Chương 2
Tôi là một trong số năm nhà văn được mời dùng bữa cơm riêng tại tư dinh của viên đại sứ Pháp. Tôi ăn sáng muộn lững thững đi bộ một mình và đến đúng giờ. Có hai nhà văn lớn tuổi hơn tôi và hai nhà văn kia thật trẻ. Hai nhà văn trẻ là một nam một nữ, tôi đã được nhiều lần nhìn thấy họ trên tivi. Nhà văn nữ trẻ nói tiếng Anh rất giỏi, không hiểu điều này có giúp gì cho cô bé khi tả các ẩn ức sex. Hình như cô bé có làm thơ, tờ báo của hội người cao niên kêu ca là dâm loạn, minh hoạ bằng chuyện một cụ ông bẩy mươi sáu tuổi bỏ nhà đi hoang cầm theo tập thơ “Nằm nghiêng vẫn thèm” của cô bé. Tôi đã đọc một tập truyện ngắn nhiều đàn bà tính của nhà thơ trẻ nữ. Cũng như thông thường có chuyện thích có chuyện không thích, nhưng tôi rất thích những bài trả lời phỏng vấn của cô bé, dù là báo hình hay báo chữ, tất cả đều rất mạnh mẽ nhiều ấn tượng. Tuỳ viên sách của Đại sứ bắt đầu lần lượt giới thiệu từng người. Đầu tiên là nhà văn quan chức. Ông này làm phê bình và đã viết hai bài rất dài trên báo Đảng nói về tính vô luân không nhân bản trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Tôi thở dài cố không nhìn ông. Tôi đã dự vài ba lần ăn uống kiểu này sau vài ba lần thoái thác. Tôi không nói được tiếng Pháp và đấy là điều thật ngại. Gần như phải dịch riêng cho tôi là Giăng, một chàng đẹp trai người Pháp chuyên gia dân tộc học, có ngữ điệu tiếng Việt thật dễ chịu. Giăng nói với tôi là có đọc gần hết những cái của tôi và chân thành thích. Người Pháp được tiếng là giỏi xã giao nhưng Giăng thì có vẻ chân thực. Ngồi sát phía tay trái tôi là một nữ văn sĩ người Bỉ. Bà này có một hàng ria mờ và hút thuốc lá ở tốc độ khủng khiếp. Lúc nẫy bà ta có hỏi một vài câu tò mò rất thông minh về văn hoá Việt nam. Lần đầu tiên trong đời bà ta đến Hà nội. Bà có đọc truyện Kiều tóm tắt bằng văn xuôi và khẳng định một nữ tác gia như Nguyễn Du xứng đáng là một nữ sĩ. Tôi rụt dè quay sang, một nỗi ngần ngại mơ hồ khi tôi chủ động đối thoại. Tôi mong bà thông cảm vì tôi với bà đều là những người sáng tác. Vâng, tôi cũng chỉ biết thanh tra Maigré, chắc đấy là toàn bộ văn chương nước Bỉ ở tôi. Tuỳ viên sách nhấp một ngụm rượu vang rồi lịch thiệp nói về nhà văn nam trẻ, cho đến giờ anh ta đã viết ba cuốn tiểu thuyết và đều có dư luận. Một trong ba cuốn đã được dịch ra Pháp ngữ. Giăng nói nhỏ với riêng tôi là không hiểu tại sao người ta lại chọn dịch cuốn dở nhất. Tôi đã đọc cả ba cuốn đó ở dạng bản thảo, tôi và bố của nhà văn nam trẻ là bạn vong niên cựu giao. Ông bạn tôi xuất thân viết kịch nhưng khi về hưu với tiêu chuẩn tương đương thứ trưởng. Ông nổi tiếng về làm kinh tế và làm tình. Trong một bài trả lời phỏng vấn mà số báo sau có đính chính, nhà văn nam trẻ khẳng định là mình sinh trưởng trong một gia đình có đông bọn đạo đức giả. Nhà văn nam trẻ cũng hút thuốc lá liên tục. Bà người Thuỵ sĩ làm nghề nghiên cứu phê bình văn học, ngồi cạnh thỉnh thoảng lại gập người ho sặc sụa. Lớp nhà văn thành danh sau tôi khoảng chục năm có vẻ ít uống rượu. Có lẽ họ được hưởng một nền giáo dục tương đối chu đáo, những khát khao trong trắng ở họ không cần đô pinh. Họ thích viết truyện ngắn giọng điệu có đôi phần khinh bạc, những bài tiểu luận có dáng dấp báo chí. Nói chung họ có tiền và tốc độ sống thường nhanh. Tôi đã rất nhiều lần tự hỏi là tại sao người ta lại gọi một người viết chữ là nhà văn. Phải chăng vì anh ta có sách có bài hoặc dung tục hơn, có tên ở một hội nghề nghiệp nào đấy. Hoặc chính bản thân anh ta tự sâu sắc hiểu anh ta là một nhà văn. Cái sứ mệnh khắc nghiệt ấy được anh ta cảm nhận qua một giấc mơ hay một lời phán tặng đồng bóng linh tinh. Nếu đúng thế thì kể cũng đau đớn. Sự ngộ nhận, sự mê chấp thường được bao bọc trong long lanh rất nhiều biện giải minh triết. Khi có tuổi, tôi hay tự hỏi tôi. Làm thế nào để gạt đi sự lầm lẫn của người viết, những người mẫn cảm rất hay tự huyễn hoặc mình. Điều kiện chính xác cho một người được gọi là nhà văn có vẻ đơn giản, đấy là anh ta được các nhà văn khác công nhận. Kinh Thánh nói “Không ai biết người con, trừ Chúa Cha và cũng không ai biết Chúa Cha, trừ người con và kẻ mà Cha đã muốn mặc khải cho”.(Lc.10;21-22). Câu này rất hay nhưng đậm tính siêu hình, Nho gia nói cụ thể hơn về sự linh ứng đồng cảm, lân ti. Chỉ người có tài mới hiểu mà thương nhau. Như vậy, sự khẳng nhận từ một người đã là nhà văn với một người đang chập chờn viết mới chính là sự ấn chứng. Nó giống hệt như ấn chứng “việc ngộ” giữa các thiền sư với nhau, sự liên thông thuần tuý trực giác giữa hai người. Một việc rất khó nhọc và dễ lầm lẫn là người viết trước khi được ấn chứng phải tự âm thầm đi tìm nhà văn “chính danh” của riêng mình. Có phải chăng cách giản đơn nhất là đọc, đọc thật nhiều. ở đây phát sinh một vấn đề nữa. Thế những người đầu tiên được gọi là nhà văn thì ai là người đầu tiên gọi họ. Đã là có nhà văn đầu tiên thì ai là độc giả đầu tiên. Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt. Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân. Trương nhược Hư buông thắc mắc mà không giải thích. Người bồi bàn già mặc Smoking đen thao tác chuyên nghiệp rót thêm cho tôi một cốc Vang nữa. Tôi không sành Vang nhưng ông bạn nhà văn già xuất thân dịch giả ngồi đối diện tôi ngấm ngầm nheo mắt giơ một ngón tay cái. Bàn tiệc vẫn sinh động và uyển chuyển bởi những câu hỏi từ ông Đại sứ. Các nhà văn không hẳn là những kẻ vụng nói và nhà văn nam trẻ bắt đầu nói. Câu hỏi có tính muôn thủa là tại sao nhà văn lại phải viết và khi viết anh ta chịu ảnh hưởng từ những cái gì. Nhà văn nam trẻ nói ngắn, giọng khàn khàn của những người quen trác táng về đêm. “Theo cái hiểu hạn hẹp của tôi thì các người viết ở Việt nam chịu ảnh hưởng trực tiếp của ba nền văn hoá. Lần lượt là Trung Quốc, Pháp và Nga. Rất dễ giải thích, từ góc độ độc giả, vì đấy là ba nền văn hoá được chuyển ngữ sang tiếng Việt đông nhất. Tôi chịu ơn nhiều từ văn học Pháp. Tất nhiên, đã có lắm lời kêu ca về chất lượng các bản dịch. Nhưng chẳng sao, Jésus khi vào Việt nam không thể mang khuôn mặt thuần Do thái được nữa. Cái chính là ở nước tôi vẫn có nhà thờ, thậm chí là nhiều”. Cách đây không lâu, trên một trang văn nghệ của một tờ tuần báo đã có bài luận gay gắt của nhà văn nam trẻ khi tranh luận về Jean Paul Satre và Camus. Các nhà phê bình có tuổi chớm bị vôi hoá cột sống ít có thời gian để ngồi đọc coi đây là hai hiện tượng vừa cũ vừa lạc hậu. Cái gọi là tiểu thuyết mới của Alain Robbe-Grillet hoặc của Natalie Sarraute là một thứ bọn Tây ăn chán đã nhè ra thì các nhà văn nông nổi ít tuổi ở ta hăm hở nhá lại. Người ta thích phán thật nhưng ít khi chịu đọc thật. Tôi nhớ những năm đầu thập kỷ tám mươi và vài năm cuối cũng thập kỷ đó. Chủ nghĩa hiện sinh được tái sinh trên mồm. Khá đông những người viết miền Bắc chỉ biết văn học phương Tây qua một cuốn nửa tiểu luận nửa điểm sách phổ cập thời thượng, hoặc bốc đồng cóp nhặt từ khảo luận của Nguyễn văn Trung của Trần thiện Đạo, luôn tiên phong to mồm là “hiện sinh” đã bị lịch sử vứt vào sọt rác. Nhà văn nam trẻ ký tên thật, đanh đá phản bác. “Chúng tôi tôn trọng các vị và các vị cũng nên tôn trọng chúng tôi. Chúng tôi đã chân thành hiểu các vị và các vị đã không chịu hiểu chúng tôi. Chúng tôi phải tập quen viết trong cái không khí đẫm đầy thành kiến và đố kỵ. Các vị ưa dùng những lời to tát nhưng luôn vu chúng tôi là đại ngôn. Một luận cứ tầm thường của một lối văn phê bình tầm thường luôn được các vị dùng đi dùng lại”. Tôi đọc bài luận không hiểu sao thấy mình uể oải. Bài “Đại ngôn không phải là độc quyền của người nhớn” cố tình chọc cáu những tờ Văn Nghệ đã lụ khụ. Đành rằng lớn tuổi cứ cố chiếm chỗ thì phải chôn, nhưng có nên hung hăng quá không. Văn chương tuyệt đối không có thời, miễn cưỡng thì phải chia ra trẻ già, giai đoạn này giai đoạn kia. Hơn nữa về thực chất, văn chương đâu có đại diện được hộ ai. Bảo nó là phương tiện cũng được, cứu cánh cũng được. Viết chỉ là bị viết có vậy thôi. Tôi đọc lại bài báo một lần nữa và thật sự thấy mình là một người viết làng nhàng đang già. Tôi bây giờ gần năm mươi tuổi và có chút danh mọn từ năm ba mươi sáu tuổi. Tôi tham dự chừng tám trại sáng tác và khoảng mười một lần các cuộc thi văn chương lớn cũng như bé. Tôi may mắn hơn những đồng nghiệp khác là chẳng được giải gì, đấy cũng là một trong vài nguyên nhân lẻ tẻ để đến giờ tôi còn cầm bút. Tôi đưa mắt tìm người bồi, không hiểu sao cốc vang của tôi đã hết. Giá mà có Whisky. Trong những bữa rượu kiểu này, tôi luôn là người tự mình uống nhiều. Ông nhà văn da mầu người Công gô lịch sự xin phép nói. Giăng buông phuốc sét dịch từng câu nhỏ nhẻ cho tôi. Ông nhà văn này xuất thân chính trị gia, đã từng làm đại sứ ở nhiều nước rồi hình như có thành thủ tướng. Ông bầy tỏ nghi ngờ về câu bản sắc văn hoá dân tộc. Ông viết tiếng Pháp và tôi chưa bao giờ được đọc tác phẩm của ông. Nhà văn nữ trẻ bắt đầu phản đối. Cô bé rồi sẽ nói nửa đúng nửa sai. Tôi mong cô bé đừng nói quá dài, văn hay là một chuyện kiến thức lại là chuyện khác. Cô bé bất cẩn vung tay suýt làm rơi bát súp khi nhấn ý, dân tộc tính là đặc điểm gần như duy nhất giúp người đọc nhận ra được nhà văn. Tôi lưỡng lự châm thuốc, phụ nữ Việt nam thường ý thức sâu sắc được mình khi đứng trước nhiều đàn ông ngoại quốc. Một nhà văn quân đội cùng đoàn với tôi đi Mỹ, lúc về có viết một quyển sách du ký và có kể riêng cho tôi nhiều chuyện không ghi trong sách. Tôi biết một vài chuyện và tôi hỏi.
“Lúc ấy anh thấy tủi thân lắm à”
“Cũng chẳng hẳn, nhưng hình như mình cũng thấy nhỏ nhoi”
“Anh thì còn sợ cái quái gì. Tuổi của anh, vị thế của anh”
“Mẹ cái bọn nước ngoài”
Tôi a dua gật gù, cái thói trịnh thượng của nhiều tay ngoại quốc thì tôi biết rồi. Lỗi chưa chắc đã hoàn toàn ở họ. Tôi xuất ngoại tính ra cũng nhiều, hoặc theo hội nhà văn hoặc đi ké những cơ quan không phải hội nhà văn. Tôi rất nhớ chuyến đi Pháp ba tháng và rất muốn quên chuyến đi Mỹ kéo dài hơn sáu tuần. Cái tuần thứ năm định mệnh ở Boston xoay đổi số phận tôi. Tôi đã quen rồi lấy người đàn bà ấy. Nếu như chúng tôi có con thì gần như chắc chắn tôi sẽ bẻ bút. Biết đâu đấy lại là điều hay. Hơn một lần tôi từng thề là không bao giờ viết về vợ, nhưng tôi nhu nhược không biết giữ lời. Giăng cậy tình thân hỏi sỗ.
“Đâu phải người Việt nào cũng có mặc cảm, hầu như tôi toàn gặp những người quá tự tin”
Mặc cảm thì sao, quá tự tin thì sao. Tôi cười nhạt, tôi không muốn kể những chuyện đã qua của tôi với Giăng. Tôi và Giăng cùng một nhà văn già, nổi tiếng nhờ dịch văn học cổ điển Pháp, đi chơi lang thang quanh Bờ hồ. Dịch giả đột ngột thèm rượu và chúng tôi kiếm một cái Bar nho nhỏ có vườn. Dịch giả vừa có món bổng lặt vặt, đây là thứ giời ơi đất hỡi từ một sự lầm lẫn của một quan chức Bộ văn hoá. Dịch giả gọi Whisky nguyên chai, giá dễ chịu, chênh với sạp lẻ Hàng Buồm chừng trăm nghìn. Ba cái ly có đá cục có chanh vắt, dịch giả hắt tất vào gạt tàn, ông quen uống rượu nặng không pha. Vô công tự nhiên hưởng lộc dịch giả muốn chia bớt cái hoạ ấy sang tôi và Giăng.
- Tôi tưởng đây là cái nhuận mồm cho việc anh tư vấn cái một nghìn năm Thăng long.
Dịch giả xua tay
- Bây giờ mà nói vo được tiền thì chỉ có là quan chức. Tôi vẫn phải viết một bài luận chừng hai ngàn chữ. Thế nhưng buồn cười là tôi viết nhầm đề, họ hỏi tôi Hà nội tôi lại đi kể Paris.
Quan chức thì bao giờ cho hết lầm lẫn. Tiền hối lộ thiếu hơn chục ngàn đô, chỉ đến khi ra toà lơ ngơ mới biết. Có ông ngây thơ uống rượu đi khánh thành lộn công trình, đọc đít cua chào mừng dây chuyền sản xuất máy nông cụ, xong xuôi thì ngớ ra là người ta mời đến cắt băng thông xe cầu mới. ở Việt nam ngập đầy những chuyện có thật về lầm lẫn hoặc ngu hoặc khôn của các quan. Tôi mệt mỏi cưòi nhìn Giăng đang hồn nhiên cười. Người Pháp cũng có nhiều lầm lẫn chứ. Cố nhiên. Giăng thuật lại một sai lầm rất vớ vẩn của tổng thống đương nhiệm. Dịch giả bật cười, ông xác nhận là đã biết chuyện này qua kênh TV5. Rượu chừng được một tuần thì chú ruột tôi tới, ông ta thập thò ở phía hàng rào có quấn nhiều hoa leo, tôi đứng lên đi vào toa lét. Dăm năm nay ông chú tôi hành nghề ở phía vùng Hồ bên này. Chú tôi bán xổ số dạo, postcard kèm những truyện tranh thiếu nhi in mầu loè loẹt. Nhờ cái vét tông không cũ lắm và cái kính trắng trên khuôn mặt sáng ánh mầu ria bạc, hồi đầu, chú tôi lọt vào mọi xó xỉnh của các nhà hàng và khánh sạn sang trọng. Tôi đứng trước gương ở phòng vệ sinh loay hoay rửa mặt, đủ thời gian cho tay gác dan râu quai nón đuổi những người bán rong hoặc xin xỏ. Tôi không sợ gặp mặt chú tôi, nhưng đôi phần có ngại, vài năm gần đây ông hay mặt dầy trắng trợn xin tiền. Tôi muốn có chút sĩ diện với Giăng. Đã vài lần, Giăng hỏi xuất xứ văn hoá của tôi. Giăng nói, tôi là một trong vài nhà văn Việt nam mà Giăng tôn trọng. Tôi cười trừ, tôi thấy cái gọi là văn nghiệp của tôi rất bình thường. Khi tôi ba mươi bẩy tuổi cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi đột nhiên gây ầm ĩ. Cuốn tiểu thuyết tôi viết trong vòng tám năm, một con số chẳng nói lên điều gì, ngoại trừ là một sự lười biếng và nặng nề hơn, một nghiệp chướng. Một trăm trang đầu xong rất nhanh, cái nhanh của sự hồn nhiên của sự háo hức sốt ruột và đương nhiên có cả sự phẫn nộ. Sau đấy là tắc là chán là đằng đẵng bỏ dở. Người ta không biết tại sao mình lại viết và cũng không biết như vậy khi tại sao mình không viết. Những quyển vở liêu xiêu chữ chép tay cong queo cả bốn mép nằm lăn lóc cạnh mấy vỏ chai còn mang máng chút rượu đọng cặn. Rồi một đêm mùa đông nào đó, nhỡ uống cà phê, đột ngột tỉnh rượu bật đèn vớ lại tập bản thảo cũ. Loay hoay đọc, rồi tranh cãi với những chữ đã viết rồi hí hoáy ngồi sửa. Thế là có thêm năm chục trang, thế là có thêm bẩy chục trang. Đấy là sức mình hay là ý Chúa. Hồi đấy tôi đã cảm động hỏi vậy bởi đức tin của tôi còn non nớt. Càng có tuổi những câu hỏi trong trắng càng ít. Cuốn tiểu thuyết đầu tay đã đem lại cho tôi một chút hào nhoáng, một cuộc hôn nhân và vô số hệ luỵ. Tôi đã dại dột trả lời phỏng vấn một nhà báo nữ, một bài phỏng vấn gần như đầu tiên và mong rằng sẽ là cuối cùng. Các nhà báo nữ đa phần đều có in thơ đã viết hoặc một truyện ngắn hoặc một tập truyện ngắn. Nếu họ tự khắt khe vứt bỏ đi vài sự nuông chiều nịnh nọt vớ vẩn thì họ đã trở thành những nữ văn sĩ rất giỏi. Tôi ghét cái giả thiết này, đấy là luận điệu đầu môi của đám văn sĩ đàn ông đang ao ước bỏ vợ. Với đa phần nhà văn, viết báo là khó, nó đòi hỏi những kỹ năng những tố chất khác hẳn. Nhà văn viết báo thường là miễn cưỡng hoặc là phải cố nên bịa ra cái câu viết báo nhiều làm hại văn. Làm báo thật và hay còn hơn rất nhiều làm những thứ văn chương làng nhàng. Trước cuốn tiểu thuyết tôi đã vào hội nhà văn bằng một tập truyện ngắn. Hai nhà văn một nam một nữ giới thiệu tôi vào.Văn nghiệp của họ tương đối bình thường nhưng cả hai đều rất nổi tiếng. Hội nhà văn là một hội nghề nghiệp có vị thế rất đặc biệt ở Việt nam. Tôi cũng ý thức được thế, so với rất đông các đồng nghiệp chịu nhiều vất vả khác chưa được vào hội, tôi là gã may mắn. Hôm làm lễ kết nạp hội viên mới tôi nhìn kỹ ông Tổng thư ký hội. Tôi biết ông sơ sơ theo những mối tương giao hành chính. Ông khách quan ủng hộ tôi khá vô tư, có thể là ông thích văn nhưng cũng có thể là do ông quan liêu. Ông là một nhà thơ, thỉnh thoảng có viết truyện mi ni xinh xinh và đương nhiên phải viết rất nhiều những bản báo cáo dài ăm ắp trang trọng. Lễ kết nạp sang và vui, tôi thấy mình vinh dự vừa phải. Tôi và chín người nữa thuần viết văn xuôi được kết nạp đợt này. Còn những người viết thơ hay làm phê bình số lượng bao nhiêu thì tôi không nhớ. Người già nhất ở miền Trung bật khóc, tôi mang máng biết lý do, tất nhiên không phải là việc chạy vạy tiền nong rồi bây giờ hối hận xót của. Ông ta tiếc là khi được thành nhà văn thì mồm miệng lại không nhai được, hôm qua, cái răng hàm cuối cùng vừa rụng. Người trẻ nhất ở thành phố Hồ chí Minh luôn nhếch mép cười khinh bạc. Về sau, khi trả lời phỏng vấn một tờ báo của những người trồng rau sạch chị này có nói đáng ra chị phải được vào từ đợt trước. Tàn cuộc lễ, tôi rủ riêng hai nhà văn đã giới thiệu tôi vào hội đi ăn chả cá. Cả hai người đều có thời gian sống rất lâu và rất sâu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhà văn nữ có nhiều năm là thanh niên xung phong ở Đông Trường sơn còn nhà văn nam là một tay súng bộ binh có hạng ở một đại đội trinh sát.
“Năm 1975 ông đang ở đâu”
“ừm, hình như em đang làm luận văn tốt nghiệp Đại học”
Tôi không muốn nhớ nhiều về quá khứ vì quá khứ của tôi nó nhạt. Trong cái nhạt thường ẩn nhiều những cái tầm thường. Và trong cái tầm thường thì có nhiều những cái ngu dốt ác độc. Hồi tôi mười ba tuổi tôi còm nhom như đứa bẩy tuổi. Một tối mùa hè những người lớn tổ chức ca nhạc ngoài trời ở cửa khách sạn Phú Gia. Hồi ấy như thế là hiếm lắm. Những tháng đó đang là khoảng lặng của chiến tranh. Mỹ đã bắt đầu ngồi vào đàm phán với ba bên Việt nam ở Paris. Dân Hà nội lục tục từ chỗ sơ tán trở về. Mặt ai nấy đều nhẹ nhõm hân hoan, lâu lắm mới thấy thật nhiều ánh điện. Đông nghìn nghịt người quây quanh sàn gỗ sân khấu. Bạt ngàn là trẻ con lốc nhốc ăn mặc đủ kiểu, bọn mặc sang trọng nhất là diện đồ viện trợ từ các nước Đông Âu. Tôi thèm thuồng nhìn thằng đứng sát cạnh, quần soóc lửng tới gần mắt cá với cái áo sơ mi thùng thình mầu đỏ ớt. Khoảng tám giờ tối thì buổi diễn lẫn lộn ca múa nhạc xiếc sẽ bắt đầu. Tôi tót ra trước từ sáu giờ chiều, theo mấy thằng lớn cùng phố đi xí chỗ. Bố tôi đi công tác, ông ngoại tôi dẫn mấy thanh niên ở tổ dân phòng đi kiểm tra gác chuông nhà Thờ. Quầy đổi bánh mì của mẹ tôi ở cửa hàng lương thực mậu dịch đóng cửa muộn. Bọn phố tôi chiếm được chỗ khá tốt sát ngay vệt căng dây thừng ngăn lối cầu thang đi lên sàn diễn. Mấy thằng lớn cố kiễng chân, một cô ca sĩ béo ị đang cởi trần thay áo ngay trong gầm sân khấu. Tôi thò tay vào túi cấu từng miếng bích cốt nhỏ nhai trộm cố không ra tiếng, nếu bọn xung quanh biết chúng nó sẽ nằn nèo xin hết sạch. Bích cốt làm từ những khoanh bánh mì phơi khô có tẩm đường, một thứ xa xỉ lạ lùng ngon mà ba mươi năm sau tôi không biết ví với bất cứ loại bánh đặc sản nào. Vợ tôi nghi hoặc “Cùng lắm thì như bánh chocolate hoặc gâteau phết dầy bơ tươi chứ gì”. Tôi không muốn giải thích vì không thể giải thích, vợ tôi chưa bao giờ bị đói. Anh chàng lùn tịt kéo ắc coóc mặc áo sơ mi trắng pha lon bắt đầu nhạc dạo bài Nổi lửa lên em và nàng ca sĩ béo ị đã lấy hơi hai lần nhưng vẫn trượt nhịp. Nàng nói nhỏ “Anh dập mạnh mạnh thêm nữa để em vào”. Tôi khó hiểu nhìn đám xung quanh ồ lên hồn nhiên cười, đội văn nghệ xung kích của quận hầu như chưa tập với nhau lần nào. Trăng đã dậy rồi khơi bếp hồng lên nhé. Lá nếp rau rừng xanh thắm tình anh nuôi. Đám đông càng lúc càng đông và tôi cố gồng mình để giữ chỗ. Phía bên kia đường sát mép hồ mặc kệ hai anh công an áo vàng khản giọng xua đuổi, người ta vẫn trèo hết cả lên nắp hầm trú ẩn. Sắp đến tiết mục xiếc, xiếc thật của đoàn trung uơng, mọi người nhao nhao ủn nhau hò hét. Một gã trung niên gầy nhẳng mặt vàng thếch của mầu bánh mì mốc đứng cách tôi chừng hơn một mét chợt nhẩy dậy lên văng tục, chắc bị đứa nào đứng sau lấy kim băng đâm vào đít. Chỗ của tôi tốt thật, nó là giữa khe của hai nút dây thừng lớn. ở chỗ này, không xem được các diễn viên thay quần áo nhưng nhìn những người hát thì rõ mặt. Chợt gót chân tôi đau nhói, ai đấy đã xéo day mạnh vào một cách cố ý. Tôi dụt rè quay lại, kề sát vai tôi là khuôn mặt tóc cong cớn phi dê của một thiếu phụ chừng bốn mươi. Hơn ba mươi năm sau tôi vẫn bị nhớ cặp lưỡng quyền cao đanh ác. Gần ngang dưới ngực thiếu phụ và loay hoay sau lưng tôi là một con bé cũng gầy gò như tôi. Thiếu phụ thì thầm với con bé nhưng rõ ràng muốn tôi nghe thấy. “Con cứ cắn vào vai nó”. Con bé không dám, cũng như tôi, nó đang sợ. Gót chân tôi lại nhói đau vì mũi guốc của thiếu phụ nghiến lên. Tôi cứng người chịu đựng. Trên sàn diễn là tiết mục ảo thuật hay lộn nhào gì đó. Thiếu phụ thò tay thô bạo trắng trợn véo vào sườn tôi, mặt bà ta lạnh tanh giả vờ hân hoan nhìn lên. “úi giời ơi, úi giời ơi, giỏi quá”. Kèm theo mỗi nhịp kêu tán thưởng nghệ thuật xiếc là mỗi cái véo căm thù. Đứa con gái sau lưng tôi chợt thút thít khóc. Tôi cố không khóc, nhưng cũng không biết mình chui ra khỏi cái đám đông đó như thế nào. Hơn ba mươi năm sau con bé vẫn còn nhận ra tôi, con bé đã là thiếu phụ chưa chồng tuổi già quá ba mươi nhưng vẫn còm nhom như đứa bé mười tuổi. Thiếu phụ ấy là phóng viên nữ của một tờ tuần báo nổi tiếng làm bài phỏng vấn tôi. “Cho em hỏi anh một câu riêng, em không ghi băng, anh có lúc nào còn bị người ta giầy xéo lên không”. Tôi lắc đầu “Không”. Thực ra tôi định nói thỉnh thoảng nhưng lại ngài ngại, đây là lần đầu tiên tôi nhận trả lời phỏng vấn. Hoàn toàn không ngẫu nhiên là tôi đồng ý, bởi tôi cũng nhận ra cô bé. John Updike khi đang nổi tiếng có nói “Tất cả những gì mà nhà văn muốn chia sẻ cho thế giới được anh ta nói lên bằng tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận. Nếu anh ta không làm được việc ấy thì anh ta đồng ý phỏng vấn”. John Updike ở Mỹ, mà ở đấy giới truyền thông rất đáng kể và đáng sợ. Tôi từ chối gặp gỡ báo chí vì đơn giản là tôi dát, có những chuyện hoàn toàn do thể tạng hợp hay không hợp chứ chẳng phải những lý do sâu xa cao đạo gì. Khi bị nói mồm miệng đông cứng ngượng ngập lúng túng thiếu tự tin kinh khủng. Cô phóng viên thành thạo an ủi, cái nào rồi cũng quen anh ạ. Tôi không nghĩ vậy, ví như chuyện bị giầy xéo chẳng hạn. Con người đa phần là vô tình khi dẫm đạp và làm nhục nhau, bởi họ không bao giờ ý thức được việc đó làm tổn thương người khác đến mức độ nào. Đau đớn chịu đựng được đã là khó lắm còn làm quen thì không thể. Hồi bé, tôi hay bị bố tôi tát, những cái tát bất thường không rõ lý do. Bố tôi là công nhân lái máy ủi ở một lâm trường xa xôi Tây Bắc. Tay ông lông lá cùng cục nhiều chai, thỉnh thoảng ông lại lấy những quyển sách tôi đang đọc dở đập vào mặt tôi. Một lần bố tôi lôi tôi sềnh sệch từ sau góc tủ lúc tôi đang cắm đầu đọc cuốn Những linh hồn chết, quyển sách có gáy dầy đó làm tôi bật máu mũi. Mãi về sau trông thấy ảnh Gô Gôn ở một hiệu sách cũ gần chỗ văn phòng tôi làm, tôi vẫn vô cớ nghẹn ngào. Bố tôi hầu như không bao giờ đọc sách, những năm đó ông miễn cưỡng phải đi nhà thờ vì đang phải ở rể nhà ông ngoại tôi. Trước khi cưới ông bị bắt buộc đi học bổn sáu tháng, ông đọc trôi chẩy được kinh Lạy Cha kinh Kính mừng kinh Tin kính kinh Sáng danh. Sau khi đẻ chị tôi được một tháng, đúng ngày làm lễ rửa tội cho chị tôi, bố tôi không bao giờ vào nhà thờ nữa. “Thằng vô đạo, thằng Giu đa. Lạy đức Chúa Lời ba ngôi, tôi lấy được vợ tôi thôi nhà thờ”. Ông ngoại tôi vừa uống rượu vừa lè nhè, mẹ tôi buông cái bát cơm dở rít lên “Ông có thôi đi không nào.Tại ai, tại bố hay tại con”. Mặt ông tôi chợt buồn sẫm đanh lại. Nghẹn ngào, ông ngoại tôi uống rượu trong im lặng. Những năm năm mươi ở miền Bắc Việt nam xẩy ra nhiều chuyện mà mãi mãi người ta không lý giải được là tại sao người ta đã làm như vậy. Chị tôi sinh trước tôi tròn một năm và cũng tròn đúng một năm sau giải phóng Thủ đô. Bố mẹ tôi nhiều lần cãi nhau, mặc dù cả năm bố tôi biền biệt không có nhà chừng tám chín tháng. Để tránh mọi người biết, hai người lầm lũi, hoặc một đi trước hoặc một đi sau ra phía Bờ Hồ. Tôi rón rén nức nở lẽo đẽo theo sau. Hà nội đi sơ tán đường Tràng thi vắng đen lỳ nhựa không có điện. Thỉnh thoảng có toán dân phòng đội mũ sắt đeo băng đỏ tay cầm gậy sơn đen đi ngược. Bố và mẹ tôi lần nào cũng đứng khuất sau cái cửa hầm trú ẩn công cộng rất lớn phía trước trụ sở công an khu Hoàn Kiếm. Quanh Bờ Hồ chỉ có hai cái hầm như vậy. Tôi run rẩy nấp sau cây sấu già. Những tiếng rít khe khẽ của cả bố mẹ tôi. Bố tôi tát mẹ, bà không vừa dùng cả hai tay tóm tóc ông. Bố tôi chồm lên giật cái dây chuyền mỏng mảnh vàng tây có đính cây thánh giá bằng bạc tượng Chúa Giê Su chịu nạn. Ông hung dữ ném nó xuống chân, rồi lấy đôi ủng bê bết bùn đạp bồm bộp lên. Mẹ tôi buông tóc bố tôi lao vào cào cấu. Tôi oà khóc hoang mang chạy về phía nhà thờ Lớn.
“Cậu tin vào đạo Thiên Chúa thật à”
Nhà văn nữ nhấp ngụm rượu nhỏ tò mò nhìn tôi. Rất nhiều người biết tôi là viết văn và theo đạo Công giáo. ở Việt nam, quen gọi đạo Công giáo là đạo Thiên Chúa, không rõ cái sai này xuất xứ từ đâu. Ngay cả gọi là Ki Tô giáo cũng chưa hẳn đúng. Ki Tô hữu, ngoài người Công giáo còn bao gồm cả người Tin lành, Anh giáo và Chính Thống giáo nữa.
“Cậu có tin thật không”
Tôi đánh trống lảng “Cũng không hẳn vậy”
Nói về đức tin quả thật là khó, làm sao biện giải minh bạch được. Tin cũng giống như yêu, chỉ biết tin là Tin thôi. Tôi đã đọc đi đọc lại cuốn Hành trình và truyền giáo của cố Đắc Lộ, những tín đồ đầu tiên người Việt nam chẳng lẽ tin Phúc Âm một cách ngây ngô thế sao. Người bình dân thì có thể, còn quí tộc hoặc trí thức thì không thể đơn giản như vậy. Quán chả cá có ba mẹ con đứng bán hàng đều béo. Cô con gái béo hơn nhìn nhà văn nữ bằng cái nhìn là lạ. Chắc cô bé ít được thấy một khách hàng phụ nữ nào như vậy. Hút nhiều và uống nhiều. Nhà văn nữ có một truyện ngắn rất hay. Tất nhiên chỉ có một truyện ấy thôi. Vào lúc đó nhà văn nữ hai mươi bẩy tuổi.
“Đáng nhẽ ra tôi phải lấy chồng. Tôi không nghĩ chữ nghĩa nó lại quái quỉ đểu giả đến vậy. Còn cái ông ấy thì hay khen tôi quá, thế là cắm mặt vào mà viết tiểu thuyết.”
Nhà văn nữ đanh đá khe khẽ thở dài. Tôi có cảm tình với chị chỉ những khi chị ngồi uống rượu. Có thật nhiều tâm sự buồn bã chân thành ở những lúc chị vừa uống vừa nói. Nhưng sau cơn say chị thường tỉnh và mọi sự tự nhiên lại khác lắm. Cái ông ấy mà chị nhắc là một nhà thơ già rất thích viết phê bình. Thủa tóc xanh ông cũng đã nổi tiếng nhờ một bài lục bát và về già ông càng nổi tiếng vì nhờ có chị. Họ chênh nhau chừng ba chục tuổi, ông nhà thơ là bạn văn đồng tuế với bố chị. Sáng sáng cặp người tình công khai ngồi uống cà phê đen ở quán Lâm “toét”. Chỗ bất di bất dịch là dưới bức sơn dầu cửa Ô Quan chưởng của Phái “phố”. Đôi lúc gặp người quen, chị nghênh ngang xã giao chào còn ông thờ ơ thở khói thuốc lên quạt trần. Cũng chẳng có dư luận gì, người Hà nội vốn rộng tính, hơn nữa văn nghệ sĩ không hẳn đồi truỵ nhưng phải lập dị. Chị tự nhận mình là gợi tình, đám đàn ông viết trẻ đang loay hoay tìm cách lớn liếc trộm chị dãi nhỏ tong tong. Hình như vì ông nhà thơ xui mà chị viết tiểu thuyết. Chị lang thang tám tháng qua ba trại sáng tác. Một lời xui dại. Cuốn tiểu thuyết dầy dặn gần bốn trăm trang đã vét sạch nhẵn những trong trắng nông nổi ở chị. Sau cuốn đó người ta bắt đầu gọi chị là nhà văn. Nghĩa là không cụt lủn trụi độc cái tên mà dài dòng trân trọng cả họ và đệm. Những năm giữa tám mươi được lên ti vi là rất hiếm, thế mà có tháng chị thấp thoáng ở trên màn hình tới hơn một lần. Những nhà thơ trung niên tóc thưa hoặc xoăn bắt đầu làm thơ tặng chị. Ông nhà thơ già uất, viết một bài phê bình công phu đăng hai kỳ ở một tạp chí thuộc nghành vận tải, ông phân tích sự hơn kém khác nhau giữa những nhà thơ thời chống Pháp và những nhà thơ thời chống Mỹ. Bài phê bình có một tiếng vang, vài giáo sư ở đại học không quen biết ông vô tư nhận xét đây là một nhát roi quất vào đít con ngưạ sáng tác đang lẻo khẻo. Tôi có đọc cuốn tiểu thuyết của chị khi tôi đang chập chững viết vài truyện ngắn đầu. Tôi cố ép mình đọc hết, những năm ấy tôi đang còn rất khoẻ. Nhà văn nữ rít điếu ba số năm một hơi thật sâu, mắt chị đẹp thật.
“Cuốn đó bao nhiêu là người đọc. Tôi nhận vô thiên lủng thư của độc giả. Tôi đố các ông biết chính xác tia ra của nó. Lão giáo sư Tấm còn đề nghị Bộ giáo dục đưa một trích đoạn tám trang vào sách giáo khoa cho bọn học sinh trung học.”
“Thôi bà ơi, uống nốt chén này đi. Già rồi có khác, toàn là thở than khảo cổ, sốt cả ruột.”
Nhà văn nam khẽ cụng chén rồi nuốt một ngụm rượu lớn. Nhà văn nam cũng đã viết tiểu thuyết, một cuốn không dầy chỉ chừng hơn hai trăm trang khổ vừa, nhưng nó cũng nhận được hơn hai mươi bài chê khổ lớn trên nhiều báo và tạp chí. Hầu hết người ta đều khẳng định nhà văn xuất thân từ quân đội này có cái nhìn không đúng về chiến tranh. Đã thế nó lại tục, cuốn tiểu thuyết được viết bằng thứ chữ nôm na lính tráng. Một số cựu chiến binh cao cấp đòi bắt nhà văn bỏ vào tù. Đông đảo các nhà văn chưa bao giờ đi bộ đội tinh tế viết bài gay gắt giải thích những chỗ bịa đặt sống sượng của cái gọi là tác phẩm. Làm gì chiến tranh vệ quốc lại dã man và u ám đến thế. Không biết có phải những chuyện linh tinh ấy không, vợ nhà văn đột ngột bỏ anh. Hai anh chị có hai đứa con nhờ nhỡ, cả nhà mếu máo khóc. Đứa con gái lớn ở với bố còn đứa con trai bé thì theo mẹ. Tôi biết anh trước cái tai nạn đó một đoạn. Có buổi tối tôi đang ngồi lẻ loi lang mang nghĩ chẳng viết chẳng đọc, nhà văn nam chủ động gọi điện thoại đến nói rằng rất thích tập truyện ngắn của tôi. Anh thích giọng văn, nhưng rất khó chịu các nhân vật của tôi, nhất là khi họ yêu nhau hoặc cãi giận nhau. Và anh, khẳng định rằng trong số những người anh coi là nhà văn anh xếp tôi thứ năm mươi. Như phần đông những người nhập môn, tôi cảm động, vài hôm sau tôi trân trọng mời anh ra một quán rượu. Anh uống được nhiều, không lựa rượu, và đồ mồi đắc ý nhất là đậu phụ luộc, nhiều lúc không cần cả mắm tôm lẫn rau kinh giới. Anh đã viết một bài luận dài đăng trên báo của Hội về tập truyện ngắn của tôi. Anh em chưa biết mặt nhau, thực ra điều này cũng không quan trọng, nhưng anh em gặp nhau thì hay hơn. Anh viết, anh là nhà văn nông dân không hiểu lắm cái đỏng đảnh của đám tiểu thị dân nhưng văn của tôi hay thì phải khen là hay. Tôi biết anh nói chân thành vì anh là người hồn nhiên. ở khoảng thời gian này, khen chê hoặc phê hoặc bình đang bị ô nhiễm bởi nhiều thói dung tục. Đáng sợ nhất là người viết khen thường bị coi là bè đảng, là tụi lăng xê mấy đứa sáng tác dỏm, thật lòng thích cũng đành ngần ngại, cho nên viết phê bình văn chương vô tư khách quan là phải chửi thật nặng. Anh xua tay, nhai đậu phụ luộc thành tiếng, nói là tôi vẫn còn nông nổi chưa hiểu hết chuyện. Có những người viết thuê người khác chửi hoặc chính mình viết bài chửi mình. Cái đích vẫn là sự nổi tiếng. Tôi xã giao cãi là làm gì có chuyện tệ thế, anh cũng đang là biên tập viên của một tạp chí anh đã gặp chuyện ấy chưa. Anh nói là chưa, dưng mà dư luận nó cứ đồn thổi thế. Tôi triết lý suông là vàng thau lẫn lộn, bọn gian hùng thường thích thời loạn. Kinh Dịch bảo, tiểu nhân đầy đường quân tử nên núp trong nhà. Anh trợn mắt nhìn tôi rồi nốc rượu. Vâng, người tử tế ở thời này phải bơn bớt cái mồm.Tất nhiên, nói thì vậy, nhưng khi nhắc tới cuốn tiểu thuyết mới viết đang lăn lóc qua mấy nhà xuất bản, vẫn phấp phỏng hy vọng cuối năm sẽ được in. Anh cụng ly uống liên tiếp với tôi rồi say lăn quay ra gầm bàn. Tôi ít thấy ai hồn nhiên giống anh, mấy tháng sau gặp chuyện khốn khổ khốn nạn, anh nghe người ta xui loay hoay ngồi thiền. Nhìn anh ngồi kiết già mà phì cuời, nhấp nha nhấp nhổm như con khỉ. Hồi ấy, với tư cách là một tiểu thuyết gia thời thượng, nhà văn nữ cũng viết một bài tương đối dài giọng nửa ấm ớ nửa đanh đá moi móc văn của anh. Khi có riêng tôi và anh, tôi thóc mách chuyện cũ, nhà văn nam nhăn nhó cười.
“ối giời, đàn bà. Mụ ấy thì biết cái quái gì phê với bình. Cả bài sặc mùi thằng tình già. Nhưng mà có điều này hay lắm, mụ ta bảo sau cái bài viết ấy mụ ta đâm ra biết uống rượu.”
Tôi và nhà văn nam có một thoả ước bất thành ngôn. Thỉnh thoảng, nhà văn nữ gọi chúng tôi tụ tập ngồi nhậu, tôi và anh đều chọn đến khoảng đã già nửa bữa. Chúng tôi đều quí chị lúc chị đã uống nhiều. Khi chị không uống, chị hay đau đớn chuyện người khác hoặc tệ hơn chị cáu kỉnh bình luận thời sự chính trị trong nước và quốc tế. Chủ đề gần đây nhất của chị là Việt nam sẽ hoá rồng như thế nào.
“Ông đưa tôi xem cái thẻ hội viên mới nó in có đẹp không.”
Tôi đưa cho nhà văn nam cái thẻ, anh ngắm nghía rồi đưa cho nhà văn nữ.
“Ông bị dở hơi đấy à”, chị sỉ mũi vào góc gầm bàn.
Khi ngà ngà rượu người ta hay có các động tác vô thức ngộ nghĩnh, nhà văn nam ngu ngơ cười. Bạn văn ngồi với nhau đa phần là nói chuyện linh tinh, có chuyện tục vừa có chuyện rất tục. Cũng đôi khi nói chuyện viết lách, nhưng nói cũng chỉ để mà nói thôi.
“Cái hồi tôi in xong tập truyện ngắn thứ hai, cơ quan tổ chức hội thảo. Có bao nhiêu là lời chúc tụng nhưng mình cứ nhớ mãi một lời chúc độc đáo. Chúc ông phấn đấu trở thành hội viên Hội nhà văn.”
Nhà văn nam và nhà văn nữ cùng rũ ra cười. Tôi cầm chai rót đều ra thêm ba chén rượu, tôi chẳng thấy buồn cười. Câu chúc đấy không lấy gì làm độc đáo. Tôi xem nhiều chương trình giao lưu văn nghệ giữa tác giả và độc giả trên ti vi, hầu hết những người viết trẻ cả nam lẫn nữ đều xin hứa sẽ nỗ lực phấn đấu trở thành hội viên Hội nhà văn. Làm nhà văn thì cũng có thể là hay nhưng là việc không thể cố, thường người ta chỉ cố phấn đấu để trở thành lao động tiên tiến. Tôi đã có hơn tám năm làm công chức, tôi thấy người ta thường chỉ cố được trong những việc cụ thể. Văn chương mà hay đa phần đều mơ hồ, thậm chí mông lung không ý nghĩa. Nếu quả thật muốn cố phấn đấu để tới thì cũng chẳng biết đường quái nào mà lần. Nhà văn nữ bắt đầu bảng lảng say và khi phê phê chị hay khúc khích tự cười.
“Tôi vào hội cùng ngày với thằng Vẫn. Lúc ấy bia uống bao cấp nhưng nó khuân đâu ra được nửa thùng. Tàn bữa nước mắt nó lã chã vừa gào vừa khóc. Từ bây giờ tôi trở thành thằng nhà thơ mậu dịch rồi. Chao ôi, tự do của tôi. Chao ôi, thơ của tôi.”
Nhà văn nam bật cười gằn “Đừng nhắc đến thằng điếm ấy nữa, gở bỏ mẹ”.
Tôi tò mò muốn nghe. Khi người ta còn trẻ người ta thích hóng hớt những chuyện nửa hư nửa thực. Mà nữa, tôi cũng khá thích thơ của anh chàng nghiện ngập ấy. Từ vựng của anh ta chỉ chừng hơn nghìn chữ long lanh đẫm mùi rượu. So với cái tỉnh táo của đám văn xuôi, đa phần những người làm thơ thường điên điên hơn. Họ uống cũng nhiều, say cũng nhanh nhưng đến lúc tỉnh táo thì đến quá nửa số người trong bọn họ sẽ đi làm quan. Nguyên khí thơ ca vì thế hay bị thất thoát. Nhà văn quân đội lớn tuổi đi Mỹ ngủ cùng buồng với tôi giải thích. “Bọn nhà thơ độ thăng hoa của chúng nó rất cao nên khi sáng tác không cần thời gian. Còn bọn văn xuôi hay lê thê, nặng nề mài đít ở ghế hết mẹ cả thời giờ đầu tư vào hoạn lộ.”. Tôi đồ rằng không phải. Người Tầu chia chữ nghĩa chính danh ra làm hai loại. Một là đại thuyết, tức là lời nói to, bao gồm Kinh, Sử, Tử, Tập. Thể loại Tập ở đây chủ yếu là thi tập, như vậy, bọn thi sĩ luôn thuộc vào loại lớn. Hai là tiểu thuyết, tức là lời nói nhỏ, đương nhiên chỉ đám văn xuôi. Đoản thiên tiểu thuyết bị dịch theo lối Tây mà thành truyện ngắn. Trung thiên tiểu thuyết là truyện vừa. Còn cái novel mà bọn Mỹ hay gọi tôi với bác là Novelist thì chính thị trường thiên tiểu thuyết. Mà đã là lời nói nhỏ, kể cả qua ăm pli nó vẫn thì thào, làm sao oai hùng mà thành quan nhớn được. Đại tá nhà văn gật gà gật gù. Trong nhà tôi, cả hai bên nội ngoại chẳng có ai được thành quan nhớn và cũng chẳng có ai mê thơ hoặc mê văn. Toàn bộ giới nghệ sĩ chỉ bao gồm đám diễn viên sân khấu điện ảnh ca nhạc xanh xanh đỏ đỏ do lổn nhổn đọc qua báo. Người tình đầu của chị tôi là một gã diễn viên xiếc vai u thịt bắp. Chị tôi mười bẩy sang mười tám, run run nói dối bố mẹ, cầm đôi vé mời rủ tôi đến nhà tròn căng bạt ở gần bến xe Kim liên ngái nồng mùi nước giải. Anh chàng ra đón tận cổng trong bộ đồ sắp biểu diễn lóng lánh kim tuyến. Chị tôi bẽn lẽn nhưng ngấm ngầm hãnh diện liếc xung quanh. Hai chị em có chỗ ngồi tốt và rạp kha khá đông người, có tới phân nửa là những người ngoại tỉnh nhỡ tầu nhỡ xe. Trong khi chờ mở màn họ hoặc ăn bánh mì hoặc xôi hoặc cơm nắm. Tiết mục của anh chàng lưng lửng gần cuối đó là trò vừa xếp người vừa tung hứng. Anh chàng làm trụ và leo lên đầu anh ta là hai gã lực lưỡng cũng kim tuyến lóng lánh. Trên cùng là một cô bé mảnh dẻ uốn dẻo lấy chân tung vòng. Anh chàng khoẻ thật, cổ nổi gân đỏ thở phì phà phì phò. Lúc ấy tôi mười sáu tuổi và đấy là người nghệ sĩ tôi gặp đầu tiên trong đời.
- Cái ông bán dạo lúc nẫy hình như có biết anh - Giăng tò mò hỏi
- Ông ấy là chú ruột tôi
- Nhân vật sở trường của anh phải không, lại một trí thức thất cơ lỡ vận à.
Giăng luôn có cái hồn nhiên của người đọc nhiều. Nếu một người đã từng được hưởng một nền giáo dục tử tế cũng nên gọi là trí thức. Năm 1964, chú ruột tôi tốt nghiệp đại học. Những năm ấy thì cái bằng ấy là cực kỳ quí. Chú tôi đã từng có tiền đã từng có quyền và cuối đời ông ta ra thế này. Chẳng ai làm gì có thể hại ông ta cả, vì ông ta là một thằng dối trá điêu luyện. Ông ta quen sống với người và thô bạo nghĩ rằng cái cuộc đời không quá phức tạp này chỉ có người. Ông ta ăn được người nhưng làm sao ăn được giời. Ông ta giống hệt bố tôi, một cặp song trùng, tuy một người thì có học một người thì thất học. Chú tôi là ví dụ điển hình của sự vô đạo, hiểu theo nghĩa nôm na của người Việt hoăc như những người phương Đông đã quen gọi. Những người sẵn sàng tàn nhẫn chỉ để đổi lấy một vài ích kỷ vặt vãnh.
- Hình như tôi có biết ông chú cậu
Tôi nhìn dịch giả già, khe khẽ gật đầu. Chú tôi sẽ không bao giờ còn nhớ nổi dịch giả. Sau lần làm một con bé mười bẩy tuổi có bầu, bố nó là một tay đạp xích lô thô bạo vụt thẳng cả cái xích xe máy vào đầu chú tôi, từ đó ông ta lú lẫn nhiều. Có một đoạn thời gian không ngắn lắm, dịch giả dậy trong trường Tổng hợp. Rồi thì không rõ lý do ông bỏ dậy ra làm một biên tập viên làng nhàng ở một tờ báo không văn chương. Hồi ấy trong khoa người ta hay họp, ông ngồi dúm dó một góc không tham gia phát biểu xây dựng nhưng cũng không kêu ca. Ông là một giảng viên dậy ăn lương bình thường không Đảng tịch không học vị. Hồi ấy chú tôi đang là sinh viên năm cuối có học môn của ông.
- Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Đấy là câu của chú anh trong một lần gặp lại tôi gần như là duy nhất.
- Thế nghĩa là ông ta rất tôn trọng thầy - Giăng chăm chú vẻ láu cá.
Tôi và dịch giả cùng cười nhàn nhạt. Học trò bán rẻ thầy thì không có nhiều và chú tôi đặc biệt có năng khiếu đó. Ông thầy bị bán sau cùng là bạn thân của dịch giả và là bạn vong niên của tôi. May mà đám người mua lại là đám lương thiện, thầy của chú tôi suýt nữa thì thân bại danh liệt. Khổ nhất là cô con gái, yêu chú tôi đến mức uống thuốc ngủ quá liều rồi bị tâm thần. Cứ cuối chiều thứ Bẩy, cô đó đi lang thang quanh Bờ Hồ vừa cười hiền lành vừa lảm nhảm đọc thơ tình của chú tôi riêng tặng. Tôi xộc cửa vào văn phòng Bộ, năm ấy chú tôi vừa lên chức khệnh khạng ngồi ở buồng riêng. Dịch giả yếu hơn lập cập đi sau cầm ba toong chỉ vào mặt chú tôi đang đứng lạnh tanh sau bàn có phù hiệu mi ca kê chức phó tổng.
“Mày bán thầy, nói cho cùng thì cũng được, thời thế mà. Nhưng mày bán ông ấy rẻ quá. Này, kẻ đang muốn làm quan kia hãy nhớ cho một điều, muốn làm ông lớn thì đừng ti tiện.”
Chú tôi lầu bầu cái câu một chữ cũng là thầy nửa chữ cũng là thầy để nói là tại sao không báo công an đến bắt dịch giả. Còn tôi, ông chửi là thằng cháu khốn nạn ưa đua đòi theo những phường mất dậy. Năm ấy tôi ba mươi tuổi và vừa in một truyện ngắn đầu tiên.
-Truyện ngắn đấy hay chứ.
Dịch giả nheo mắt cười uống Whisky. ừ, cũng được. Cách đây hơn mười năm Giăng đương là sinh viên khoa tiếng Việt, tập tễnh hồn nhiên dịch nó sang tiếng Pháp. Giăng hơi nhăn nhó nuốt hết ngụm Chivas, anh chàng không phải là dân chuyên nghiệp uống rượu nặng.
-Anh đang viết cuốn tiểu thuyết mới à.
Tôi lưỡng lự ừ. Dịch giả ngong ngóng nhìn tôi, ông thường chê tôi là thằng viết ít. Cuốn tiểu thuyết duy nhất của tôi được in cách đây đã bẩy năm, nó từng được coi là một hiện tượng văn học. Mẹ kiếp, biết bao thế hệ nhà văn phải khổ sở bởi cái cách gọi trịnh thượng ấy. Cuốn sách dắt theo nhiều ồn ào và tôi vớ được hàng mớ những điều dung tục. Đối với một người viết, sự nổi tiếng là cần thiết, nhưng nó phải phù hợp với phúc và đức của chính người ấy. Tôi đức bạc phúc mỏng nên cứ nhận được một cái lợi nhờ nhỡ là kèm một cái hoạ. Tôi nhớ cái vẻ gay gắt của bố mẹ vợ tôi khi bàn đến khoản tiền viện phí mà tôi đã chăm bố tôi. Tôi nhớ lại những nhục nhã khi tham gia cái đoàn làm phim dựa trên cuốn tiểu thuyết. Không phải ngẫu nhiên mà những người già kêu văn chương là chốn trường văn trận bút. Một người bạn học cùng với tôi suốt mười năm phổ thông phì buồn cười “Mày đừng lẫn lộn, mày chỉ là thằng biết viết văn thôi”. Tôi nhìn người bạn, một thương gia thành danh đã cho tôi vay tiền, đang mò mẫm sang một vài chuyện chính trường. Anh bạn tôi nói có vẻ đúng. ở đời, một người phải may mắn lắm mới làm xong một việc mà mình muốn. Tôi chỉ nên ngồi mà viết một cái gì đấy. Thực ra, vấn đề quan trọng nhất với tôi là tại sao lại phải viết chứ không phải là sẽ viết như thế nào. Trong quyển kỷ yếu của hội nhà văn có rất nhiều những dòng tự bạch của các hội viên nhằm trả lời cho câu hỏi tại sao này. Tôi viết vì tôi cô đơn. Tôi viết vì những ám ảnh của một thời ngập đầy kỷ niệm hoặc chiến tranh hoặc tuổi thơ nhọc nhằn. Tôi viết vì những bức xúc với hiện thực xung quanh. Hầu như tất cả những người viết văn đều không nói mình viết chỉ vì kiếm danh hoặc kiếm lợi. Điều này là hiển nhiên. Danh và lợi đến với văn chương thường rất chậm. Có những người viết vĩnh viễn vất vả mà không bao giờ được nhìn thấy hai thứ đó. Nhà văn áo Karl Kraus có đùa không khi nói, tại sao người nào đó lại viết văn. Vì anh ta không đủ tư cách để không viết. Đại đa số người viết đều khẳng định một luận cứ mang vẻ chủ quan, viết là một sự giải thoát. Câu này hay nhưng hơi buồn cười, không phải vì nó cao đạo hoặc lầm lẫn mà vì sâu thẳm của việc viết văn thì chẳng do ai trói buộc. Đã có lần thiền sư Đạo Tín, khi chưa thành Tứ Tổ băn khoăn đi hỏi Tam Tổ Tăng Xán cầu xin được giải thoát. Tam Tổ mim mỉm hỏi lại “Thế ai trói buộc ngươi”. “Dạ không ai trói buộc cả”. “Vậy đã không ai trói buộc thì đâu cần giải thoát”. Tôi cố nhớ lại cái truyện ngắn đầu tiên tôi viết, lý do quả thật cũng mù mờ lắm. Để giải trí cho mình nhà văn nên viết nhiều hơn đọc. Viết nhảm và linh tinh thôi. Nhưng có điều dễ nhận là khi viết được văn thì tự bản thân truyện đó cũng rất thú vị. Có những lúc khá lạ lùng. Mùa đông mưa phùn rét mướt ngồi trên lầu cao co ro nghe gió lạnh cầm bút viết tả cảnh mùa hè, được một chốc bỗng thấy người hầm hập nhiều giọt mồ hôi lõng bõng nóng chẩy. Còn giữa tháng Bẩy chính ngọ chang chang nắng viết một đoạn về tảo mộ Thanh minh, cái thê lương lảng vảng hàn khí của bãi tha ma lạnh run vào đến tuỷ, đành lập cập mở tủ khoác thêm cái áo vét. Tôi có đùa với người bạn linh mục già là lúc ấy hình như bọn nhà văn đã đoạt được quyền của tạo hoá, làm gì mà chẳng hoang tưởng cắm đầu vào mà ngồi viết. Vị cha bề trên của một dòng tu Phước sơn lắc đầu, đấy chính là sức mạnh của tạo hoá, đấy chính là ý chỉ của Chúa mà may mắn làm sao những người viết các ông lại mong manh nhận được. Tôi thật thà hỏi, liệu nhà văn có phải là một bí mật đã được Thiên Chúa mạc khải. Vị linh mục già láu lỉnh, nếu ông cứ sa đà vào chuyện đó nghĩa là ông mê tín đấy. Đã khuya khuya ti vi có truyền hình trực tiếp bóng đá nên Bờ Hồ có vẻ vắng hơn thường ngày. Phảng phất từng tiếng chuông đồng hồ nhà thờ Lớn. Tôi nhìn cái Gimicô vỏ nhựa giả gỗ, còn sớm lắm. Dịch giả gọi ba bát mì nấu hải sản, chắc Giăng đã đói ngấu, còn tôi vẫn thấy ngang ngang bụng. Giăng nắn nắn túi áo lôi ra một cái tẩu bằng sừng, Giăng vụng về nhồi thuốc lá ba số năm vào. Cái tẩu sang trọng này chắc mới được ai tặng. Hình như Giăng hút nghịch ngợm chứ không nghĩ như người tặng là học giả lớn phải ngậm píp. Diêm loé một ngọn lửa nhỏ mầu xanh và Giăng nhả một hơi khói mù mịt đặc.
-Anh sẽ định viết cuốn tới như thế nào.
Nói chung thì tất cả những người viết đều ngại kể về việc mình đang và sẽ làm. Một thứ ta bu. Chẳng phải vì chuyện nói trước thì không bước được qua. Nó là một thứ mơ hồ ngần ngại. Tôi ngập ngừng nói. Tôi muốn viết về công việc của một nhà văn. Nó sẽ dài khoảng năm sáu trăm trang in. Nhà văn này nói về việc anh ta đang viết một cuốn tiểu thuyết. Đương nhiên là cuốn tiểu thuyết ấy dang dở và anh ta bị sống lẫn lộn vào các nhân vật. Cố nhiên là tư duy của anh ta hiện hữu độc lập với văn bản tiểu thuyết của anh ta. Việc này tương đối khó, vì anh ta luôn phải cho độc giả biết là anh ta nghĩ ra các nhân vật như thế nào. Tôi để một chương giọng của anh ta lẫn vào giọng của một nhân vật, cả anh ta và nhân vật kia đều ý thức rất rõ về cái đó. Nếu đơn thuần về thủ pháp thì đây là một sự thoả hiệp, tôi không muốn đánh đố độc giả. Thực ra cái thủ pháp “tiểu thuyết trong tiểu thuyết” đã quá nhiều người sử dụng, nhưng để thật nhuần nhuyễn thì chẳng có mấy ai. Tiểu thuyết gia nào cũng khát khao một sự đa âm. Điều này nhiều nhà phê bình chuyên nghiệp hiểu nhưng không chịu thông cảm. Cái cách họ khen hoặc chửi đều rất tệ. Bởi vậy, muốn một cuốn tiểu thuyết trong sáng ở phương diện dễ đọc nên cho nó một cốt truyện. Cuốn tiểu thuyết của nhà văn này tập trung mô tả một cuộc tình có hai người. Hai nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một cô bé người mẫu và một trung niên trí thức rất thành danh về hoạt động chính trị. Họ chênh nhau khoảng một thế hệ, mười bẩy đến hai mươi tuổi. Nhưng nếu kể mãi về chuyện tình thì cũng hơi chán nên anh nhà văn mở thêm một tuyến nữa. Đấy là vị quan chức trung niên kia có một ông chú ruột làm linh mục. Do phải đối đầu với vài băn khoăn của cuộc sống anh chàng trung niên có tìm đến ông chú xin tư vấn. Ông linh mục vào lúc rảnh có viết về Alexandre de Rhodes. Tôi muốn giành một chương dài về vị giáo sĩ tiên khởi rất đặc biệt này.
Nghe lằng nhằng nhỉ- Giăng hơi cười nhả thêm một hơi thuốc.
Thực ra thì cũng chẳng lằng nhằng gì, các chuyện nó cứ tự móc vào nhau. Khi viết tôi không quan tâm lắm đến nội dung câu chuyện, tôi chỉ để ý đến cấu trúc của nó. Do thói quen tôi thường để các nhân vật tự kể ở ngôi thứ nhất và những độc thoại này vẫn chỉ là sản phẩm một kiểu viết của nhân vật nhà văn. Như vậy ở đây có điều tôi rất không muốn nhưng không thể làm khác, anh chàng nhà văn trở thành một nhân vật chính nhất. Thoạt đầu khi mới khai bút, tôi đã định chọn nhân vật chính là một hoạ sĩ hoặc một bác sĩ. Đối với nhiều người viết thì một trong vài cái rất khó đấy là chọn nghề cho nhân vật. Nói chung, nghề của nhân vật không cứ nhà văn phải am tường, nhưng bắt buộc trong sâu xa tâm thế phải có sự liên đới. Một điều mà người cầm bút nào cũng biết, người viết chỉ viết được và viết hay những cái ở gần mình. Thường thì quá xa là phải mò mẫm đoán định. Mà đã đoán mò thì cho dù trí tưởng tượng có dồi dào đến mấy bắt buộc cũng phải sắp xếp dàn dựng. Đã nhiều người lý giải rất hay là tại sao nhiều nhân vật chính của văn chương là các hoạ sĩ. Cái thao tác tư duy hướng nội của người viết và người vẽ, cả hai có một độ tương tự đậm đặc như nhau. Họ đặc biệt giống nhau, trong cách cư xử với cô đơn, khi hân hoan hoặc buồn bã khi ngông nghênh hoặc mệt mỏi. Nhà văn ồn ào hơn, hoạ sĩ trầm lắng hơn. Đã thế hoạ sĩ còn hơn hẳn ở sự hấp dẫn lung linh “chất nghệ”, những suy tư có thiên hướng tiệm cận tôn giáo. Và những ưu điểm thuần tuý “văn chương” này làm ngòi bút nhà văn dễ trôi chẩy. ở các nghành nghề khác thì bác sĩ cũng là mẫu người được các nhà văn để ý. Người viết bị hấp dẫn bởi các thao tác nghề rất tinh tế phức tạp xuất phát từ một thứ khoa học đáng kể là có nhiều nhân tính bậc nhất. Y học luôn luôn đồng hành với tiến trình hoàn thiện con người. Trong cái tiến trình nhiều mệt mỏi ấy, văn chương là thứ đến sau. Dịch giả và Giăng trầm ngâm nghe tôi lộn xộn nói. Tôi bâng khuâng hạnh phúc khi các bạn tôi luôn sẵn sàng hiểu tôi. Họ là những người lịch duyệt có kiến thức nhiều cảm nghiệm từng trải. Hơn hết, họ chân thành nhân hậu. Dịch giả khẽ đẩy về phía tôi ly nước suối để chữa lửa, ông chầm chậm với chai Chivas rót thêm đầy ly rượu của tôi.
Tôi luôn thích những người viết tiểu thuyết. Nói tôn trọng thì khách sáo quá. Viết dài là công việc khổ nhọc không phải ai cũng dám. Tất nhiên là phải viết cho hay. Tôi theo quan điểm cũ, văn hay là tình là hồn nhiên xúc động.
Dịch giả đưa ly cụng nhẹ với tôi và Giăng. Ông bạn già của tôi khi cảm động hay nói chuyện những nguyên lý đương nhiên. Tôi bật cười định đùa, vâng, hai lần hai là bốn thì thế đấy. Viết tiểu thuyết vừa dễ vừa khó vì việc đầu tiên là có tổ chức được một cuộc sống thích hợp với nó không. Tiểu thuyết là trường thiên, nó chạy dài trong một năm hoặc nhiều năm của người viết. Nó sống lẫn lộn với vợ với con với bốn bề nội ngoại. Nó nằm giữa và chen ngang vào các mối quan hệ xã hội, đặc biệt nguy hiểm là nó không sinh lợi. Và điều phức tạp đến đáng sợ nhất, nó là một thứ công việc không phải là công việc. Nó quấy rầy đòi chiếm tiện nghi trong căn phòng vốn hẹp của người viết. Những nhà văn nghèo đã có gia đình rất khó viết được cuốn thứ hai. Hồi chưa lấy vợ tôi có thói quen viết được vào buổi đêm và không thể viết được khi có bất cứ ai ngồi ở bên cạnh. Đấy là một thứ xa xỉ chỉ có khi chưa có vợ. Sự độc thân luôn là một thứ lợi thế. Hầu hết các nhà văn Việt nam đều không có thư phòng. Có một hồi nhà xuất bản Tiến Bộ thời Liên Xô chưa tan vỡ có tổ chức triển lãm sách trên phố Tràng tiền, dành riêng một bàn bầy các vựng tập về các đại văn hào Nga thế kỷ mười chín. Phần phụ lục có in nhiều ảnh mầu chụp phòng làm việc của Puskin của Tônxtôi của Đốt. Tôi l?