← Quay lại trang sách

Đôi lời của tác giả

Giới thiệu công thức làm bánh

Bánh quế thời chiến của chị Perilee

1 ly đường - nâu, nén chặt

1 ½ ly nước

1/3 ly mỡ lợn hoặc shortening (một loại mỡ pha vào bánh cho xốp giòn)

2/3 ly nho khô

1/2 thìa cà phê bột đinh hương xay 1/2 thìa cà phê bột nhục đậu khấu xay

2 thìa cà phê quế

1 thìa cà phê bột soda làm bánh

1 thìa cà phê muối

2 ly bột mì

1 thìa cà phê bột nở

Cách làm: Nấu sôi hỗn hợp đường, nước, shortening, nho khô, và gia vị trong ba phút. Để nguội. Hòa tan bột soda trong hai thìa cà phê nước rồi thêm vào hỗn hợp nho khô nói trên. Thêm bột mì, bột nở vào dung dịch nho khô và quấy đều. Hãy nhớ thêm từng ly một và đánh đều tay. Chuyển hỗn hợp bột vừa quấy vào nồi cỡ vừa và nướng ở nhiệt độ 162°C trong khoảng 50 phút.

Bánh bích quy nhẹ hơn chì của Hattie

3/4 ly cháo yến mạch, để nguội

1 ½ ly bột mì hoặc bột lúa mạch đen

4 thìa cà phê bột nở

3/4 thìa cà phê muối

2 thìa cà phê mỡ lợn, Shortening hoặc bơ

1/4 ly sữa

Cách làm: Trộn cháo yến mạch với bột mì, rây kỹ. Thêm bột nở và muối, xắt nhỏ mỡ lợn, shortening hoặc bơ thêm vào hỗn hợp bột. Thêm sữa trộn đều tạo thành bột nhão và mềm. Không nhào bột quá kỹ. Dàn hỗn hợp bột mỏng thành miếng bột dày xấp xỉ 1 xăng ti mét. Dùng khuôn cắt bánh (hay miệng ly) cắt thành nhiều bánh nhỏ. Nướng trên giấy có thoa mỡ ở nhiệt độ 218°C từ 12 đến 15 phút.

(Trong Chương 17, Hattie mời Jim Gà Trống ăn bánh này).

Đôi lời của tác giả

Khi nghe nói bà cố tôi là Hattie Inez Brooks Wright từng nhận đất công ở miền Tây Montana từ khi tuổi còn rất trẻ, tôi thấy sao khó tin quá. Quan sát vóc người nhỏ bé và tính tình khó gây thiện cảm của bà, tôi khó có thể liên hệ bà cố mình với tinh thần tiên phong. Nhưng vì tò mò nên tôi chơi trò thám tử suốt mấy tuần liền. Tôi tìm hiểu thêm thông tin về bà nhưng ít khi gặp may. Một ngày nọ, tôi tình cờ tìm được hồ sơ lưu trữ của Phòng Quản lý Địa chính Montana. Tôi mừng khôn tả khi phát hiện số thửa đất đi kèm với tên bà tôi. Sau khi gửi đơn yêu cầu lên Viện Lưu trữ Quốc gia, tôi đã có trong tay hồ sơ xin nhận đất công của bà. Lập tức, tôi bị hút hồn vào những thông tin thú vị về quá khứ của bà cố tôi.

Dù bà tôi không giữ thói quen ghi chép thường xuyên hay ghi nhật ký, nhiều láng giềng của bà khi đó lại có ghi đầy đủ. Tôi yêu cầu được cung cấp những ghi chép ấy qua hệ thống liên thư viện (cầu Chúa phù hộ các thủ thư và hệ thống thư viện Mỹ) và được đọc hàng chục tài liệu của hàng chục người ghi lại. Mỗi người trong số họ đều có lý do riêng để di cư đến miền Tây Hoa Kỳ. Nhưng những câu chuyện họ kể đều có chủ đề chung: làm việc quần quật suốt ngày, những đau khổ tột cùng, mất người mất của... và khó tin hơn cả là những kỷ niệm thân thương trong những ngày làm nông trại với mức thu nhập gần như không đáng kể.

Tôi bắt tay viết sách này một cách hoàn toàn tự nhiên, không có gì phải đắn đo, suy nghĩ. Lúc đầu, tôi chỉ định viết một câu chuyện kể về nông thôn xưa, thời chưa có nhiều máy móc, thành tựu công nghệ tham gia vào chuyện nhà nông như bây giờ. Nhưng sau khi nghiên cứu kỹ, tôi thấy mình không thể kể chuyện xảy ra vào năm 1918 mà không nói tới quan điểm bài xích kiều bào Đức của người dân thời bấy giờ. Nhiều sự việc có trong truyện đều dựa trên các sự kiện có thật, bao gồm cả hoạt cảnh đám đông vây quanh ông Ebgard.

Khi tôi bắt đầu viết sách này cũng là lúc cuộc chiến Irắc bùng nổ. Đúng ngày đọc thông tin nói rằng: Năm 1918, người ta đổi tên dưa bắp cải muối kiểu Đức (sauerkraut) thành "bắp cải tự do". Tôi cũng nghe nói vào năm 2003, nhiều nhà hàng đã đổi tên món khoai tây chiên kiểu Pháp thành "khoai tây chiên tự do". Càng nghiên cứu cuộc sống người dân năm 1918, tôi càng thấy có nhiều điểm tương đồng với hiện tại.

Tuy nhiên, trên tất cả, tôi viết sách này nhằm mục đích kể với độc giả câu chuyên về một phụ nữ làm nông nghiệp. Giá mà tôi biết được cô Hattie ngoài đời thực mơ gì khi rời Arlington, Iowa đến ngôi lều trên mảnh đất công gần Vida, Montana! Khi bà cố mất, tôi mới mười tuổi đầu. Khi đó, tôi không thể hình dung các bà lão già yếu, tóc bạc phơ lại có thể làm gì khác ngoài việc nướng bánh cho đàn cháu nhỏ.

Ngày đó, bà tôi được cấp chứng nhận quyền sở hữu đất, nhưng tôi không để cô Hattie "của tôi" giữ trang trại của mình. Hầu hết nông dân nhận đất công ngày ấy đều phá sản; các ông chủ ngành đường sắt đã tô vẽ quá nhiều về vùng đất miền Đông Montana, đúng như lời phàn nàn của ông béo trên tàu. Dù người này thành công, người kia thất bại, nhưng cả hai cô Hattie đều tìm được một thứ vô giá trong những ngày sống trên vùng đồng cỏ ấy: gia đình. Liệu còn có kết cục nào vui vẻ hơn, hạnh phúc hơn thế hay chăng?

HẾT