← Quay lại trang sách

- 5 -

Đàn sói vừa sủa gióng giả vừa tiến dần lên, xua con gấu vào sâu trong lãnh nguyên. Cuối cùng chúng đổi hướng, phóng chạy một cách vui sướng, băng qua tuyết trắng và mất hút. Nhiệm vụ của chúng đã hoàn thành, chúng lại đi, không phải đi săn mồi, cũng không phải đi tàn sát, chỉ đơn giản là đi nô giỡn.

Miyax rùng mình. Cô đã không để ý đến vóc dáng và sự hung tợn của loài gấu miền Bắc vẫn được người trong lục địa gọi là “gấu xám” còn người dân ven biển gọi là “gấu nâu” hay Ursus arctors. Những con gấu khổng lồ như con vừa bị đàn sói đuổi đi cân nặng trên vài tạ và cao đến ba mét khi đứng thẳng lên. Miyax lau mồ hôi vã ra trên trán. Nó mà tới được lều của cô thì chỉ cần một cái tát nó sẽ nghiền nát cô trong khi cô đang say ngủ.

- Amaroq, Móng Vuốt, Kapu ơi! - Cô gọi. - Cảm ơn các bạn. Cảm ơn.

Vừa thu dọn hành lý để lên đường, cô vừa nghĩ về những vệ sĩ của mình. Loài sói không thích thế giới văn minh. Đã có thời kỳ chúng sinh sống ở khắp Bắc Mỹ, giờ đây chúng chỉ còn lại ở những vùng xa xôi của Canada, ở hai trong số 48 bang của Hoa Kỳ và trong khu vực hoang dã ở Alaska. Ngay cả vùng Dốc Bắc không hề có đường xá cũng chỉ còn rất ít sói, ít hơn cả thời kỳ người da trắng chưa lập lên những căn cứ quân sự và mang máy bay, ô tô đi trên tuyết, ánh sáng điện và xe jeep tới Bắc Cực.

Nghĩ đến những người da trắng, cô chợt hiểu tại sao con gấu nâu thức giấc. Mùa săn của người Mỹ đã bắt đầu! Những con sói của cô đang gặp nguy hiểm! Những người da trắng được trả tiền để bắn hạ chúng. Người nào mang cái tai trái của một con sói tới chỗ người giám sát sẽ được thưởng 50 đô la. Đối với những người ở trại hải cẩu, phần thưởng đó thật ghê tởm vì nó kích thích việc tàn sát để lấy tiền chứ không phải vì nhu cầu.

Cha Kapugen coi phần thưởng đó là phương pháp của những người da trắng khiến cho những loài thú như Amaroq không thể tồn tại được trên Trái đất này nữa. Ông nói: “Không kẻ nào có quyền đó. Nếu loài sói biến mất, tuần lộc sẽ sinh sôi quá nhiều và gặm sạch sẽ, loài lữ thử sẽ chết đói. Không còn lữ thử, các loài cáo, chồn và chim sẽ chết. Sự diệt vong của chúng sẽ kéo theo sự diệt vong của những hình thức sống nhỏ bé hơn mà có khi quyết định cả cuộc sống của con người, dù họ có hiểu điều đó hay không, và rồi đỉnh của thế giới sẽ lụi tàn trong hoang liêu.”

Miyax rất lo. Thùng dầu rỗng cô nhìn thấy lúc con chim cướp biển bay qua là ranh giới đánh dấu sự bắt đầu của nền văn minh và sự chấm dứt của thế giới hoang dã. Cô phải báo cho bầy đàn biết mối nguy hiểm ở phía trước. Cô đã học được cách nói nhiều điều với chúng, nhưng giờ đây, điều quan trọng nhất, một động tác vẫy tai hay một tiếng sủa để buộc chúng quay lại thì cô lại không biết.

Cô thầm nghĩ: Mình làm thế nào để nói được câu: “Chạy đi! Chạy xa vào!” đây? Cô cất tiếng hát:

Chạy đi nào, Sói ơi!

Đừng theo tôi nữa nhé

Chỉ qua cái thùng kia

Tôi sẽ thành nòng súng

Bắn vào bạn, Sói ơi.

Mây vần vũ đùn lên từ mặt đất và bay vùn vụt qua lãnh nguyên. Chúng báo hiệu bắt đầu một thời kỳ mù trắng. Miyax thay đổi kế hoạch, không lên đường vào đêm đó mà trở về lều, nhìn không gian chuyển màu trắng xóa do tuyết giăng đầy quanh cô và càng lúc càng dày thêm trên mặt đất. Cô thả rèm lều xuống rồi xách cái nồi ra. Cô lấy một mẩu mỡ cất trong cái túi bóng và một đoạn gân bỏ vào nồi. Cô đốt đoạn gân, ngọn lửa chiếu sáng căn lều nhỏ xíu của cô. Cô lôi chiếc lược ra.

Trong lúc đẽo gọt, cô nhận thấy nó chẳng giống cái lược chút nào mà rất giống dáng Amaroq. Răng lược là chân, cán lược là đầu nó. Nó như đang chờ đợi cô giúp nó thoát hình khỏi khúc xương. Ngạc nhiên khi nhận ra điều này, cô tỉ mẩn đẽo gọt hàng giờ liền và cuối cùng nó đã thành hình. Cổ nó được đẽo cong, đầu và đuôi đều vểnh lên. Đến đôi tai cũng như nói rằng: “Ta yêu con.”

Có tiếng chim kêu thảm thiết trong bóng tối. Miyax tò mò muốn biết đó là con chim gì và nó đang làm gì ở phương Bắc xa xôi trong ngày này. Vì quá buồn ngủ không còn muốn nghĩ thêm, cô bèn tháo ủng, cởi quần áo và gấp gọn lại. Tiếng chim vang lên ngay bên túi ngủ của cô. Giơ cao ngọn nến lên quá đầu, cô bò ra phía cửa và thấy ngay một đôi mắt long lanh của một chú chim choi choi lông vàng. Nó còn non vì bộ lông trên người nó và quanh mỏ nó vẫn còn những vệt màu vàng của chim non. Nó cố rúc sâu vào tấm da của cô.

Cô nhẹ nhàng luồn tay xuống dưới bụng nó, nhấc nó lên và mang nó lại gần. Những chiếc lông vàng và đen của nó ánh lên trong ánh sáng nhập nhoạng. Chưa bao giờ cô được giữ một con choi choi gần đến như vậy nên giờ cô hiểu tại sao cha Kapugen lại gọi loài chim này là “linh hồn của chim muông”. Cặp mắt vàng và đường viền quanh mỏ màu đỏ của con choi choi làm cho nó rất giống một vũ sư trong Đại tiệc Bong bóng.

- Mày bị lạc đây mà. Lẽ ra mày đã phải ở cách xa đây lắm rồi. Có lẽ là ở Labrador. Có khi nơi trú đông của mày là các thảo nguyên Argentina cũng nên. Nếu vậy thì mày chết mất thôi. Mày cần có côn trùng và các loại hạt. Nhưng có mày ở đây tao rất mừng. Tao sẽ gọi mày là Tornait, nghĩa là linh hồn chim muông đấy.

Cô nhẹ đặt con chim vào chiếc túi ngủ ấm áp của mình rồi cắt một miếng thịt tuần lộc chìa ra cho nó. Tornait nuốt ngấu nghiến. Cô cho nó ăn thêm miếng nữa, sau đó nó rúc đầu vào cánh và thiếp đi.

Đêm sau, mù trắng vẫn dày đặc đến mức cô không sao nhìn thấy nền đất khi bò ra ngoài lấy tuyết làm nước uống.

Lúc trở vào, cô nói với Tornait:

- Đêm nay tao chưa lên đường vội. Tao chẳng lo gì. Tao có đủ thức ăn, ánh sáng, đồ ấm, lửa và cả một người bạn đồng hành xinh đẹp nữa.

Đêm đó cô chau chuốt thêm hình đẽo Amaroq và trò chuyện với Tornait. Con choi choi thuần nhanh đến không ngờ, có lẽ vì nó sống ở những vùng cằn cỗi nhất thế giới nơi không hề có bóng con người, cũng có thể vì nó đang cô đơn. Tornait nhảy lách chách quanh những tấm da, bay đậu lên vai cô và hót líu lo khi cô cất tiếng hát.

Chiều hôm sau, mù trắng vẫn đặc quánh như sương mù. Miyax đang nấu ăn thì thấy Tornait xù lông, bật dậy vẻ đề phòng. Cô lắng tai nghe ngóng khá lâu mới phát hiện thấy có tiếng bước chân lạo xạo trên tuyết. Bò ra cửa, cô nhìn thấy Kapu trong màn sương, ria ướt sũng.

- Xin chào! - Cô lên tiếng.

Nó không lao bổ tới vì đang mải nhìn cái gì đó phía xa. Đúng lúc đó Amaroq xuất hiện và dừng lại bên cạnh Kapu.

- Amaroq! - Cô reo lên. - Amaroq, cậu khỏe chứ?

Lúc lắc đầu để thể hiện niềm vui sướng theo cách của loài sói, cô bò ra khỏi lều và nhẹ nhàng ngoạm lấy hàm nó. Nó vươn cao cổ rất oai vệ. Sau đó, nó nhìn Kapu và chạy vụt lên mặt hồ đóng băng. Con sói non chạy theo; Miyax cười khanh khách bò theo chúng. Cô chưa bò được bao xa thì Amaroq dừng lại và nhìn thẳng vào cô. Cô dừng ngay lại. Cặp sói thủ lĩnh phóng vụt đi, tuyết bay mù lên dưới nước kiệu của chúng.

Cô nhổm người lên tìm kiếm Ánh Bạc, Móng Vuốt và những con sói non khác nhưng chúng không đi theo cặp sói này. Miyax đứng thẳng dậy quay về lều. Chắc vị thủ lĩnh của bầy đàn đang dạy dỗ thủ lĩnh của bọn sói non. Cô khe khẽ lắc đầu vì đã hiểu ra vấn đề. Dĩ nhiên rồi. Cương vị thủ lĩnh không chỉ đòi hỏi sự can trường, trí thông minh mà còn cả kinh nghiệm nữa. Thủ lĩnh của một bầy sói cũng cần được dạy dỗ và còn ai làm việc đó tốt hơn Amaroq chứ?

- Tớ biết cậu sẽ dạy cái gì rồi. - Cô nói to. - Cậu sẽ dạy Kapu nên săn loài thú nào. Cậu sẽ dạy nó cách quyết đoán. Cậu sẽ dạy nó cách tiếp cận một con tuần lộc, chỗ nào thì có thể cho đàn nghỉ lại và cả cách yêu thương nữa.

Mù trắng đã tan, những ngôi sao hiện sáng rõ và San Fransisco lại vẫy gọi Miyax. Đã đến lúc phải lên đường. Giờ Kapu cũng phải học tập rồi.

- Nhưng tao làm thế nào để bảo chúng mày đừng theo tao nữa nhỉ? - Cô hỏi Tornait khi bò vào trong lều.

- Thôi phải rồi! - Cô bật lên. Chính Amaroq vừa dạy cô cách nói “Đứng lại” khi nó chỉ muốn Kapu theo nó. Nó chạy lên trước, quay lại và nhìn thẳng vào mắt cô. Cô đã phải dừng lại và quay về nhà. Cô háo hức làm thử. Cô chạy lên ngoái nhìn lại và trừng mắt.

- Đứng lại, Amaroq. Đứng nguyên tại chỗ!

Cô vừa khe khẽ hát vừa dỡ lều xuống, cuộn gọn lại và chất lên chiếc xe trượt của mình. Sau đó cô thu xếp hành lý và đặt Tornait vào trong mũ trùm áo parka. Xỏ chân vào đôi giày tuyết, cô nhắm theo hướng ngôi sao chỉ đường. Tuyết lạo xạo dưới chân cô và lần đầu tiên cô cảm thấy cái lạnh tê tái ngấm qua áo parka và ủng da. Vậy là nhiệt độ đang ở mức 0 độ C vì hằng năm cứ đến thang nhiệt độ này cô lại bắt đầu thấy ớn lạnh. Nhún nhảy và xoa mạnh hai bàn tay cho ấm lên, cô nhặt sợi dây kéo xe rồi đi về phía biển. Chiếc xe trượt băng băng theo sau cô.

Cô không nghe thấy tiếng động cơ máy bay nhưng cô nhìn thấy nó. Ánh nắng của mặt trời chính ngọ chiếu sáng thân máy bay bằng nhôm làm nó sáng lóa lên như một ngôi sao trên bầu trời. Đó là một chiếc máy bay cỡ nhỏ, loại máy bay các phi công vẫn dùng để chở hành khách vượt qua lãnh nguyên không có đường xá hoặc những vùng núi non hiểm trở của bang Alaska mà xe hơi không thể đi qua được. Đúng lúc đó, tiếng máy vọng đến tai cô, nhắc cô nhớ rằng đã bắt đầu đến thời kỳ các tay phi công chở người da trắng đi săn. Chiếc máy bay chao nghiêng và bay vòng vèo trên bầu trời. Nó vừa đổi hướng thì cô nhận ra tay phi công đang cho máy bay bám theo một con sông dài ngoằn ngoèo vốn là khu săn thú mùa đông. Sông thường phải chạy ra biển, cô vụt nghĩ. Vậy là mình sắp tới đích; có khi chỉ một đêm nữa là đến Mũi Hy Vọng. Cô rảo bước nhanh hơn.

Máy bay nghiêng cánh, lượn vòng và bay thẳng về phía cô. Khi nó bay là là gần mặt đất, trông nó to như một con đại bàng. Hai bên sườn máy bay liên tiếp nhá lên những tia sáng lóa mắt.

- Họ đang săn thú đấy. - Cô nói với Tornait. - Chúng ta phải chui vào vỏ thùng dầu thôi. Ăn mặc thế này trông tao chẳng khác gì một con gấu.