← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2

Dinh tổng thống là một công trình kì dị sáu tầng với mặt ngoài được thiết kế lõm vào, trông giống một chiếc loa âm thanh nổi. Mặt ngoài tòa nhà được bao phủ bởi những chiếc đĩa vàng phản chiếu ánh mặt trời vào ban ngày và làm chệch hướng đường đạn bắn bất kì lúc nào. Cung điện của Baptiste nằm ẩn mình cách xa con đường, phía sau một hàng rào điện làm bằng sắt mĩ thuật với những song sắt nhọn đầu. Một đường xe chạy uốn qua lối vào tiền sảnh nơi có những bậc thang dốc lên bằng đá cẩm thạch. Điều này giúp cho các lính gác có thể đứng trên cao mà bắn súng vào bất kì ai định tấn công tòa dinh thự từ mặt trước.

Charlie loạng choạng bước xuống bậc thang của tòa nhà trong cơn choáng váng, rồi đưa tay giật tung chiếc nơ cài cổ, cởi khuy cổ áo, vừa đi vừa hối hả hít vào luồng không khí tươi mát. Anh nhắm chặt mắt lại và lắc đầu từ bên này sang bên kia, nhưng dù cố gắng đến đâu anh cũng không tài nào gạt bỏ hình ảnh lòng bàn chân của Bernadette ra khỏi đầu. Ở tư thế ấy, trông cô thật dễ tổn thương làm sao.

Baptiste đã điều một chiếc limousine đưa Charlie tới dinh tổng thống nhưng lúc này không có chiếc xe nào đợi để đưa anh về căn hộ của mình.

“Xe của tôi đâu nhỉ?” Charlie hỏi một tên lính gác.

“Xe nào cũng đi hết rồi.” Hắn đáp cộc lốc.

“Vậy thì mang cho tôi một chiếc xe tới đây.”

Tên lính cười lạnh lẽo. “Tổng thống Baptiste có lệnh không điều thêm xe nào trong đêm nay”.

Trước buổi tối hôm nay, hẳn Charlie đã báo cáo về thái độ xấc xược của tên lính và yêu cầu một chiếc xe, nhưng giờ thì anh quá chán nản và sợ hãi không dám đôi co với hắn. Có một cơ hội mong manh để tìm ra một viên chức nhỏ có thể nhanh chóng thu xếp cho anh một chiếc xe, nhưng giờ đây không thế lực nào trên trái đất này có thể bắt anh trở lại bên trong tòa nhà để tìm một người như thế.

Sự biến mất của chiếc limousine và thái độ hỗn láo của tên lính gác là bằng chứng không thể chối cãi rằng Baptiste đã biết được anh chính là người tình của Bernadette. Lần cuối cùng Charlie trải qua nỗi kinh hoàng là mười hai năm trước, vào một buổi tối, trong lúc anh chuồn khỏi bãi đỗ xe của Câu lạc bộ Westmont sau khi viên nghị sĩ bị bắn. Anh vẫn còn hoảng sợ đến vài tuần sau khi tới Batanga. Charlie nhớ lại giây phút nỗi sợ hãi biến mất. Lúc đó, anh đang đi dạo trên bãi cát trắng phía sau nhà, ngắm những con sóng vỗ vào bờ. Những tán cọ xanh màu ngọc lục bảo đu đưa trong gió và bầu trời không gợn một bóng mây. Charlie hít vào luồng không khí trong lành rồi thở ra. Rồi anh mỉm cười và nói thật lớn, “Mình an toàn rồi.” Nhưng chẳng mất nhiều thời gian để anh nhận ra rằng điều mà anh nghĩ là an toàn thực ra chỉ là ảo tưởng.

Nỗi kinh hoàng bám theo Charlie khi anh đi xuống đường vòng dành cho ô tô dẫn tới trạm gác. Vài giây sau khi lính gác mở cổng, Charlie mệt mỏi lê bước về hướng thành phố, dọc theo Đại lộ Baptiste. Rất nhiều taxi đi ngang qua và cả những chiếc xe buýt sẵn lòng chở khách tham quan vòng quanh thành phố với một giá rẻ mạt nhưng căn hộ của Charlie chỉ cách dinh tổng thống hai dặm và anh cần đi bộ để trấn tĩnh lại.

Mặt sau tòa dinh thự trông ra biển và những luồng gió mát mẻ thổi vào đất liền trong đêm xua tan hơi nóng ẩm ướt ngột ngạt gần như cả ngày bao phủ lên các cư dân vùng Tây Phi thuộc miền khí hậu xích đạo. Charlie yêu sự nóng nực ấy. Khi nghĩ về điều đó, Charlie nhận ra rằng thời tiết bãi biển là một trong những ưu điểm hiếm hoi của đất nước Batanga. Những thứ khác hầu như đều là cặn bã. Tổng thống là một kẻ điên rồ còn hầu hết người dân thì sống trong lo sợ và nghèo xơ xác. Ngay cả những người giàu có ở Batanga cũng phải sống theo ý muốn của kẻ trị vì điên rồ còn mùa mưa thì kéo dài và buồn thê thảm.

Một ưu điểm nữa của Batanga, theo quan điểm của Charlie, là đất nước này không có hiệp ước dẫn độ tội phạm với Mỹ hay bất kì nước nào trên thế giới. Batanga là nơi lánh nạn ưa thích của những nhà độc tài đã bị phế truất, những tên khủng bố đang trốn chạy và những tội phạm bị truy nã. Batanga dang rộng vòng tay thân ái với tất cả những kẻ đó, đổi lại một cái giá. Mười hai năm trước, Charlie chạy trốn tới Batanga sau khi bị truy tố vì tội giết nghị sĩ Arnold Pope con ở Mỹ. Khi tới đây, anh rất giàu có nhờ tiền bản quyển của cuốn tự truyện ăn khách Ánh sáng Nội tâm và khoản tiền mà anh đã biển thủ từ công ty Inner Light. Những ngày đầu mới đến, mọi thứ đều màu hồng và anh được biệt đãi như một ông hoàng. Những người Charlie gặp đều giàu kếch xù. Họ cùng điều hành Batanga, sống trong những ngôi nhà lớn, ăn đồ ăn ngon và mở những bữa tiệc xa hoa. Và phụ nữ nữa chứ...! Họ đong đưa như những trái cây chín mọng, ở sẵn đó chờ người hái xuống và háo hức chia sẻ chiếc giường cùng anh bởi anh là nhân vật được tổng thống ưu ái. Mối liên hệ duy nhất giữa Charlie và người dân nghèo ở Batanga là với cậu bé người hầu và người đầu bếp, những người biết rằng chẳng dại gì mà hé răng nói xấu đất nước hay tổng thống của mình ở cái nơi mà bất kì ai cũng có thể là gián điệp và những tay cảnh sát chìm thường xuyên làm người này người kia biến mất vì một lí do nào đó hay chẳng vì lí do gì cả.

Sự thay đổi đến rất từ từ khiến Charlie không hề nhận ra những bất ổn cho tới khi đã quá muộn. Trong bốn năm đầu, Charlie sống trong một ngôi nhà tuyệt đẹp nhìn ra biển thuộc sở hữu của tổng thống. Tiền thuê nhà cứ leo thang nhưng Charlie có đến mấy triệu đô la trong tài khoản ngân hàng Thụy Sỹ nên với anh, khoản tiền đó chẳng đáng gì. Ngay cả khoản thuế anh phải trả để được sinh sống ở đây mà không bị dẫn độ về nước cũng chẳng thấm vào đâu. Charlie vung tay tiêu xài vì người ta trông đợi anh đứng ra chủ trì những bữa tiệc giống như anh được mời tới dự trước đó. Rồi còn quà cáp cho các quý bà nữa. Tất cả những khoản chi đó chẳng có gì đáng kể khi cuốn sách của anh vẫn giữ vị trí đầu bảng và được duy trì bởi sự quan tâm ồn ào của công chúng xung quanh vụ án của anh. Thế rồi, một nhân vật trong làng giải trí lại giết một ai đó và Charlie không còn là người nổi bật trong tháng nữa. Tiền bản quyền được tách ra trả làm hai lần trong một năm và cách nhau sáu tháng, thế nên mất gần một năm trời, Charlie mới nhận ra có điều gì đó không ổn đang diễn ra. Khi mới biết thu nhập của mình đang giảm sút, Charlie không quá lo âu. Cho tới khi khoản tiền trong bản kê khai tiếp theo lại giảm đi, Charlie mới bắt đầu hoảng sợ.

Điều khiển, giật dây mọi người là thú tiêu khiển của tổng thống Baptiste và ông ta đã lèo lái sự tuột dốc của Charlie từ một vị khách danh dự thành một con chó cảnh với một tài năng đích thực. Khi một nhà độc tài hết thời người châu Phi đến lánh nạn ở Batanga sau khi trộm hàng triệu đô la từ quốc khố của mình, Baptiste đã hỏi Charlie liệu anh có vui lòng chuyển sang ở một ngôi nhà nhỏ hơn nằm trên bờ biển không. Charlie, vẫn nghĩ rằng không ai động được đến mình, đã phớt lờ lời đề nghị ấy. Tổng thống lẽ ra có thể sai người bắn chết hay bắt Charlie nhưng ông ta lại thích lối tra tấn từ từ. Ngày hôm sau, những người hầu, làm bếp và làm vườn của Charlie không tới làm việc và họ không bao giờ quay trở lại nữa. Khi Charlie phàn nàn, Baptiste lại đề nghị rằng tốt hơn hết Charlie nên xem xét các khoản chi của mình bằng cách chuyển đến ở một nơi nhỏ hơn. Charlie vẫn ương bướng khăng khăng rằng anh có thể trả được các chi phí cho tòa biệt thự. Ngày tiếp theo, nhà Charlie bị cúp điện và một viên chức chính phủ thông báo cho anh biết tiền thuê nhà đã tăng lên. Charlie chợt nhìn ra bức tranh toàn cảnh. Một tuần sau, anh đã sống tại một căn nhà nhỏ hơn với một cậu bé người hầu kiêm luôn làm bếp. Mười hai năm sau ngày chạy trốn khỏi nước Mỹ, Charlie ở trong một căn hộ dơ dáy và chạy chiếc xe Volkswagen đã long sòng sọc.

Charlie biết sở dĩ mình còn sống vì vẫn còn mua vui được cho Baptiste. Tổng thống mang anh tới các bữa tiệc nơi anh thường xuyên làm nền cho các câu chuyện cười của kẻ độc tài này. Đôi khi Baptiste lại đem trưng bày anh chàng vật cưng người Mỹ của mình trên kênh truyền hình duy nhất của Batanga hay tại những yến tiệc thiết đãi các quan chức cấp cao của những nước theo chính sách chống Mỹ. Phần lớn thời gian, Baptiste hoàn toàn phớt lờ Charlie, thật tốt lắm thay.

Con đường từ dinh tổng thống tới căn hộ của Charlie phải đi qua trung tâm Baptisteville. Các cửa hàng đều đã đóng cửa khi đêm xuống và trong các quán bar, hoạt động cũng bớt dần huyên náo. Mấy người bảo vệ tầm tuổi trung niên ngồi trên những chiếc thùng gỗ làm nhiệm vụ gác cổng cho những thương gia người Liban. Đám chó hoang hung dữ gầy xơ xác lang thang trên phố kiếm ăn, gầm gừ với những người qua đường giờ đã thưa thớt. Có cả những tên lính luôn có mặt vào mọi lúc. Charlie biết rằng việc là người da trắng không bảo vệ được anh trước lũ thanh niên choai choai điên rồ trong đội khủng bố của Baptiste, nhưng anh không e ngại bọn lính vì đã có giấy thông hành của tổng thống. Ai không có giấy thông hành thường tránh xa đám lính trẻ mang vũ khí tự động, những kẻ phải nói là không thể đoán trước được.

Charlie không hề nguôi nỗi lo sợ khi đi xuống con dốc hướng về Waterside. Trái lại, rảo bước vội vã trên những con phố vắng vẻ càng làm anh thêm sợ hãi. Anh tưởng tượng một trong những chiếc Mercedes màu đen, thứ xe ưa thích của bọn cảnh sát chìm, phanh két lại bên cạnh anh. Những kẻ mang vũ khí túm lấy tay anh, một cái túi đen trùm qua đầu anh và anh bị đưa trở lại dinh tổng thống để đón nhận bất kì số mệnh nào mà Baptiste dành sẵn cho anh.

Khi đi tới cuối chân đồi, Charlie nghe thấy tiếng sóng biển vỗ vào bờ phía sau khu chợ của dân địa phương. Âm thanh dễ chịu giúp anh đi nốt vài trăm mét cho tới khi trước mặt anh là xưởng gạch Kamal s. Dean nằm ở tầng trệt của khu nhà ba tầng nơi anh sinh sống. Charlie đi qua khung cửa vòm bên hông tòa nhà. Khi leo lên cái cầu thang bị quây kín một phần, Charlie cảm thấy mùi biển mặn mòi theo gió phả vào người và anh bỗng thấy được những gợn bọt trắng tinh trên đầu những ngọn sóng đang ập vào bãi biển hẹp phía dưới kia. Charlie sắp sửa đặt chân đến trước cửa phòng mình thì một người đàn ông hiện ra từ bóng tối. Charlie nhảy lùi lại và vung tay định đỡ một cú đánh.

“Là tôi, Pierre đây,” người đàn ông thì thầm. Pierre Girard, anh trai của Bernadette, mặc chiếc áo Dashiki* nhuộm kiểu tie-dye* và chiếc quần dài màu nâu. Anh có dáng người mảnh khảnh, thư sinh và đôi mắt nâu buồn bã trở nên to hơn qua cặp kính đồi mồi với hai mắt kính dày cộp.

Áo Dashiki là một kiểu áo truyền thống dành cho nam giới ở khu vực Tây Phi thường có nhiều màu sặc sỡ.

Nhuộm kiểu tie-dye là một kĩ thuật nhuộm độc đáo nhằm tạo ra những họa tiết nhuộm màu trên vải bằng cách buộc từng phần của vải lại để những chỗ đó không bị ăn màu. Cách nhuộm này rất phổ biến ở châu Phi.

Charlie rũ người xuống nhẹ nhõm. “Ôi, Pierre,” giọng anh nửa như thổn thức nửa như thở dài. “Anh đã biết chuyện gì chưa?”

Anh trai của Bernadette gật đầu nhưng khuôn mặt anh ta không biểu lộ cảm xúc gì.

Tôi rất tiếc, Charlie nói.

“Chẳng còn thời gian để đau buồn đâu. Baptiste biết anh và Bernadette là tình nhân rồi. Giờ thì hắn đang chơi đùa với anh nhưng cũng chẳng được lâu đâu. Khi nào chán cái trò cân não này, hắn sẽ cử Nathan tới đây. Anh phải rời Batanga ngay.

Pierre đặt một tay lên vai Charlie: “Bernadette đã kể cho tôi nghe anh tốt với nó thế nào. Nó yêu anh, Charlie ạ.”

“Cảm ơn anh vì đã cho tôi biết điều đó”

“Còn điều này anh nên biết. Bernadette bị giết không hẳn vì đã lừa dối Baptiste mặc dù điều đó khiến cho tên khốn kia thích thú hơn trước sự đau đớn của nó. Thực ra, nó bị tra tấn để moi thông tin.”

Tôi không hiểu gì cả.

“Có những người Batanga muốn Baptiste phải chết hoặc biến mất. Bernadette đang giúp chúng tôi.”

Pierre nắm chặt lấy vai Charlie. “Anh có muốn báo thù cho nó không?”

“Tất nhiên rồi, nhưng tôi có thể làm được gì? Đến bản thân mình tôi còn không lo được.”

“Anh biết Rebecca, nhân viên pha chế quầy bar ở quán Mauna Loa chứ?”

Charlie gật đầu.

“Cô ấy có thể thu xếp cho anh gặp một người có khả năng giúp anh thoát khỏi đây. Tay này là lính đánh thuê và sẽ tốn nhiều tiền đấy.”

Charlie hiểu rằng mình có thể chết khổ chết sở nếu ở lại Batanga. Ngay cả khi Baptiste để anh sống, điều tốt đẹp nhất anh có thể mong đợi là một cuộc sống đầy ắp lo sợ khi mỗi giây mỗi khắc anh hít thở đều phụ thuộc vào ý thích bất chợt của một kẻ tâm thần giết người máu lạnh. Nếu quay về Mỹ, anh sẽ phải ra tòa vì tội giết người. Nhưng mười hai năm đã trôi qua. Liệu nước Mỹ có còn mở lại vụ án sau ngần ấy thời gian? Điều quan trọng nhất với Charlie là kể cả có bị kết án thì anh cũng thà bị giết trong khu xà lim tử tù còn hơn là bị giết ở Batanga. Ở Oregon, tử tù sẽ được chết nhanh chóng bằng một liều thuốc độc. Còn ở Batanga, tổng thống lại thích thú được nghe nạn nhân la hét càng lâu càng tốt.

“Tôi biết có một cách để thu xếp chuyện này,” Charlie nói với Pierre.

“Thế thì tốt. Khi nào mọi chuyện sắp xếp xong xuôi, Rebecca sẽ liên lạc với anh và đưa cho anh một thứ để mang theo, một thứ mà Bernadette đã giao cho tôi.”

“Là thứ gì?” Charlie hỏi, tự nhiên thấy ngờ vực và sợ hãi cái viễn cảnh bị bắt vì tiếp tay cho phe nổi loạn.

“Kim cương, rất nhiều đấy. Chúng tôi cần anh giúp mang chúng đến nước Mỹ. Sau đó chúng tôi sẽ lấy lại và dùng nó để mua vũ khí cho quân của chúng tôi.”

“Tôi không chắc là...”

“Anh có yêu em gái tôi không?”

Đôi mắt Charlie mờ đi và anh gật đầu, quá nghẹn ngào không nói nên lời.

“Vậy thì đừng để cái chết của nó trở thành vô ích.”

Charlie nhìn qua người Pierre dõi về phía biển. Kì quặc là ở chỗ anh có thể chết trước cả khi có thể giúp đỡ bất kì ai, nhưng nếu sống sót, rốt cục anh lại có thể làm được một việc xứng đáng với mạng sống của mình bằng cách giúp đỡ Pierre.

“Được rồi. Tôi tham gia.”

Pierre mỉm cười. “Bernadette đã biết là chúng tôi có thể trông cậy ở anh. Cảm ơn anh, Charlie.”

Họ nói chuyện thêm vài phút nữa. Rồi Pierre ôm lấy Charlie trước khi trèo ra phía ngoài tòa nhà và tuột xuống bãi biển bằng sợi dây thừng mà anh ta đã dùng để trèo lên đây.

Cửa trước căn hộ của Charlie mở vào một hành lang hẹp với một bên là căn bếp với phòng ngủ còn bên kia là phòng khách và một phòng trống được dùng là phòng làm việc nằm về phía bờ biển. Anh bật ngọn đèn đặt trên cái bàn gỗ rẻ tiền trong phòng làm việc. Thật may là đêm nay có điện. Charlie bật máy tính xách tay rồi đăng nhập vào tài khoản email của mình. Anh tin rằng bất kì email nào gửi đi cũng sẽ bị cảnh sát đọc trộm, vì thế, anh thảo bức thư này rất cẩn thận. Bức thư để gửi cho Martha Brice, tổng biên tập tờ Tin tức Thế giới, một tạp chí thuộc phe bảo thủ cực đoan có trụ sở đặt tại New York.

“Kính gửi bà Brice. Tên tôi là Charlie Marsh. Bà có thể đã biết đến tôi với cái tên Guru Gabriel Sun, tác giả cuốn tự truyện Ánh sáng Nội tâm, một trong những cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới. Mười hai năm trước, tôi đã bị dựng tội giết nghị sĩ Arnold Pope con và buộc phải trốn chạy khỏi nước Mỹ. Kể từ ngày đó, tôi sinh sống tại đất nước Batanga tuyệt vời dưới sự bảo hộ của một nhà cầm quyền rất đối rộng lượng, tổng thống Jean-Claude Baptiste. Tổng thống Baptiste đúng là ngọn nguồn ánh sáng, là người cha của nhân dân Batanga. Báo chí phương Tây đã sai lầm khi gán cho ông cái tên kẻ độc tài. Tôi chưa có dịp phỏng vấn ông trong thời gian qua nhưng tôi hi vọng được thực hiện ngay điều đó để xóa đi hiểu lầm đối với một nhà lãnh đạo dũng cảm, người vẫn bị coi là độc ác một cách phi lí.

Tôi đã xem người ta phỏng vấn bà trên truyền hình và tôi cũng dõi theo sự nghiệp của bà. Tôi tin rằng những bài viết của Tin tức Thế giới luôn đưa ra cái nhìn không thiên kiến về tình hình trên thế giới. Không biết liệu tờ báo hàng đầu của bà có hứng thú với việc cử phóng viên tới đây viết bài và kể cho người Mỹ biết về những điều tuyệt vời mà tổng thống Baptiste đang làm cho người dân Batanga hay không? Nếu có, xin vui lòng liên hệ với tôi để chúng ta cùng sắp xếp các chi tiết.”

Charlie đọc bức thư tới hai lần trước khi gửi nó đi. Trong trường hợp Baptiste đọc bức thư này, ông ta có thể tạm hoãn việc giết Charlie với hi vọng cuộc phỏng vấn được đưa lên mặt báo. Điều đó có thể đem lại cho Charlie chút ít thời gian và thời gian chính là đồng minh quan trọng nhất của anh lúc này. Thời gian có thể đem lại cho Charlie cơ hội sống sót; một cơ hội mong manh, nhưng dù thế nào thì vẫn là một cơ hội, và Charlie luôn là người biết nắm chặt lấy thời cơ khi nó đến.

Charlie uống rất nhiều tại bữa tiệc nhưng nỗi kinh hoàng trong căn phòng tầng hầm đã khiến anh hoàn toàn tỉnh rượu. Anh ngờ rằng mình không thể ngủ được dù đã ba giờ sáng rồi. Rót cho mình một li scotch, Charlie cầm li rượu ra ngoài ban công - nơi tốt nhất anh có được ở căn hộ tồi tàn bẩn thỉu này. Từ đây, trước khi mặt trời lặn, anh có thể ngắm nhìn những ngư dân địa phương lướt sóng trên những chiếc ca- nô khi họ mang mẻ cá đánh bắt được vào bờ. Sau khi trời tối, những vì sao sẽ tỏa sáng trên bầu trời châu Phi và anh có thể nhìn thấy ánh đèn từ những con tàu đang thả neo ở bến cảng Freeport. Trong suốt mùa mưa, anh lại được ngắm nhìn những cơn dông kèm theo nhũng tia chớp đẹp như một màn bắn pháo hoa.

Charlie nhấp một ngụm rượu mạnh và cố hình dung xem Bernadette đã phải chịu đựng những gì trước khi thần chết rủ lòng thương xót cô. Một giọt nước mắt nhỏ xuống má và anh đưa tay quệt nó đi. Đó là giọt nước mắt khóc cho cả anh và người tình đã chết.

+

+ +

Cái nóng của ánh mặt trời đánh thức Charlie. Anh mở mắt và nhìn ra phía biển, tự hỏi sao mình lại nằm ngoài này. Cạnh Charlie có một chiếc ghế. Trong khoảnh khắc vừa tỉnh giấc, Charlie tưởng như thoáng nhìn thấy Bernadette đang ngồi bên và cười theo kiểu riêng của mình, nụ cười khiến bất kì căn phòng nào cô có mặt cũng sáng bừng lên.

Rồi Charlie nhớ lại những việc diễn ra ở dinh tổng thống và cố nén cơn thổn thức.

Sáu năm trước, Baptiste giới thiệu người vợ thứ tư của mình với giới thượng lưu ở Batanga. Charlie đã mê mẩn trước vẻ đẹp thanh lịch và nụ cười ấm áp của cô nhưng anh biết cô là người không thể đụng đến và sớm quên cô đi. Vài năm sau, anh lại nhìn thấy cô từ xa trong các bữa quốc yến và một vài buổi tiệc khác nữa. Anh nhớ mãi dáng vẻ mang thai của cô cứ ngời lên ánh sáng hạnh phúc được làm mẹ và nhớ cả cái cách cô mỉm cười khi nhìn Alfonse. Nhưng lần đầu anh ở một mình bên cô, cô không hề cười.

Cách đây hơn một năm, ngài bộ trưởng Ngoại giao tổ chức một bữa tiệc để tiếp đón phái đoàn cấp cao của Ghana. Charlie chán ngấy đám khách khứa, sự ồn ào và tất cả những gì đang diễn ra. Từ sân trong tòa nhà ngài bộ trưởng có một cầu thang dẫn xuống bãi biển. Charlie đi dọc theo bờ biển và bắt gặp Bernadette đang ngồi trên một khúc gỗ lớn dạt vào bờ theo ngọn thủy triều. Lúc đó trời tối và cả ánh trăng lẫn ánh điện xung quanh đều không đủ sáng để xóa đi bóng tối trên khuôn mặt Bernadette. Khi anh tiến lại gần hơn cũng là lúc những giọt nước mắt sáng lên trên đôi má đen của cô, và Charlie nhìn thấy đôi môi bị rách và cặp mắt sưng vu. Bóng tối và những vết thương trên mặt Bernadette khiến Charlie không nhận ra cô ngay, nếu không hẳn là anh đã lập tức đi khỏi đó. Có Chúa mới biết Baptiste sẽ làm gì với tên đàn ông nào dám ở một mình cạnh vợ hắn. Tới lúc Charlie nhận ra cô thì đầu cô đã gục trên vai anh và nước mắt cô ướt đẫm áo sơ mi của anh.

Bernadette đã không còn tin vào lòng nhân từ nhưng giờ thì cô lại gặp một người dịu dàng và đầy lòng trắc ẩn. Khi hết khóc và suy nghĩ thấu đáo, Bernadette mới nhận ra mình đã đặt Charlie vào nguy hiểm. Cô cảm ơn anh, nắm chặt tay anh rồi rời đi để lại anh một mình trên bãi biển. Nhưng một tháng sau, khi ngài tổng thống đang ở Las Ve- gas, mải mê bài bạc và chơi gái, Bernadette lại nhìn thấy Charlie tại một buổi trình diễn ở Batanga Palace, khách sạn sang trọng duy nhất ở Batanga. Lần đó, cô đã hoàn toàn trao cho anh trái tim mình.

Thoạt tiên, Charlie cố gắng kháng cự lại nỗi khao khát được ở bên Bernadette bởi anh không hề muốn mình bị xẻ thành từng mảnh nhỏ bằng cưa xích hay biến thành món thịt nướng barbecue với đèn hàn, hai trong số những phương pháp hành hình ưa thích của ngài tổng thống. Nhưng trước đây, Charlie chưa hề biết yêu là thế nào và giờ thì anh choáng váng bởi những cảm xúc mãnh liệt dành cho linh hồn lạc lối xinh đẹp này. Họ bắt đầu gặp gỡ trong một phòng tại khách sạn mà Charlie thuê dưới một cái tên giả. Trong buổi hẹn hò đầu tiên, Bernadette đã tiết lộ cho Charlie hay người trị vì đầy quyền lực của dân Batanga lại chẳng làm được trò trống gì trên giường. Charlie hiểu ra rằng Baptiste đổ lỗi cho Bernadette về những thất bại trên giường của hắn và khi không làm được gì hắn lại đánh cô. Những trận thượng cẳng chân hạ cẳng tay ngày càng kinh khủng tới mức Bernadette bắt đầu lo sợ cho mạng sống của mình.

Charlie và Bernadette bắt đầu nói về việc chạy trốn và sống cùng nhau dù lẽ ra cả hai phải biết rằng chuyện tình này và những mơ mộng đó thật điên rồ. Thế nhưng những người đang yêu luôn rời xa thực tế. Charlie chưa bao giờ nghĩ xem tại sao mà chuyện hẹn hò vụng trộm của hai người lại không bị phát hiện ở một đất nước mà ai cũng là gián điệp và người dễ bị giám sát nhất chính là vợ của người trị vì tối cao. Giờ thì Charlie mới biết Baptiste đã nắm rõ mọi hoạt động của hai người.

Charlie lặng lẽ khóc khi anh tự hỏi làm thế nào mà một người tuyệt vời như Bernadette lại có thể chết được. Khi đã cạn nước mắt, anh nhắm mắt lại, ngả đầu ra sau và cảm nhận ánh mặt trời trên khuôn mặt cùng sự mơn man của làn gió biển. Sóng vẫn đang từng phút tràn qua những dãy đá trên bờ biển phía dưới kia như mọi ngày. Thế giới vẫn tiếp tục nhịp đập của nó và Charlie vẫn còn sống để tận hưởng điều đó. Và chừng nào còn sống, anh còn cơ hội sống sót và tìm được cách trả thù cho tình yêu đã mất của mình.