực tế, chính thứ mà mọi người có mức-độ-phản-ứng-cao ghét nhất về việc đỏ mặt—sự không thể điều khiển được của nó—lại chính là thứ khiến nó hữu dụng trong giao tiếp tới vậy. “Bởi vì không thể nào điều khiển việc đỏ mặt theo ý muốn được”, Dijk suy đoán, đỏ mặt chính là một dấu hiệu đảm bảo của cảm giác xấu hổ. Và cảm giác xấu hổ, theo Keltner, là một cảm xúc mang tính đạo đức. Nó cho thấy sự khiêm tốn, nhún nhường, và một mong muốn hòa bình, tránh mọi xung đột. Nó sinh ra không phải là để cách ly những người cảm thấy hổ thẹn (như những người dễ đỏ mặt hay cảm thấy), mà là để đưa mọi người lại gần nhau hơn.
Keltner đã tìm kiếm nguồn gốc của cảm giác xấu hổ ở con người, và đã tìm ra rằng sau khi rất nhiều động vật linh trưởng đánh nhau, chúng luôn cố làm hòa. Chúng làm điều này một phần bằng cách thể hiện những cử chỉ xấu hổ giống với thứ chúng ta vẫn thường thấy ở con người—nhìn đi chỗ khác, tức công nhận việc làm sai và khẳng định ý muốn sẽ dừng lại; cúi thấp đầu, thứ giúp làm thu nhỏ kích thước cơ thể; và cắn chặt môi, một dấu hiệu của sự ngại ngùng. Những cử chỉ này ở người đã được gọi là “hành động của sự cống hiến” (“acts of devotion”), Keltner viết. Quả thực vậy, Keltner, người đã được dạy để đọc nét biểu cảm trên khuôn mặt người khác, đã nghiên cứu các bức ảnh của những người hùng được tôn vinh về mặt đạo đức như Gandhi hay Đại Lai Lạt Ma; và tìm thấy rằng họ cũng có những nét đặc điểm như nụ cười tập luyện và ánh mắt lảng tránh đó”.
Trong cuốn sách của mình, “Born to Be Good”, Keltner thậm chí còn nói rằng nếu anh phải chọn bạn đời sau này cho mình với chỉ một câu hỏi trong một cuộc hẹn-hò-siêu-tốc, câu hỏi mà ông chọn sẽ là “Đâu là trải nghiệm đáng xấu hổ gần đây nhất của cô?”. Sau đó ông sẽ quan sát rất kỹ càng những dấu hiệu như cắn môi, đỏ mặt, và ánh nhìn lảng tránh. “Những yếu tố của nỗi xấu hổ là những dấu hiệu chớp nhoáng cho thấy mức độ tôn trọng của cá nhân đó trước những phán xét từ người khác”, ông viết. “Cảm giác xấu hổ tiết lộ cho chúng ta thấy người đó quan tâm đến những luật lệ giúp ràng buộc chúng ta lại với nhau”.
Nói một cách khác, bạn muốn đảm bảo rằng người bạn đời tương lai của mình có để tâm đến những điều người khác nghĩ. Để tâm quá nhiều cũng vẫn còn tốt hơn là để tâm quá ít.
Bất kể việc đỏ mặt có nhiều lợi ích đến đâu, cái hiện tượng về mức độ nhạy cảm cao này vẫn đưa ra một câu hỏi hiển nhiên: Làm thế nào những người cực kỳ nhạy cảm vẫn có thể sống sót qua quy trình sàng lọc khắc nghiệt của tiến hóa? Nếu những người bạo dạn và hùng hổ thường thắng thế (như suy nghĩ thông thường), tại sao những người nhạy cảm không bị loại bỏ ra khỏi dân số nhân loại từ hàng ngàn năm trước, như loài nhái cây da cam (tree frogs colored orange)? Bởi vì bạn có thể, nói như nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết The Long Long Dances, bị rung động sâu sắc hơn nhiều người ngồi bên cạnh bạn bởi đoạn mở đầu trong một bản nhạc của Schubert, và bạn có thể sẽ co rúm người nhiều hơn những người khác trước những cảnh chặt xương cắt thịt, và bạn có thể từng là dạng trẻ em đã vặn vẹo rất khổ sở khi bạn tưởng mình đã làm hỏng món đồ chơi yêu thích của một ai đó; nhưng sự tiến hóa không tưởng thưởng cho những điều đó.
Hay là nó có nhỉ?
Elaine Aron có một vài ý tưởng về điều này. Bà tin rằng những sự nhạy cảm bản thân nó không phải là thứ được tiến hóa lựa chọn, mà đúng hơn là những sự cẩn thận, ưa suy nghĩ thường đi cùng với nó mới là thứ được lựa chọn kìa. “Loại người ‘nhạy cảm’ hoặc ‘phản ứng’ thường sẽ suy ngẫm về chiến lược, hay quan sát kỹ trước khi hành động”, bà viết, “và do đó tránh được những nguy hiểm, thất bại, những sự hao tổn năng lượng một cách không cần thiết; những điều mà để làm được cần phải có một hệ thần kinh được thiết kế đặc biệt để quan sát và phát hiện từng sự khác biệt nhỏ nhất. Đó chính là chiến lược ‘đặt cược vào kèo chắc ăn nhất’, hay ‘nhìn kỹ trước khi nhảy’. Ngược lại, chiến lược chủ động của [nhóm còn lại] là làm người đầu tiên, mà không hề có đầy đủ thông tin và phải đối mặt với nhiều điều mạo hiểm—chiến lược kiểu “làm một cú thật xa”, bởi vì “trâu chậm uống nước đục” và “cơ hội chỉ đến gõ cửa một lần thôi”.
Quả thực, rất nhiều người mà Aron coi là người nhạy cảm đều có một vài trong số hai mươi bảy đặc điểm được coi là gắn liền với nét tính cách này, nhưng không phải tất cả trong số chúng. Có thể họ rất nhạy cảm với ánh sáng hoặc tiếng ồn, nhưng lại không hề gì với cà phê hay sự đau đớn; họ có thể không hề nhạy cảm với bất cứ thứ gì liên quan đến giác quan thụ thể, nhưng lại là những người suy nghĩ rất sâu sắc và có một cuộc sống nội tâm rất phong phú. Họ thậm chí có thể không phải là người hướng nội—chỉ khoảng 70 phần trăm người nhạy cảm là người hướng nội, theo lời của Aron, trong khi 30 phần trăm còn lại là những người hướng ngoại (mặc dù nhóm này thường báo cáo lại là họ vẫn cần nhiều thời gian yên tĩnh và một mình hơn so với những người hướng ngoại điển hình khác). Điều này, theo Aron suy đoán, là bởi vì sự nhạy cảm nổi lên như một sản-phẩm-phụ trong chiến lược sinh tồn, và bạn chỉ cần một vài, chứ không phải tất cả, các đặc điểm tính cách để có thể thực hiện chiến lược sinh tồn này một cách hiệu quả.
Đây là một lượng bằng chứng cực kỳ lớn cho quan điểm của Aron. Các nhà sinh vật học tiến hóa đã từng một thời tin rằng mọi loài động vật đều tiến hóa để khớp vào một vai trò nhất định trong hệ sinh thái, và rằng có một hệ các hành vi lý tưởng cho từng vai trò đó, và rằng các thành viên trong mỗi giống loài mà có hành vi chệch ra khỏi “hệ lý tưởng” này sẽ đều dần dần biến mất. Nhưng hóa ra không chỉ có con người là phân ra thành hai nhóm “quan sát chờ đợi” và nhóm “cứ xông tới làm đi”. Hơn một trăm giống loài khác trong vương quốc động vật cũng đa phần được tổ chức giống vậy.
Từ ruồi giấm cho đến mèo nhà, cho đến linh dương, từ cá mặt trăng cho đến vượn cáo mắt to cho đến chim sẻ bạc má, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng xấp xỉ 20% trong số thành viên của các loài động vật này là dạng “chậm khởi động”, trong khi 80% còn lại là loại “nhanh” sẽ dũng cảm lao tới mà không để tâm nhiều lắm đến những gì đang xảy ra xung quanh mình. (Có điều đáng ngạc nhiên lại, tỷ lệ phần trăm các em bé sơ sinh trong phòng thí nghiệm của Kagan mà sinh ra đã là người có-mức-độ- phản-ứng-cao là, như bạn có thể nhớ, hai mươi phần trăm).
Nếu những động vật “nhanh” hoặc “chậm” đều có nhóm của riêng chúng, nhà sinh vật học tiến hóa David Sloan Wilson viết, “một vài trong số đám ‘nhanh’ sẽ làm tất cả mọi người khác phát chán vì cuộc nói chuyện quá to của mình, trong khi những người khác sẽ lẩm bẩm với ly bia của mình rằng họ chẳng được ai tôn trọng cả. Những sinh vật ‘chậm’ được miêu tả là những kẻ nhút nhát, rụt rè và nhạy cảm. Họ không tự tin hùng hổ, nhưng họ rất giỏi quan sát và phát hiện những thứ mà loại hùng hổ bắt nạt sẽ không bao giờ thấy. Họ là những nhà văn và nghệ sĩ tại buổi tiệc, có những cuộc chuyện trò thú vị mà kẻ hùng hổ không thể nghe thấy. Họ là những nhà phát minh luôn tìm ra những cách mới để hành xử, trong khi những kẻ hùng hổ ăn cắp bằng sáng chế của họ bằng cách sao chép hành vi của họ”.
Thỉnh thoảng, một tờ báo hay một chương trình tivi sẽ phát một câu chuyện về tâm lý động vật, thể hiện rằng các hành vi nhút nhát, rụt rè là không phù hợp, và những hành vi bạo dạn là thu hút và đáng kính trọng. (Đó chính là loại ruồi giấm của chúng ta!). Nhưng Wilson, cũng giống như Aron, tin rằng cả hai loại động vật này cùng tồn tại bởi chúng có những chiến lược sinh tồn khác nhau, mỗi loại lại có lợi thế theo những cách riêng và vào những thời điểm khác nhau. Đây là thứ vẫn được biết đến là “quy luật bù-trừ” (trade-off theory) trong tiến hóa, khi một đặc điểm cụ thể thì không tốt cũng chẳng xấu, mà chỉ là một tập hợp cả ưu điểm lẫn nhược điểm mà trong từng hoàn cảnh sẽ giúp sinh tồn tốt hoặc không.
Những động vật “rụt rè nhút nhát” đi kiếm thức ăn kém thường xuyên hơn, và ít đi xa hơn, tiết kiệm năng lượng, quan sát nhiều, và thường sống sót khi thú ăn thịt xuất hiện. Những động vật bạo dạn thường xông xáo xa hơn, dễ bị xơi tái bởi n