Chương XIV ÁNH MẮT TRONG BÓNG TỐI
Con trai tôi! Tôi không thể tin vào đôi tai mình. Tôi từ từ đứng lên và nhìn vào cậu bé đẹp trai. Giờ đây, khi nhìn nó thật kỹ, tôi bắt đầu hiểu ra vì sao gương mặt và tính cách của nó lại thu hút tôi mạnh mẽ đến thế. Trong những nét thanh tú kia có rất nhiều đặc điểm của người mẹ xinh đẹp không ai sánh bằng của nó, nhưng nó có vẻ đẹp nam tính mạnh mẽ hơn, và đôi mắt xám cũng như những biểu hiện trong đó là của tôi.
Thằng bé đứng đối diện với tôi, nét mặt vừa hy vọng vừa ngỡ ngàng.
“Hãy kể cho cha nghe về mẹ của con.” Tôi nói. “Hãy kể tất cả những gì con có thể về những năm mà cha bị cướp khỏi vòng tay thân thương của nàng bởi định mệnh trái ngang.”
Với một tiếng kêu sung sướng, nó lao tới tôi và choàng đôi tay quanh cổ tôi. Trong một thoáng, khi ôm chặt đứa con trai vào lòng, mắt tôi rưng lệ. Có lẽ tôi đã xúc động theo kiểu của một người ủy mị, nhưng tôi không hề hối tiếc hay xấu hổ. Một cuộc đời dài đã dạy tôi rằng một người đàn ông có thể tỏ ra yếu đuối khi nào dính dáng tới phụ nữ và trẻ con, thế nhưng đó là một cái gì đó khác xa sự yếu đuối trong những chặng đường khắc nghiệt của cuộc đời.
“Dáng vóc cha, cung cách của cha, những đường gươm tốc độ khủng khiếp của cha,” con tôi nói, “giống hệt như những gì mẹ đã kể cho con nghe cả ngàn lần, nhưng ngay cả với những chứng cứ đó con vẫn không dám tin vào sự thật quá khó chứng minh đối với con, tuy nhiên, con đã ao ước nó là sự thật biết bao nhiêu. Cha có biết điều gì thuyết phục nhất đối với con không?”
“Điều gì, con trai?” Tôi hỏi.
“Những lời đầu tiên của cha nói với con - chúng nói về mẹ. Không ai khác ngoài người đàn ông đã yêu mẹ như lời mẹ kể mới có thể nghĩ đến mẹ trước tiên.”
“Suốt nhiều năm dài, con trai của cha, cha hầu như khó mà hình dung rằng hình ảnh và nét mặt xinh đẹp của mẹ con không hiện diện trước mặt cha. Hãy kể cho cha nghe về mẹ.”
“Những người biết mẹ lâu nhất nói rằng mẹ không thay đổi, trừ việc ngày càng xinh đẹp hơn. Chỉ có điều, khi mẹ suy tư con không muốn tới gần mẹ, nét mặt mẹ trở nên đăm chiêu, và, chao ôi, quá đỗi buồn rầu. Mẹ luôn nghĩ tới cha, cha ạ, và cả Helium than khóc cùng với mẹ và vì mẹ. Dân chúng của ông cố yêu mẹ. Họ cũng yêu cha, và tôn thờ cha như người cứu tinh của Barsoom.”
“Hàng năm đều có lễ tưởng niệm và tôn vinh cái ngày mà cha băng qua một thế giới gần tuyệt diệt để mở cánh cửa bí mật mà sau nó là năng lượng sống cho vô số triệu người. Nhưng có nhiều nước mắt trộn lẫn với lời cảm tạ - nước mắt thương tiếc thật sự vì người tạo ra hạnh phúc không còn sống với họ để chia sẻ niềm vui cuộc sống. Khắp mọi nơi trên Barsoom không có cái tên nào vĩ đại hơn John Carter.”
“Thế mẹ con đặt tên con là gì, con trai?” Tôi hỏi.
“Dân chúng Helium yêu cầu đặt tên con theo tên cha, nhưng mẹ không chịu và bảo rằng cha và mẹ đã cùng chọn cho con một cái tên, và cha phải được tôn vinh trước tất cả mọi người, vì thế tên mà mẹ đặt cho con là cái tên mà cha muốn, là sự kết hợp giữa tên cha và tên mẹ - Carthoris.”
Xodar đã đến giữ tay lái khi tôi nói chuyện với con trai, lúc này réo gọi tôi.
“Mũi tàu đang nghiêng xuống một cách tệ hại, John Carter.” Anh nói. “Khi chúng ta bay thẳng đứng lên điều này không lộ ra, nhưng bây giờ khi tôi cố giữ cho tàu bay ngang mọi chuyện đã khác. Chỗ hỏng ở mái vòm đã làm vỡ một trong những bồn chứa tia đẩy ở phía trước.”
Đúng là như vậy. Sau khi tôi kiểm tra chỗ hỏng, tôi thấy vấn đề trầm trọng hơn mức mong đợi. Góc độ bay mà chúng tôi buộc phải duy trì để giữ cho tàu bay ngang không chỉ làm giảm tốc độ rất nhiều mà còn gây nên mức độ hao hụt tia đẩy ở các bồn chứa phía trước và chúng tôi chỉ có thể bay thêm khoảng một giờ nữa mà thôi.”
Chúng tôi đã hơi giảm tốc độ xuống vì sự an toàn, nhưng lúc này tôi lại nắm lấy tay lái và mở hết ga, đến nỗi chúng tôi lao về hướng bắc với một tốc độ khủng khiếp. Trong lúc đó, Xodar và Carthoris đang loay hoay cố bịt chỗ hở ở mái vòm một cách vô vọng để chặn bớt sự hao hụt tia đẩy.
Trời vẫn còn tối khi chúng tôi bay qua biên giới phía bắc của chỏm băng và khu vực mây mù. Bên dưới chúng tôi, một vùng đất Sao Hỏa quen thuộc trải dài. Những đáy biển màu hoàng thạch của các biển cạn từ lâu, những dãy đồi thấp chập chùng, và đây đó là những thành phố lặng im của thời quá vãng; những khối lớn các tàn tích kiến trúc mà từ rất xa xưa đã là nơi cư trú của nòi giống một thời hùng mạnh và nay là của những con khỉ đột trắng khổng lồ sao Hỏa.
Việc duy trì con tàu bay ngang ngày càng khó khăn hơn. Cái mái vòm ngày càng lún xuống cho tới khi tôi phải dừng động cơ để tránh cho chuyến bay khỏi kết thúc bằng một cú rơi nhanh xuống mặt đất.
Khi mặt trời lên và ánh sáng của một ngày mới đã xua tan bóng đêm tăm tối, con tàu của chúng tôi giật nảy lên cú cuối cùng, quay nghiêng sang một phía và xoay chầm chậm, cái mái vòm ngày càng võng xuống lườn tàu.
Chúng tôi bám chặt vào lườn tàu và trụ đứng, rồi cuối cùng khi nhìn thấy sự kết thúc đang tiến tới gần, chúng tôi móc những cái móc đây đai vào mấy cái khoen ở hông tàu. Một khoảnh khắc sau đó boong tàu nghiêng hẳn một góc chín mươi độ và chúng tôi treo người lơ lửng, cách mặt đất bên dưới gần một ngàn thước Anh.
Tôi đang đong đưa người rất gần với bộ điều khiển tàu, vì thế, tôi với lấy cần điều khiển tia đẩy. Con tàu đáp lại sự tiếp xúc đó, và chúng tôi bắt đầu rơi xuống mặt đất một cách nhẹ nhàng.
Chúng tôi rơi mất gần nửa giờ trước khi tiếp đất. Thẳng về hướng bắc là một dãy đồi mà chúng tôi quyết định hướng tới, vì chúng đem đến cơ may lớn hơn cho việc ẩn núp khỏi sự truy tầm mà chúng tôi tin chắc là đang sắp tới gần.
Một giờ sau, chúng tôi đã ở trong những con rãnh thấp bị bào mòn bởi thời gian của dãy đồi, giữa những loài cây có hoa xinh đẹp mọc đầy trong những vùng đất khô cằn hoang phế của Barsoom. Ở đó, chúng tôi tìm được một số bụi cây nhựa sữa khổng lồ - loài cây lạ lùng cung cấp thức ăn và nước uống cho những bộ tộc da xanh hoang dã. Đây đúng là một ân huệ đối với chúng tôi, vì cả bọn đã gần chết vì đói.
Chúng tôi nằm xuống ngủ dưới một khóm cây nhựa sữa um tùm tạo thành một nơi ẩn núp tuyệt vời để tránh những chiếc phi cơ thám thính. Lúc này đã là khởi đầu ngày thứ năm tôi ở trên sao Hỏa tính từ cuộc chuyển dịch bất ngờ từ ngôi nhà của tôi ở bờ sông Hudson tới Dor, cái thung lũng xinh đẹp và bí ẩn. Trong toàn bộ thời gian đó tôi chỉ ngủ được hai lần, một lần là ở cái nhà kho của các tu sĩ.
Trời đã giữa trưa khi tôi thức giấc vì có ai đó đang nắm lấy bàn tay tôi và đặt lên đó nhiều nụ hôn. Tôi giật mình mở mắt ra và nhìn thấy gương mặt xinh đẹp của Thuvia.
“Hoàng tử của em! Hoàng tử của em!” Nàng kêu lên trong một trạng thái vui sướng ngất ngây. “Em đã khóc thương chàng như một người không còn trên cõi thế. Tổ tiên em đã phù trợ cho em. Em đã sống không uổng phí.”
Giọng của nàng đánh thức Xodar và Carthoris. Thằng bé nhìn cô gái đăm đăm với vẻ ngạc nhiên, nhưng dường như nàng không nhận ra sự hiện diện của ai khác ngoài tôi. Suýt chút nàng đã vòng tay quanh cổ tôi nếu tôi không nhẹ nhàng né người ra.
“Thôi nào, Thuvia.” Tôi khẽ vỗ về nàng. “Cô đã quá căng thẳng vì những vất vả hiểm nguy vừa trải qua, đến độ cô quên cả mình là ai, cũng như cô quên rằng tôi là chồng của công chúa xứ Helium.”
“Em chẳng quên gì cả, hoàng tử của em ạ. Chàng chưa từng nói lời với em một lời yêu thương nào hết, và em cũng không mong gì chàng sẽ làm điều đó. Nhưng không có gì ngăn cản được việc em yêu chàng. Em không chiếm lấy vị trí của Dejah Thoris đâu. Tham vọng lớn nhất của em là được phục vụ chàng, mãi mãi là nô lệ của chàng thôi, hoàng tử của em. Em chẳng cầu mong ân huệ nào, chẳng khát khao vinh dự nào, chẳng hy vọng hạnh phúc nào hơn thế nữa.”
Như tôi đã nói, tôi không phải là kiểu đàn ông hào hoa phong nhã, và phải thú nhận rằng tôi ít khi cảm thấy bất tiện và lúng túng như lúc này. Tôi quá quen với tập quán trên sao Hỏa, cho phép phụ nữ làm nô tỳ cho những người đàn ông. Địa vị cao và lòng hào hiệp của họ luôn là sự bảo vệ chắc chắn cho mọi phụ nữ trong nhà họ. Nhưng bản thân tôi chưa bao giờ chọn một người phụ nữ để phục vụ cho mình.
“Thuvia, nếu tôi trở về Helium được, cô sẽ cùng đi với tôi, nhưng với một tư cách bình đẳng chứ không phải một nô tỳ. Ở đó cô sẽ gặp nhiều chàng quý tộc trẻ tuổi đẹp trai sẵn sàng đối diện với chính Issus để có được một nụ cười của cô. Chúng tôi sẽ giúp cô cưới một trong những người tốt nhất. Hãy quên sự si mê xuất phát từ lòng biết ơn khờ khạo mà cô lầm tưởng là tình yêu đi. Tôi thích có tình bạn của cô hơn, Thuvia ạ.”
“Chàng là chủ nhân của em. Mọi sự sẽ như chàng muốn.” Nàng đáp ngắn gọn, nhưng trong giọng nàng có chút bùi ngùi.
“Làm sao cô tới đây được, Thuvia?” Tôi hỏi. “Còn Tars Tarkas đâu?”
“Em e là ông ấy chết rồi.” Nàng buồn bã nói. “Ông ấy là một chiến binh mạnh mẽ, nhưng nhiều chiến binh của một bộ tộc khác đã áp đảo ông ấy. Lần cuối cùng em thấy ông ấy, chúng mang ông đi, bị thương và khắp người đẫm máu, vào thành phố bỏ hoang mà từ đó chúng đã ùa ra tấn công bọn em.”
“Vậy cô chưa chắc là ông ấy chết, phải không. Thành phố mà cô nói ở đâu?”
“Nó nằm ngay mé ngoài dãy đồi này. Con tàu mà chàng đã cao thượng nhường cho bọn em tẩu thoát không tuân theo sự điều khiển yếu kém của bọn em. Kết quả là bọn em đã trôi dạt không đích đến hai ngày. Sau đó bọn em quyết định rời tàu và cố đi bộ đến đường thủy gần nhất. Hôm qua bọn em đã băng qua dãy đồi này và đi đến thành phố chết bên ngoài. Bọn em đã đi qua một số con đường và đang đi đến trung tâm thành phố thì gặp một toán chiến binh da xanh tại một giao lộ.
“Tars Tarkas đi trước, do đó chúng thấy ông ấy nhưng không thấy em. Ông ấy quay lại và đẩy em vào một lối đi kế bên, bảo em nấp kín cho tới khi có thể bỏ trốn, và tìm đến Helium nếu được. Ông ấy bảo ông ấy không còn đường thoát, vì đó là bộ tộc Warhoon ở miền Nam. Nếu chúng nhìn thấy huy hiệu của ông ấy, ông ấy chỉ còn cái chết.
“Thế rồi ông ấy quay ra để gặp chúng. Ôi, Hoàng tử của em, thật là một trận đánh kinh hồn! Chúng tràn lên ông ấy suốt một giờ, cho tới khi những xác chết của người Warhoon chất thành một quả đồi. Nhưng cuối cùng chúng đè bẹp được ông ấy. Những tên phía sau đẩy những tên phía trước áp sát vào ông ấy cho tới khi không còn chỗ trống để vung gươm. Rồi ông ấy ngã xuống và chúng lao vào ông ấy như một đợt sóng thần. Khi chúng mang ông ấy vào trung tâm thành phố, em cho là ông ấy đã chết, vì không thấy ông ấy cục cựa gì hết.”
“Trước khi đi tiếp, chúng ta phải biết chắc điều này. Tôi không thể bỏ rơi Tars Tarkas còn sống giữa bọn Warhoon. Đêm nay tôi sẽ vào thành phố để tìm hiểu sự thật.” Tôi nói.
“Vậy con sẽ đi với cha.” Carthoris nói.
“Không ai đi cùng cả.” Tôi đáp. “Cái cần là chiến lược và sự khéo léo chứ không phải sức mạnh. Một người duy nhất có thể thành công, đông người chỉ thêm rối chuyện. Ta sẽ đi một mình. Nếu ta cần sự giúp đỡ của con, ta sẽ quay lại tìm con.”
Họ không thích thế, nhưng cả hai đều là những chiến binh tốt, nên cuối cùng họ đồng ý rằng nên làm theo lời tôi. Mặt trời đã sắp lặn, tôi chỉ cần chờ chút nữa là bóng đêm đột ngột của Barsoom sẽ bao trùm tất cả.
Sau khi hướng dẫn Xodar và Cathoris vài điều phải làm nếu như tôi không quay lại, tôi từ giã họ và lao nhanh về phía thành phố.
Khi tôi ra khỏi dãy đồi, vầng trăng thấp đang trôi vùn vụt qua bầu trời. Ánh trăng nhuộm lên vẻ đẹp man dại của khu phố cổ một màu bạc lấp lánh. Thành phố được xây dựng ở chân dãy đồi chạy vây quanh mà ở một thời quá vãng xa xôi mờ mịt đã thoai thoải dốc xuống cho đến khi giáp biển. Nhờ đó, tôi tiến vào những con đường một cách dễ dàng mà không bị phát hiện.
Những bộ tộc da xanh sử dụng các thành phố bỏ hoang này ít khi chiếm nhiều hơn vài khu vực nằm quanh quảng trường trung tâm. Vì họ luôn luôn băng qua những đáy biển chết mà các thành phố này tiếp giáp khi đến và rời thành phố, việc đi vào thành phố từ phía đồi khá dễ dàng.
Khi đã đến những con đường, tôi đi sát vào bóng tối của những bức tường. Ở những giao lộ, tôi dừng lại một lúc để chắc rằng không có ai trước khi lao nhanh tới bóng tối của phía đối diện. Cứ thế, tôi đi đến khu vực tiếp giáp với quảng trường một cách an toàn. Khi đã tới sát khu vực có người ở, tôi nhận ra khu nhà của bọn chiến binh qua tiếng thở phì phò và tiếng rống của những con ngựa và voi sao Hỏa được quây thành đàn trong những cái sân trống tạo thành từ những tòa nhà nằm quanh mỗi khu vực.
Những âm thanh quen thuộc mang bản sắc riêng biệt của cuộc sống người da xanh sao Hỏa khiến lòng tôi trào lên một niềm vui. Nó giống như cảm giác của một người quay trở về mái nhà xưa sau một thời gian dài xa cách. Chính giữa những âm thanh như vậy, tôi đã tỏ tình lần đầu với nàng Dejar Thoris tuyệt trần trong căn phòng cổ của thành phố chết xứ Korad.
Đứng trong bóng tối ở một góc của khu vực đầu tiên của bộ tộc này, tôi nhìn thấy những chiến binh xuất hiện từ nhiều tòa nhà. Tất cả đều đi về một hướng, một tòa nhà lớn nằm giữa quảng trường. Kiến thức về tập quán của người da xanh khiến tôi chắc chắn rằng đó là nơi ở của một tù trưởng hoặc một phòng họp, nơi vị đại thống lĩnh gặp gỡ các tù trưởng của mình. Trong bất kỳ trường hợp nào, rõ ràng là có điều gì đó quan hệ tới việc bắt giữ Tars Tarkas mới đây.
Để tới sát tòa nhà đó, điều mà giờ đây tôi cảm thấy cần làm ngay, tôi phải đi hết chiều dài của một khu nhà, băng qua một con đường rộng và một góc quảng trường. Từ tiếng ồn ào của bầy thú, tôi biết rằng có nhiều người trong những tòa nhà xung quanh. Có lẽ là nhiều nhóm của một bộ tộc người Warhoon lớn ở miền Nam.
Tiến lên mà không bị phát hiện bởi vô số người như thế quả là một việc khó khăn, nhưng nếu tôi có thể tìm ra và giải cứu được người bạn xứ Thark, tôi phải vượt qua ngay cả những chướng ngại vật bất khả vượt qua nhất. Tôi đã đi vào thành phố từ hướng nam và lúc này đang đứng ở góc một con đường mà tôi phải băng qua để tới giao lộ đầu tiên ở phía nam quảng trường. Những tòa nhà ở phía nam khu nhà này có vẻ như không người ở, vì tôi không thấy có ánh đèn. Vì thế, tôi quyết định đi vào mảnh sân bên trong qua một trong những tòa nhà này.
Không có gì xảy ra khi tôi băng qua đường, và tôi đã lọt vào mảnh sân bên trong gần sát với bức tường sau của những tòa nhà ở hướng đông. Trong sân, một bầy voi và ngựa đang nháo nhác đi lại, ăn thứ cỏ giống rêu mọc khắp các mảnh đất bỏ hoang của Hỏa tinh. Một cơn gió nhẹ, nếu có, sẽ đến từ hướng tây bắc, vì thế ít có khả năng bọn thú ngửi thấy tôi. Nếu không, chúng sẽ gầm rống om xòm gây chú ý cho các chiến binh trong những tòa nhà.
Tôi bò sát bức tường phía đông bên dưới bóng tối của những ban công của tầng hai hết chiều dài của khu sân, và tiếp cận những tòa nhà ở đầu phía bắc. Những tòa nhà này sáng ánh đèn cho tới tầng ba, nhưng từ tầng ba trở đi, tất cả đều tối đen.
Tất nhiên, việc đi qua những căn phòng có đèn nằm ngoài tầm tay vì chúng đầy nghẹt những đàn ông và phụ nữ da xanh. Con đường duy nhất của tôi là băng qua những tầng trên, và để lên tới đó cần phải leo lên bề mặt của bức tường. Việc phóng lên ban công tầng hai không có gì khó khăn. Tôi chỉ cần phóng nhẹ đã bám tay được vào gờ đá bên trên. Trong chớp mắt, tôi đã đu người lên ban công.
Qua các cửa sổ, tôi nhìn thấy những người da xanh đang ngồi xổm trên những đống lụa và da thú, trò chuyện nhì nhằng bằng một thứ ngôn ngữ đơn điệu, mà, cộng thêm khả năng thần giao cách cảm kỳ diệu, đã quá dư thừa cho các yêu cầu giao tiếp của họ. Khi tôi lẻn tới gần hơn để lắng nghe xem chúng nói gì, một gã chiến binh bước vào phòng từ sảnh đường lớn bên ngoài.
“Đến đây, Tan Gama.” Hắn kêu lên. “Chúng ta sẽ đưa tên người Thark đến trước Kab Kadja. Mang theo một tên đi với anh.”
Gã chiến binh được nói đến đứng lên, ngoắc một gã ngồi gần đó, cả ba rời phòng.
Nếu tôi bám theo bọn chúng, cơ may giải cứu Tars Tarkas có thể xuất hiện. Ít ra tôi cũng có thể biết nơi nhốt ông.
Ở bên phải tôi là một cánh cửa từ ban công đi vào tòa nhà. Nó nằm ở cuối một sảnh đường không ánh sáng. Tôi bước vào đó. Sảnh đường rộng và chạy thẳng qua mặt tiền của tòa nhà. Ở hai mé là cửa ra vào của nhiều căn phòng nằm dọc theo nó.
Vừa bước vào một hành lang, tôi đã nhìn thấy ba tên chiến binh ở đầu kia, chính là những tên vừa rời khỏi căn phòng khi nãy. Rồi một khúc quanh bên tay phải lại che khuất chúng khỏi tầm mắt tôi. Tôi vội đuổi theo chúng. Tôi cảm thấy định mệnh quả thật quá tốt khi đưa tới tầm tay tôi một cơ hội thế này, và tôi không thể để nó lọt khỏi tay tôi.
Ở đầu kia hành lang, tôi tìm thấy một cầu thang xoắn ốc dẫn xuống các tầng trên và dưới. Rõ ràng, ba gã đó đã rời khỏi tầng lầu theo lối này. Từ kiến thức của tôi đối với những tòa nhà cổ này và cách thức của bọn Warhoon, tôi biết chắc là chúng đã đi xuống.
Bản thân tôi từng là một tù nhân của các bộ tộc Warhoon hung tợn ở phía bắc, và ký ức về căn ngục dưới hầm sâu vẫn còn hiện rõ trong đầu tôi. Vì thế, tôi chắc chắn rằng Tars Tarkas đang nằm trong một căn ngục nào đó bên dưới một tòa nhà gần đây, và cứ theo dấu ba tên chiến binh, tôi sẽ tìm ra con đường đưa tới đó.
Tôi đoán đúng. Ở chân cầu thang, đúng hơn, ở tầng dưới, tôi thấy rằng cái cầu thang chạy xuống những hầm sâu bên dưới, và khi nhìn xuống đó, ánh sáng chập chờn của một ngọn đuốc tiết lộ sự hiện diện của ba tên tôi đang theo dấu.
Chúng đi xuống đó, và ở một khoảng cách an toàn phía sau, tôi đi theo ánh đuốc chập chờn của chúng. Con đường dẫn qua một mê cung các hành lang tối đen. Khi đi được chừng một trăm thước Anh, bọn chúng ngoặt sang bên phải. Tôi vội đuổi theo qua bóng tối cho tới lúc tôi đến chỗ ngoặt đó. Qua một cánh cửa mở, tôi thấy chúng đang tháo những sợi xiềng xích cột chặt thân hình anh bạn Tars Tarkas xứ Thark của tôi vào tường.
Xô đẩy ông một cách thô bạo, chúng rời phòng ngay tức khắc, thật sự nhanh đến mức tôi suýt bị phát hiện. Nhưng tôi đã chạy dọc theo hành lang đến một chỗ nằm ngoài tầm soi sáng của ngọn đuốc khi chúng ló ra khỏi phòng.
Theo lẽ tự nhiên, tôi đoán rằng chúng sẽ quay lại với Tars Tarkas theo đường cũ, nghĩa là sẽ cách xa tôi hơn. Thế nhưng, với sự thất vọng của tôi, chúng đi thẳng về hướng của tôi. Tôi không còn cách nào khác hơn là vội vã đi trước và lánh khỏi tầm ánh đuốc. Tôi không dám dừng lại trong bóng tối của bất kỳ hành lang giao lộ nào, vì tôi không biết chúng sẽ đi theo hướng nào. Cơ may chúng chọn hành lang đi vào đúng ngay hành lang tôi chui vào lánh là năm mươi năm mươi.
Cảm giác di chuyển thật nhanh xuyên qua những hành lang tối đen như mực đó rất bất an. Tôi không biết khi nào tôi sẽ rơi vào một cái hố sâu kinh khủng nào đó hoặc chạm trán một con quái vật đáng sợ trú ngụ trong những thế giới bên dưới các thành phố chết của Hỏa tinh hấp hối. Ánh đuốc le lói từ những tên lính phía sau chỉ đủ cho phép tôi đi theo hướng của những hành lang ngoằn ngoèo ngay trước mặt và giúp tôi không đâm sầm vào những bức tường ở mấy chỗ ngoặt.
Lúc này, tôi đi tới một tụ điểm của năm dãy hành lang. Lẽ ra tôi đã đi dọc một trong số chúng được một quãng nếu ánh đuốc lờ mờ sau lưng tôi đột nhiên biến mất. Tôi dừng lại, lắng nghe những âm thanh của toán lính sau lưng, nhưng tất cả đều im ắng tột độ, như sự im lặng của một nấm mồ hoang.
Tôi nhanh chóng nhận ra rằng bọn chiến binh đã chọn một trong số các hành lang khác, mang theo tù nhân của chúng. Tôi vội quay lại một một cảm giác nhẹ nhõm vì được an toàn hơn và có một vị trí thuận tiện hơn sau lưng chúng. Tuy nhiên, việc quay trở lại chậm hơn đi tới nhiều vì bóng tối lúc này cũng ở mức tột cùng như sự im lặng.
Tôi phải sờ tay vào tường dò dẫm trong từng bộ khi quay lại để không đi lố qua nơi hội tụ của năm con đường. Sau một khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, tôi đến chỗ đó và nhận ra nó bằng cách mò mẫm hết những lối vào của nhiều hành lang cho tới khi tôi đếm được năm lối vào cả thảy. Tuy nhiên, tôi chẳng nhìn thấy một ánh sáng le lói mờ mịt nhất trong bất kỳ lối nào.
Tôi chăm chú lắng nghe, nhưng bàn chân trần của những gã da xanh không để lại một tiếng vọng nào, dù ngay lúc này tôi cho rằng mình phát hiện được tiếng va chạm lanh canh của những thứ vũ khí đeo bên hông ở đằng xa, vào khoảng giữa hành lang. Tôi vội lần tới đó, tìm kiếm ánh đuốc, thỉnh thoảng lại dừng bước lắng nghe tiếng động lặp lại. Nhưng tôi sớm buộc phải thừa nhận rằng hẳn tôi đã đi theo một sự chỉ dẫn mù quáng, vì chỉ có bóng tối và sự im lặng đáp lại những nỗ lực của tôi.
Một lần nữa, tôi quay trở lại chỗ ngã năm, nhưng thật ngạc nhiên, tôi lại đi đến một ngã ba hành lang. Chắc hẳn tôi đã đi nhầm vào đó theo sự dẫn dắt sai lầm. Đúng là một tình thế khó khăn! Nếu có thể quay lại nơi hội tụ năm con đường, tôi có thể chờ một cách khá vững tin cuộc quay lại của bọn chiến binh và Tars Tarkas. Kiến thức của tôi đối với tập quán của chúng tô đậm thêm niềm tin rằng bạn tôi đang được đưa tới phòng họp để nghe tuyên án. Không còn chút nghi ngờ gì nữa, chúng sẽ gìn giữ một chiến binh cừ khôi như bạn tôi cho màn biểu diễn trong Trò chơi lớn.
Nhưng trừ phi tôi có thể tìm được đường quay lại nơi đó, rất có khả năng tôi sẽ đi lang thang suốt nhiều ngày trong bóng tối mịt mùng ảm đạm cho tới khi kiệt lực vì đói khát, tôi gục xuống và chết, hoặc… Ồ, cái gì thế nhỉ!
Có tiếng chân bước mơ hồ sau lưng tôi, và khi tôi quay người nhìn lại, máu trong huyết mạch tôi như đông lại vì cái mà tôi nhìn thấy ở đó. Đó không hẳn là nỗi sợ đối với mối nguy hiện tại, mà là những ký ức kinh hoàng về cái lần tôi gần trở nên điên dại bên cái xác chết của tên lính canh ngục mà tôi đã giết trong cái hầm ngục của bọn Warhoon khi những đôi mắt nhấp nháy xuất hiện từ những xó tối và kéo lê cái xác khỏi tay tôi và tôi nghe thấy tiếng nó trượt đi trên nền đá để trở thành bữa tiệc ngon lành cho những con quái vật.
Và giờ đây, trong những cái hố sâu của một bộ tộc Warhoon khác, tôi lại nhìn vào những cặp mắt kinh khủng đó, đang nhấp nháy nhìn tôi xuyên qua bóng tối dày đặc, không hé lộ một dấu hiệu nào khác hơn của con quái vật. Tôi cho rằng đặc điểm đáng sợ nhất của những con quái vật khủng khiếp này là sự im lặng của chúng và thực tế là chưa ai từng nhìn thấy chúng - không có gì khác ngoài đôi mắt hiểm ác nhìn trừng trừng từ khoảng trống tối đen.
Nắm chặt chuôi gươm trong tay, tôi chậm chạp lùi lại dọc theo hành lang, tránh con vật đang theo dõi tôi. Nhưng tôi lùi bao nhiêu thì nó tiến tới bấy nhiêu, vẫn không một tiếng động nào, thậm chí cả tiếng thở, ngoại trừ đôi khi là tiếng lê chân sềnh sệch đã làm tôi chú ý lúc đầu.
Tôi lùi, lùi mãi, nhưng không thoát khỏi kẻ theo đuổi hiểm ác. Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng kéo lê ở bên mé tay phải, và nhìn sang, tôi bắt gặp một đôi mắt khác, rõ ràng đang tới gần từ một hành lang tiếp nối. Khi tôi bắt đầu tiếp tục cuộc thoái lui chậm chạp, tôi nghe tiếng động lặp lại ở sau lưng, và trước khi có thể quay lại, tôi lại nghe thấy nó ở bên mé tay trái.
Những con vật ở khắp hướng quanh tôi. Chúng đã bao vây tôi ở giao điểm của hai hành lang. Cuộc thoái lui đã bị chặn đứng từ mọi hướng, trừ phi tôi chọn cách tấn công vào một trong bọn chúng. Chắc chắn khi đó những con khác sẽ chồm vào lưng tôi. Tôi không thể đoán ngay cả kích thước của những con vật quái dị này. Tôi đoán là chúng khá to lớn vì những cặp mắt ở một độ cao ngang với mắt tôi.
Vì sao bóng tối thổi phồng những mối nguy của chúng ta đến thế? Vào ban ngày, tôi hẳn sẽ tấn công ngay cả một con sư tử lớn nếu cần, nhưng bị bao trùm bởi bóng tối của những đường hầm im lặng này, tôi đã ngần ngừ trước một đôi mắt.
Tôi sớm nhận ra rằng chúng sắp sửa tấn công, vì cặp mắt bên phải đang chậm chạp tiến tới gần tôi, cả bên trái, sau lưng và trước mặt cũng thế. Dần dần, chúng áp sát vào tôi. Nhưng vẫn là một sự im lặng đáng sợ!
Trong một khoảng thời gian như dài đến hàng giờ những đôi mắt ngày càng gần hơn, cho tới khi tôi cảm thấy sắp điên lên vì sự kinh hoàng. Tôi liên tục quay sang bên này bên kia để đề phòng bất kỳ sự tấn công đột ngột nào cho tới khi gần như kiệt sức. Cuối cùng, không thể chịu được nữa, tôi vung gươm tấn công vào một trong những con quái vật.
Khi tôi gần như lao vào nó, con vật lùi lại. Nhưng một tiếng động sau lưng buộc tôi liếc nhanh lại và kịp thời nhìn thấy ba cặp mắt đang tới sát tôi từ phía sau. Với một tiếng thét giận dữ, tôi quay lại để đón tiếp những con thú hèn nhát, nhưng khi tôi tiến lên, chúng lui lại như đồng bọn của chúng. Một cái liếc mắt vội ra phía sau giúp tôi phát hiện ra cặp mắt ban đầu lại len lén tiến tới gần tôi. Một lần nữa tôi lao lên, chỉ để nhìn thấy nó lùi nhanh ra và lại nghe thấy tiếng của ba con vật ở phía sau.
Cứ thế, những cặp mắt ngày càng tiến tới sát gần tôi cho tới khi tôi nghĩ rằng tôi sẽ điên lên vì căng thẳng. Có vẻ như chúng đang chờ dịp để nhào lên lưng tôi, và rõ ràng, chúng sẽ sớm thành công, vì tôi không thể chịu đựng nổi cuộc tấn công và phản công lặp đi lặp lại hầu như vô tận này. Thật sự, tôi có thể cảm thấy mình đang suy nhược dần cả về tinh thần lẫn thể chất.
Vào lúc đó, tôi thoáng bắt gặp qua khóe mắt tới một cặp mắt đang chồm tới tôi từ sau lưng. Tôi quay lại để đón cuộc tấn công. Ba con kia cũng đang lao tới, nhưng tôi quyết định đuổi theo đôi mắt đó cho tới khi ít nhất tôi giải quyết được một trong số các con quái vật và nhờ đó có thể giảm bớt sự căng thẳng khi phải chặn đứng sự tấn công từ cả hai phía.
Trong hành lang không có một tiếng động nào ngoài tiếng thở của chính tôi. Thế nhưng tôi biết rằng cả ba con vật đang áp sát vào tôi. Cặp mắt trước mặt lúc này không lùi nhanh mấy. Lưỡi gươm của tôi gần như có thể chạm tới chúng. Tôi vung gươm lên để tung một đòn quyết định, và khi đó tôi cảm thấy một thân hình nặng nề đè xuống lưng tôi. Một cái gì đó lạnh lẽo, ẩm ướt, nhớp nháp quấn chặt lấy cổ tôi. Tôi trượt chân và quỵ xuống.