← Quay lại trang sách

XX - Khói Lửa.

Bất thình lình bị đánh thức, tôi mở mắt ra trong đêm tối.

- Gì thế? Có việc gì vậy?

Anh cai Bectrăng ở ngoài miệng hố, nơi tôi nằm, nói vào – tôi nghe tiếng mà không trông thấy người:

- Đến lượt cậu canh gác. Bây giờ hai giờ sáng rồi.

Tôi lầu bầu là tôi sẽ ra, tôi vươn vai và ngáp trong cái hầm chật hẹp như dưới mồ; tôi dang tay ra và chạm phải nền đất sét mềm và lạnh. Rồi bò trong bóng tối nặng nề đè trong hầm, rẽ qua những mùi ngột ngạt giữa những thân hình nghiêng ngả li bì của những người đang ngủ. Bị vướng và bước hụt trên những quân trang, ba lô, những chân tay duỗi ra bốn bề, sau tôi sờ được khẩu súng của tôi và ra đến ngoài, đứng vào chỗ thoáng khí, người hãy còn ngái ngủ và đứng loạng choạng trong gió bấc rét buốt và tối đen.

Run lẩy bẩy, tôi theo chân anh cai đi giữa những đụn cao tối om, càng đi thì phần dưới chân đụn càng thắt hẹp lại một cách lạ lùng. Anh đứng lại. Đây rồi tôi cảm thấy có một khối lớn tách ra khỏi lưng chừng bức tường ma. Cái khối ấy há miệng ngáp, hý lên như ngựa. Tôi trèo vào cái hốc đó.

Mặt trăng đã lẩn trong sương mù, nhưng ánh sáng vẫn còn lờ mờ phủ lên mọi vật, mắt dò dẫm mãi cũng phải quen. Rồi ánh sáng đó tắt đi vì trên trời kia, một mảng mây đen là là lướt qua. Sờ soạng mãi, khó khăn lắm tôi mới thấy được cái khung và lỗ châu mai ở trước mặt, và trong một cái hốc, bàn tay đã thông thạo của tôi sờ phải một đống cán lựu đạn.

Bectrăng nói khẽ với tôi:

- Cậu phải mở mắt coi chừng đấy nhé. Đừng quên rằng trước mặt kia, về mé trái có trạm trinh sát của ta. Thôi nhé, lát nữa gặp nhau.

Rồi bước chân của anh xa xa, theo sau là tiếng bước chân hãy còn buồn ngủ của người lính gác mà tôi đến thay phiên.

Bốn bề súng nổ lét đét. Bất thình lình, một viên đạn đập chát vào đất bờ hào là chỗ tôi tựa mình. Tôi áp mặt nhìn qua lỗ châu mai. Tuyến của chúng tôi nằm ngoằn ngoèo trên mặt cao của cái khe núi: đất trước mặt tôi dốc xuống một cái vực tối om trong đó chẳng còn trông thấy gì. Tuy nhiên, rồi quen mắt cũng phân biệt được một hàng đều đặn những cọc dây thép gai của chúng tôi trồng ở sát bóng tối, và đó đây những vét loét tròn của những hố hình phễu của đạn đại bác, hố nhỏ hố nhỡ, hố to; vài hố gần nhất đầy những đống chồng chất chẳng biết những gì có vẻ bí mật, Gió bấc thổi tạt vào mặt tôi. Tất cả đều yên lặng, chỉ có gió thổi và cái ẩm thấp bao la đang nhỏ giọt. Rét làm run người mãi không thôi. Tôi ngước mắt nhìn lên chỗ này, chỗ nọ. Một cảnh tang tóc khủng khiếp đè nặng lên mọi vật. Tôi có cảm giác là chỉ còn mỗi một mình, như bị đắm tàu, giữa một thế giới bị thiên tai đảo lộn.

Trời bỗng rực sáng lên: pháo sáng. Khung cảnh nơi tôi bị vùi lấp hiện lên, sáng rõ quanh mình tôi. Tôi thấy lộ ra cái đỉnh rách nát, xơ xác của chiến hào chúng tôi, và ở bờ đằng trước, cứ năm bước một bóng dáng của những người lính gác dựng đứng lên như những con dòi đứng thẳng. Súng của họ để bên cạnh lấp lánh như mấy giọt ánh sáng. Chiến hào đắp bằng những bao đất, và chỗ nào cũng bị hoác ra, nhiều nơi đất bị sụt xuống càng rộng hơn. Những bao đất cái nọ đè bẹp lên cái kia và bị xô lệch, rời rạc dưới ánh sáng của pháo sáng rọi xuống trông như những tảng gạch đá lớn bị bật ra từ những di tích lâu đài cổ đại. Tôi nhìn qua lỗ châu mai. Trong làn hơi khói trắng bệch mà pháo sáng đã tóe ra, tôi thấy những hàng cọc, và cả những đường dây nhỏ bé của hàng rào dây thép gai chằng chịt với nhau từ cọc này sang cọc kia. Trước mặt tôi, nó giống như những nét bút mực vẽ nguệch ngoạc, xóa đi xóa lại trên cánh đồng tái xám và lỗ chỗ. Thấp hơn nữa, trong bóng tối bao la như biển tràn ngập khe núi, mọi vật đều yên lặng như chết.

Từ chỗ quan sát, tôi bước xuống rồi đi phỏng chừng về phía anh lính gác gần đấy. Tôi giơ tay ra và đụng vào gã.

Chẳng biết gã là ai, tôi lên tiếng khe khẽ hỏi:

- Cậu đấy, hả?

Gã không biết tôi là ai, cũng mù tịt như tôi, đáp lại:

- Phải.

Và gã nói thêm:

- Giờ này thì yên tĩnh. Vừa rồi tớ tưởng chúng sắp tấn công, có lẽ chúng thử tấn công, ở mé bên phải kia, ở đó chúng đã ném rất nhiều lựu đạn. Đại bác 75 bắn chặn, vờ-răng… vờ-răng… Tớ thấy thế nghĩ trong bụng: “Cái thứ đại bác 75 này quả thực sinh ra để mà bắn. Nếu quân Đức vừa rồi có ló ra thì chúng đã được nếm mùi đó”. Này, nghe xem đằng kia, đại bác đang hục hặc. Nghe thấy chưa?

Gã ngừng lại, mở nút bi đông, uống một hớp và câu cuối cùng của gã, vẫn rất khẽ, có hơi men:

- Chà! Chà! Thật là một cuộc chiến tranh bẩn thỉu! Cậu có thấy rằng bọn ta nếu được ở nhà có phải là hơn không? Mà, này, cái gì kia? Thằng ngốc kia, nó làm trò gì thế?

Một phát súng vừa nổ cạnh chúng tôi, vạch ra một nét sáng ngắn và bất thình lình. Rồi cũng vẫn ở tuyến chúng tôi, nhiều tiếng súng nữa nổ vang: ban đêm, tiếng súng thường hay lây.

Hai người chúng tôi đi lần mò trong bóng tối đã lại trùm lên đầu chúng tôi như một cái mái nhà, để hỏi thăm đầu đuôi với một trong những người vừa bắn. Đi chập choạng có khi va vào nhau, chúng tôi lại gần, nắm lấy gã và hỏi:

- Này, cái gì thế?

Thì ra gã trông thấy hình như có cái gì động đậy, rồi chẳng thấy gì nữa. Gã láng giềng không quen biết và tôi, hai người lại lần đi trong bóng tối dầy đặc trên đường trơn như mỡ, ì ạch và phân vân trở về, người khòng xuống như mang một gánh nặng sụn xương.

Ở một góc chân trời, rồi một góc khác, bốn bề xung quanh chúng tôi đại bác nổ vang, và tiếng nổ nặng nề của nó hòa với những loạt súng trường khi thì dồn dập khi thì tắt hẳn, và với tiếng nổ của hàng chùm lựu đạn, tiếng to hơn tiếng súng Lơben và Môde gần gần như tiếng súng trường cổ điển. Gió thổi mạnh hơn, đến nỗi phải chống đỡ với nó trong bóng tối: từng đám mây lớn bay qua mặt trăng.

Hai người chúng tôi đứng đó, sát nhau, đụng vào nhau, hai người không quen nhau, ánh chớp đại bác từng phát một rọi chiếu vào chúng tôi hoặc làm chúng tôi che lẫn nhau đi; chúng tôi bị bóng tối dồn ép giữa vòng vây bao la những đám cháy lúc bùng lên lúc tắt đi trong phong cảnh ma quái ấy.

Anh bạn nói:

- Chúng ta là những kẻ bị đọa đày.

Chúng tôi chia tay nhau, mỗi người đứng trước lỗ châu mai của mình, mòn mắt nhìn cảnh vật im lặng.

Cơn phong ba kinh khủng và bi thảm nào sắp nổ ra đây? Bão táp không nổ ra trong đêm đó. Trong những phút chờ đợi cuối cùng dài dằng dặc, khi ánh sáng ban mai đầu tiên ló tới, thì tình thế còn trở nên tạm yên là khác.

Khi bình minh ập xuống chúng tôi như một buổi chiều dông tố, dưới cái màn ám khói của những đám mây là là, một lần nữa tôi lại thấy nhô lên sống lại các kiểu bờ dốc ngược, buồn tênh và bẩn thỉu, vô cùng bẩn thỉu, lổng chổng những vật đổ nát, cứt đái, của cái chiến hào đang vỡ sụp trong đó chúng tôi trú ẩn.

Những đám mây xám ngắt khiến cho những bao đất ngả mầu chì, những bao này xếp có chỗ phồng lên và lờ mờ sáng giống như những ruột gan vĩ đại phơi ra trên cảnh vật.

Đằng sau tôi, trong vách chiến hào, có một cái hốc, trong đó chất chứa những vật xếp ngang, chồng cao như một cái dàn thiêu.

Đó là thân cây chăng? Không, đó là những xác chết.

o O o

Khi tiếng chim dần dần từ các luống cày nổi lên, đồng ruộng mịt mù dần dần lại hiện ra, ánh sáng rõ dần và tưng bừng trên từng ngọn cỏ, tôi nhìn xuống khe núi. Mé dưới cánh đồng nhô ra thụt vào như những đợt sóng đất cao cao, những hố hình phễu bị thiêu cháy, và ở mé ngoài hàng rào dây thép gai bóng tối còn ứ đọng lại như một cái hồ, và trên sườn đồi trước mặt, bức tường đêm tối vẫn còn sừng sững.

Tôi ngoảnh lại đằng sau và ngắm nhìn những tử thi hiện dần ra từ bóng tối, để trơ ra những hình thù cứng khô và vấy máu. Tất cả là bốn cái xác. Đó là các bạn đồng ngũ của chúng tôi. Lamuydơ, Bacơ, Bikê và chú bé Ơđo. Họ đang rữa ra ở đó ngay cạnh chúng tôi, và chiếm mất nửa chỗ trong cái đường hầm ngoằn ngoèo mà những gã còn sống đang cố bảo vệ.

Người ta đã đặt họ ở đó thế nào xong thôi; những xác chết dựa vào nhau, cái nọ đè lên trên cái kia. Cái xác trên cùng được phủ bằng một mảnh vải lều. Người ta đã phủ mùi soa lên mặt những cái xác còn lại, nhưng khi đi sát cạnh không trông thấy vì đêm tối, hoặc ban ngày không để ý, anh em đã làm rơi mùi soa xuống, và bây giờ thì chúng tôi sống đối diện với những người chết đó, chồng chất lên nhau như một cái đàn thiêu chất bằng người sống.

o O o

Họ cùng bị hy sinh với nhau đã bốn đêm rồi. Tôi nhớ lại lờ mờ đêm hôm đó như trong một giấc mộng. Hôm đó chúng tôi đi tuần tra, bọn họ với tôi, Mexnin Anđrê và anh cai Bectrăng. Nhiệm vụ là tìm cho ra một trạm quan sát mới của địch mà những quan sát viên pháo binh đã khám phá được. Vào nửa đêm, chúng tôi xuất phát từ chiến hào, bò xuống dốc, thành hàng cách nhau mỗi người ba bốn bước, cứ như thế đến chỗ thật thấp trong khe núi, cho đến khi thấy hiện ra cái giao thông hào quốc tế của chúng nằm bẹp như một con vật thất thế. Sau khi đã quan sát thấy trong khoảng đất đó không có quân địch đóng, chúng tôi lại bò lên, hết sức thận trọng; tôi lờ mờ trông thấy người bò bên phải và người bò bên trái tôi như những chiếc bao tối đen đang từ từ trườn mình, nhấp nhô, đầm mình trong bùn, giữa bóng tối đen như mực, tay đẩy ra phía trước mặt những ngọn súng nhọn. Xung quanh chúng tôi đạn bay vèo nhưng chúng hình như không biết có chúng tôi và không có ý tìm chúng tôi. Đến gần chỗ mô cao của chiến hào bên chúng tôi, chúng tôi thở một lúc; một người đã quay hẳn mình lại, bao lê của gã va vào một hòn đá. Lập tức từ Giao thông hào quốc tế, một quả pháo sáng vọt ra và rít lên. Mọi người nằm ép xuống đất, dán mình xuống, lúng túng nằm im không cựa quậy, và chờ đợi ở đó cách hào độ hăm nhăm, ba mươi thước, trên đầu chúng tôi ngôi sao khủng khiếp treo lơ lửng và tỏa sáng như ban ngày. Thế rồi một khẩu súng máy đặt ở mé bên kia khe núi đã quét vào khu vực chúng tôi đang nấp. Lúc pháo sáng đỏ lừ mới vọt lên chưa kịp tỏa sáng, anh cai Bectrăng và tôi may mắn trông thấy trước mặt một hố đại bác trong đó có một cái giá chống bị gẫy sừng sững cắm trong bùn. Chúng tôi nằm bẹp dí vào hố đạn, hết sức vùi mình vào trong bùn, và cái bộ xương khốn khổ gỗ mục ấy đã che lấp chúng tôi. Luồng đạn súng máy quét đi quét lại nhiều lần. Mỗi tiếng nổ là một tiếng rít rồi tiếng đạn đập mạnh và gọn vào đất có tiếng quật thình thịch và mềm nhũn, tiếp theo đó là tiếng người rên la, một tiếng kêu khẽ, rồi bất thình lình theo đó là một tiếng ngáy vang của một người đương ngủ bật thức dậy, rồi yếu dần đi, Bectrăng và tôi bị mưa đạn xuyên ngang bay lướt trên mình vài phân đan thành một mạng lưới chết chung quanh chúng tôi, có khi làm xước quần áo khiến chúng tôi càng phải ấn mình sâu xuống đất, không dám cử động để khỏi nhô mình lên. Cứ như thế chúng tôi chờ mãi. Sau cùng tiếng súng máy im bặt trong một sự yên lặng bao la. Mười lăm phút sau, cả hai chúng tôi bò bằng khuỷu tay ra khỏi hố đại bác và rơi phịch như hai bó hàng vào hố quan sát của chúng tôi. Vừa kịp thời vì lúc đó mặt trăng vừa ló ra. Chúng tôi phải nằm ở đáy chiến hào đến tận sáng, rồi đến tận chiều. Bờ hào bị súng máy quét liên tiếp. Dòm qua lỗ châu mai của trạm quan sát, chúng tôi không trông thấy những xác nằm dài trên mặt đất vì chỗ đó dốc; duy chỉ thấy chỗ sát mặt đất trong nhỡn tuyến một khối hình như là cái lưng của một người trong bọn họ. Đến chiều chúng tôi đã đào một đường hầm để đi đến chỗ anh em gục ngã. Công việc đó làm một đêm không thể xong được; đêm sau công binh tiếp tục đào nốt vì chúng tôi mệt lả, lăn ra ngủ không thể nào gượng được.

Sau một giấc ngủ nặng như chì, khi thức dậy, tôi đã thấy bốn cái tử thi do anh em công binh đào từ mé dưới đất đào lên đã đến nơi được và đã móc kéo về bằng dây thừng theo đường hầm vừa đào. Mỗi tử thi mang nhiều vết thương gần nhau, những lỗ đạn chỉ cách nhau có vài phân: khẩu súng máy đã bắn rất sát. Người ta không tìm thấy thi hài của Mexnin Anđrê. Em gã là Jôdep đã hết sức liều lĩnh đi tìm. Jôdep đi một mình ra khỏi chiến hào, đi dọc đi ngang trên cánh đồng luôn luôn bị những làn đạn súng máy xiên chéo càn quét. Đến sáng người ta thấy gã lê đi như một con sên, mặt đen những đất, hốc hác kinh khủng trở về đứng ở bờ hào.

Chúng tôi lôi gã về, mặt mày gã xước rách vì dây thép gai, tay đẫm máu, quần áo bết những cục đất to, và sặc mùi chết chóc. Gã nhắc đi nhắc lại như một thằng rồ: “Chẳng thấy đâu cả”. Gã vùi mình vào một xó, đem súng ra lau chùi, tai không buồn nghe những lời người ta nói với gã, và luôn mồm nhắc lại: “Chẳng thấy đâu cả”.

Từ đêm đó đến nay đã bốn đêm rồi, và tôi còn trông thấy những thân hình hiện ra, in hình trong ánh bình minh hé ánh sáng để một lần nữa tẩy uế cái địa ngục trần gian.

Bacơ, xác cứng đờ, trông dài và lớn vô cùng. Hai cánh tay gã dính chặt và sườn, ngực lép kẹp, bụng trũng xuống như lòng cái chậu. Đầu ghếch lên một đống bùn, mắt gã ló nhìn qua khe chân những người từ mé trái đi đến, mặt gã tối sầm, một vết tóc lầy nhầy rũ xuống bệt vào, trên vệt tóc quyện những dòng máu đen, mắt đỏ đòng đọc như luộc chín. Ơđo trái lại trông nhỏ bé, khuôn mặt nhỏ nhắn trắng toát như mặt người hề trát phấn và thật xót xa trông gã nổi bật như một mảnh giấy trắng giữa đống xác chết chằng chịt màu gio và màu xám. Bikê, người xứ Brơianhơ, thì vạm vỡ, vuông như một phiến đá, trông như đang tập trung trong một cố gắng phi thường: tưởng như gã đang dùng sức nâng đám sương mù lên; sự cố gắng sâu sắc ấy toát ra ở bộ mặt nhăn nhó, gò má nổi lên, trán nhô ra trông ghê tởm, bộ tóc nâu nâu mầu đất khô héo dựng ngược lên, miệng há hốc ra như đương kêu, mi mắt giương to để lộ đôi mắt lờ đờ đùng đục trông như đá cuội; và hai bàn tay gã co quắp lại vì đã cào vào trống không.

Bacơ và Bikê bị thủng bụng, Ơđo thủng cổ. Khi bị kéo và khiêng đi, xác họ càng bị hủy hoại thêm. Lamuydơ không còn một chút máu, mặt sưng vù và nhăn nheo, hai con mắt hõm dần, không đều, bên nông bên sâu. Người ta đã liệm gã vào một mảnh vải lều và ở nơi cổ gã có một vết đen đen. Vai phải gã bị nhiều vết đạn băm nát và cánh tay chỉ còn dính vào thân bằng những mảnh vải của tay áo và những sợi dây buộc chặt. Đêm đầu tiên gã được đặt ở đó, cánh tay ấy lủng lẳng ra ngoài đống tử thi, và bàn tay vàng vàng, đã bị teo, nắm một nắm đất, quệt vào mặt những người qua lại nên người ta lấy kim băng gài nó vào áo ca-pốt của gã.

Một đám chướng khí bắt đầu bốc lên từ những tử thi đó, tử thi của những người anh em đã cùng chung sống chặt chẽ với chúng tôi, cùng chịu đau khổ lâu dài như chúng tôi.

Khi trông thấy họ, chúng tôi nói: “Cả bốn người cùng chết cả”. Nhưng thân hình họ đã biến dạng quá, nên chúng tôi cũng không nghĩ hẳn hoi là “Chính là họ”. Và phải ngoảnh mặt đi, không trông thấy những thân hình không cử động đó mới cảm thấy hết cái trống trải họ đã để lại trong lòng chúng tôi và mới cảm thấy cuộc chung sống của chúng tôi đã tan vỡ.

Những binh lính thuộc đại đội hoặc trung đoàn khác, những người lạ qua đây lúc ban ngày trông thấy những xác chết đó đè lên nhau giữa chiến hào đều giật mình – ban đêm thì họ không biết, vô tình tì tay vào bất cứ cái gì vừa tầm tay chẳng kể là người sống hay người chết. Đôi khi họ phát khùng lên:

- Người ta nghĩ thế nào mà cứ phơi những xác chết này ra đó, hở?

- Thật là xấu hổ.

Rồi họ nói tiếp:

- Quả thực là cũng chẳng thể đưa họ đi đâu được.

Trong khi chờ đợi, chỉ có bóng đêm chôn vùi họ mà thôi.

o O o

Buổi sáng đã đến, người ta phát hiện ra ở đằng trước, mé dốc bên kia của khe núi là sườn đồi 119, một ngọn đồi trơ trụi, hết cây cối, bị cào nứt nẻ, ngang dọc là những giao thông hào rung rinh với những đường chiến hào song song cắt khía để lộ ra đất quánh của miền đá trắng. Ở đó không có một cử động, và đạn đại bác của ta dội vào đó như tung những nắm bọt bể lên, chẳng khác gì những làn sóng bao la đương vỗ ầm ầm vào một cái đập chắn sóng bị phá hủy và bỏ hoang.

Phiên gác của tôi đã hết và những người lính gác khác mình quấn vải lều ướt ròng ròng, bết bùn thành vằn thành mảng, mặt mày xanh nhợt, từ dưới đất bò ra, cử động và đi xuống. Tiểu đội thứ hai chiếm chỗ ở ghế bắn và lỗ châu mai. Còn chúng tôi thì được nghỉ cho đến chiều.

Anh em ngáp, đi lang thang. Một anh bạn đi qua và một anh nữa. Có những sĩ quan đi lại, mang theo ống nhòm sừng bò (kính tiềm vọng) và ống viễn vọng. Anh em lại gặp nhau, lại tiếp tục cuộc sống. Những câu chuyện hàng ngày trao đi đổi lại. Nếu không có cảnh tượng điêu tàn, những đường hào bật tung chôn vùi chúng tôi ở sườn khe núi, và nếu không bắt buộc phải nói khe khẽ với nhau, thì có thể tưởng tượng là đang đóng ở hậu tuyến. Tuy nhiên, anh em đều mệt lử, mặt mày vàng khè, mi mắt đỏ hoe; thức lắm, anh nào trông cũng như người vừa khóc. Tất cả chúng tôi từ mấy ngày hôm nay, lưng khòng thêm chút ít và già người đi.

Từng người một, anh em trong tiểu đội tôi đã tập hợp đến một góc chiến hào. Anh em chen chúc nhau vào một nơi đất toàn là đất phấn, ở dưới lớp đất lởm chởm những rễ cây bị chặt cụt, vì phải đào hầm nên đã để lộ ra những lớp đá trắng vùi trong đó có đến hàng chục vạn năm.

Tiểu đội Bectrăng đã đến đóng ở ngay cái lối đi mở rộng đó. Quân số tiểu đội giờ đây giảm đi khá nhiều: không kể những anh em bị hi sinh đêm vừa rồi, thì còn thiếu Pôteclô bị chết khi đổi phiên gác, Cađilac bị thương ở ống chân vì một mảnh đạn cũng ngay chiều hôm ấy (thế mà như đã xa xôi biết bao!), vắng Tirloa và Tuylacơ bị chuyển đi, một gã vì bị kiết lỵ, một gã bị sưng phổi biến chứng nguy hiểm – như gã đã báo tin cho chúng tôi trong một chiếc bưu thiếp viết để giết thì giờ từ bệnh viện ở cái thị xã gã đang sống vất vưởng.

Một lần nữa tôi lại thấy tập hợp, gần gũi nhau những bộ mặt lem luốc đất bụi, đen thui màu khói xám và những dáng điệu quen thuộc của tất cả những anh em từ đầu đến giờ chưa lúc nào rời nhau, gắn bó với nhau và ràng buộc với nhau bằng một mối tình huynh đệ. Tuy nhiên bây giờ thì không còn lộn xộn như khi xưa trong dáng dấp của những con người hang hốc…

Lão Blerơ lúng búng trong miệng một hàm răng mới trắng muốt đến nỗi cả bộ mặt tồi tàn thảm hại của lão chỉ nổi bật lên hàm răng bảnh chọe ấy. Với bộ răng mới mẻ ấy mà bây giờ lão đã quen thuộc, đôi khi còn dùng để nhai nữa, tính nết và tập quán của lão đã cải biến sâu sắc: bây giờ mặt mũi lão không bẩn thỉu lắm, có vẻ chải chuốt. Trở nên bảnh trai, lão thấy cần phải làm dáng. Nhưng hiện giờ thì lão ủ rũ, có lẽ – kỳ diệu thay! – vì lão không được tắm rửa. Chúi mình trong một xó, lão hé con mắt đờ đẫn, nhai nhấm bộ ria mép lão binh, bộ ria mép trước kia là vật tô điểm duy nhất của diện mạo lão – và thỉnh thoảng lão nhổ một sợi râu.

Fuiat bị sổ mũi hoặc ngáp, mất tinh thần, bị rụng tóc, run lẩy bẩy. Mactơrô thì vẫn không có gì thay đổi: râu xồm, con mắt xanh tròn xoe, hai cẳng chân ngắn ngủi đến nỗi quần như bị tụt thắt lưng và ống quần thõng xuống đến bàn chân. Côcôn thì vẫn là Côcôn xưa với cái đầu khô khan da mỏng dính, trong đó toàn là con số; nhưng từ tám hôm nay gã bị chấy rận hoành hành dữ quá, trông thấy chúng lổn nhổn bò lên tận cổ, ra tận cổ tay, thành ra nhiều khi gã lui ra xa anh em để vật lộn với chúng và trở lại với anh em thì mặt mày trở nên dữ tợn. Parađi vẫn giữ nguyên sắc mặt hồng hào, tươi tắn: gã chẳng có gì thay đổi, vẫn trơ trơ. Người ta tủm tỉm cười khi trông thấy gã hiện ra từ đằng xa như một tờ áp phích mới trên cái nền toàn bao đất. Cả Pêpanh cũng không thay đổi gì, khi thoáng thấy gã lang thang đi qua, lưng khoác miếng vải sơn kẻ ô đỏ và trắng trên lưng như tờ quảng cáo, hay bộ mặt sắc nhọn như lưỡi dao và vẻ nhìn lạnh lùng đanh thép; Vônpat cũng vậy với bộ ghệt ngắn, cái chăn khoác trên lưng, và một bộ mặt phèn phẹt bệt những ghét: Tiaret không hề thay đổi, mặc dầu ít lâu nay không biết có một nguyên do bí mật nào đã kích thích gã làm hằn lên những gân đỏ ngầu trong con mắt.Facfađê có vẻ tư lự, đứng cách biệt, có vẻ đợi chờ. Trong những buổi phát thư, gã tỉnh táo, hết vớ vẩn, chạy ra chỗ phát thư rồi lại trở lại trầm ngâm. Những bàn tay văn phòng của gã đã viết biết bao nhiêu bưu thiếp thật nắn nót. Gã không rõ cái chết của Ơđôxi. Lamuydơ về sau không hé cho ai biết chuyện gã ôm khủng khiếp lần cuối cùng tấm thân của cô nữa. Tôi hiểu rằng Lamuydơ hối hận là trong một buổi chiều đã rỉ tai tâm sự việc đó với tôi, và cho đến lúc chết gã giấu kín cái việc khủng khiếp trinh bạch ấy trong lòng, với một lòng tự trọng đáng phục. Vì vậy người ta còn thấy Facfađê vẫn bâng quơ ấp ủ trong lòng hình ảnh của người con gái tóc vàng và chỉ khi nào tiếp xúc với chúng tôi bằng một vài tiếng ừ hữ nhát gừng thì gã mới tạm nguôi trong phút chốc. Xung quanh chúng tôi, anh cai Bectrăng vẫn luôn giữ được thái độ nghiêm chỉnh, lúc nào cũng sẵn một nụ cười bình dị với chúng tôi, và mỗi khi anh em hỏi điều gì thì anh giải thích rõ ràng, và giúp đỡ anh em làm tròn phận sự.

Anh em lại trò chuyện như xưa, như vừa gần đây thôi. Nhưng phải chú ý nói khe khẽ nên câu chuyện bớt đi, và trở nên bình lặng đượm mầu tang tóc.

o O o

Có một việc bất thường: từ ba tháng nay, định kỳ của mỗi đơn vị đóng ở chiến hào là bốn ngày. Vậy mà lần này chúng tôi ở đây đã năm hôm rồi mà không thấy nói đến thay phiên. Những gã liên lạc và phục dịch cứ hai đêm một lần – không đều đặn cũng không bảo đảm – mang tiếp tế đến, – đã đưa tin đồn đại lăng nhăng sắp có cuộc tấn công đến nơi. Thêm vào những lời đồn đại đó còn có những triệu chứng khác: hoãn phép, thư từ không đến nữa; các sĩ quan cũng rõ ràng là khác hẳn trước: nghiêm túc và gần gũi anh em hơn. Nhưng nói chuyện việc đó với họ thì bao giờ cũng chỉ kết thúc bằng một cái nhún vai: không bao giờ họ cho người lính biết họ sẽ dùng anh ta vào việc gì; họ bịt một miếng vải che mắt anh ta cho đến phút cuối cùng mới bỏ ra. Vì vậy:

- Cứ để rồi sẽ xem sao.

- Chỉ có việc chờ xem.

Thành thử anh em chẳng lưu tâm đến cái biến cố bi đát anh em đã cảm thấy trước. Có phải là vì không thể hiểu hết được không hay là vì chán nản không muốn tìm hiểu rõ những quyết định mà anh em mù tịt, hoặc vì phải đành lòng buông trôi hoặc vì tin tưởng bền bỉ rằng lần này cũng vậy, ta sẽ lọt qua khỏi cơn nguy hiểm như trước? Dù sao, mặc dầu có những dấu hiệu báo trước và những lời phỏng đoán tiên tri rất có thể sẽ đúng, anh em lại máy móc rơi vào những mối quan tâm trước mắt: đói, khát, chấy rận giết đến đỏ ngầu móng tay, và sự mệt mỏi lớn lao làm cho mọi người xọp hẳn đi.

Vônpat nói:

- Sáng nay mày có gặp thằng Jôdep không? Thương hại thằng bé, chẳng sống được bao lâu nữa đâu.

- Chắc chắn là thể nào nó cũng sẽ làm một việc điên rồ. Thằng bé này chết đến nơi rồi, mày có thấy không. Có dịp là nó sẽ lao đầu vào đạn đấy, rõ ràng như hai năm rõ mười.

- Nhưng ở vào trường hợp như hắn thì thể nào chẳng phát điên lên được? Hắn có sáu anh em, cậu biết đấy. Bốn người đã ngoẻo rồi: hai người ở Andát, một người ở Sămpanhơ và một ở Acgon. Nếu Anđrê mà cũng chết, thế là năm.

- Nếu Anđrê mà có bị hy sinh thì đã tìm thấy xác, đứng ở trạm quan sát chắc là phải nom thấy. Tội quái gì mà phải vò đầu vò đít cho mệt. Theo ý tớ thì cái đêm đi tuần tra, lúc về nó đã bị lạc đường. Thằng khỉ chắc là bò loanh quanh rồi rơi nhầm vào chiến hào Đức.

- Có thể hắn đã bị chúng hạ ở trên dây thép gai của chúng.

- Nhưng tớ đã bảo là nếu hắn chết thì đã tìm thấy xác. Chứ quân Bốtsơ khi nào nó lại đem xác hắn về. Nói tóm lại người ta đã tìm hắn khắp mọi nơi mà không thấy đâu cả, tức là hoặc bị thương, hoặc không bị thương, chắc là hắn đã chuồn được.

Giả thuyết này hợp lý lắm thành ra ai cũng cho là đúng, và bây giờ ai cũng yên trí là Mexnin Anđrê đã bị bắt làm tù binh, và người ta thôi không nghĩ đến gã nữa. Nhưng người ta vẫn thương hại người em của gã.

- Thằng bé khốn khổ, nó hãy còn trẻ quá!

Và anh em trong tiểu đội liếc mắt nhìn trộm gã.

Bỗng nhiên Côcôn nói lên:

- Tớ đói quá!

Giờ ăn xúp đã qua rồi, nên anh em đòi ăn. Thì xúp đây: xúp còn lại từ bữa tối qua.

- Anh cai nghĩ thế nào mà để anh em đói rã họng ra thế này? Anh ta kia rồi. Để tớ cho hắn một chầu. Này! Anh cai, sao không cho ăn, còn dớ dẩn gì?

Và cái đám người lúc nào cũng háu đói cùng nhắc lại:

- Ừ, ừ! Bữa ăn đâu?

Bectrăng lăng xăng ngày đêm lúc nào cũng bận bịu, trả lời:

- Có tớ!

Pêpanh vốn là tay đầu bò nói:

- Thế nào! Tớ đói, dễ thường phải thổi kèn mãi sao! Ông thì mở mẹ nó một hộp thịt bò ra bây giờ.

Màn hài kịch hàng ngày lại bắt đầu trên bề mặt của một tấn bi kịch.

Bectrăng bảo:

- Đừng có mó đến lương thực dự trữ! Tớ lên gặp đại úy rồi về cho các cậu ăn ngay lập tức.

Khi trở về, anh mang về cấp phát cho anh em ăn món khoai tây trộn với hành. Khi miệng đã có cái nhai thì những nét cau có mất dần và mắt dịu đi.

Parađi lúc ăn trưng trên đầu một cái mũ chụp nhỏ. Nào phải đâu chỗ diện và lúc diện, nhưng cái mũ ấy mới toanh, và người thợ may hứa khâu cho gã từ ba tháng rồi, hôm gã lên đường ra mặt trận mới đưa cho. Cái mũ mềm có hai sừng nhọn, bằng dạ mầu xanh thắm đặt trên cái mặt hồng hào của gã làm cho gã giống như một anh lính sen đầm bằng giấy bồi, hai má lòe loẹt. Trong khi ăn, gã nhìn tôi không chớp mắt. Tôi lại gần.

- Trông cậu phương phi lắm.

Gã trả lời:

- Nói làm quái gì cái đó. Tớ có câu chuyện muốn nói với cậu. Cậu lại đằng này.

Gã với tay về phía cái ca gần đấy, để ở gần các đĩa ăn và đồ lặt vặt của gã, lưỡng lự rồi quyết định cất kỹ món rượu vào bụng và cái ca vào túi. Gã bước đi.

Tôi đi theo. Khi đi qua cái ghế đất, gã cầm lấy cái mũ sắt để ngửa ở đó. Đi được mươi bước, gã lại gần tôi và nói khẽ với tôi, vẻ mặt lạ lùng, không nhìn tôi như gã thường làm thế mỗi khi cảm động:

- Tớ biết Mexnin Anđrê ở đâu. Cậu muốn trông thấy hắn không? Theo tớ.

Nói xong gã bỏ cái mũ chụp ra, gấp nó lại, bỏ vào túi, đội mũ sắt vào. Gã lại đi, tôi lặng lẽ theo sau.

Gã đưa tôi đến một nơi cách đó độ năm mươi thước, chỗ hầm công cộng của chúng tôi và cái vòm bằng bao cát dưới đó người ta thường phải chui qua, mỗi lần chui có cảm giác như cái cầu bằng bùn đó sắp sụt xuống lưng. Chui qua cái vòm có một cái hốc đào trong sườn hào có bực lên làm bằng phên trét đất sét. Parađi trèo lên và ra hiệu bảo tôi theo lên cái bực hẹp và trơn ấy. Ở chỗ đó xưa kia có một lỗ châu mai để quan sát, nay đã bị phá hủy. Người ta đã làm lại lỗ châu mai ở nơi thấp hơn, có hai cái chắn đạn. Phải cúi gập người xuống mới khỏi thò đầu ra ngoài chỗ mới bố trí ấy.

Parađi bảo tôi, giọng khe khẽ:

- Chính tớ đã đặt hai cái chắn đạn này vào đấy vì tớ có ý muốn nhòm ra ngoài. Cậu đặt mắt vào cái lỗ này.

- Tớ chẳng thấy gì cả. Tầm mắt bị vướng. Cái gói vải này là cái gì thế?

Parađi trả lời:

- Hắn đấy.

Trời? Đó là một cái xác chết, một cái xác chết ngồi trong một cái hố, gần một cách khủng khiếp...

Áp mặt vào tấm thép, dính mắt vào lỗ của cái chắn đạn, tôi trông thấy cả mình hắn. Hắn đương ngồi, đầu gục xuống giữa hai đầu gối, hai cánh tay đặt trên đầu gối, bàn tay hơi nắm lại như để móc, và gần sát ngay trước mặt tôi, tôi vẫn nhận dạng được mặt hắn mặc dầu hai con mắt lòi con ngươi ra, trắng dã, và lườm lườm về một bên, chòm râu bết bùn thành một khối, miệng méo xệch để hở cả răng ra. Trông hắn như nửa cười nửa mếu với khẩu súng cắm trước mặt trong bùn. Hai bàn tay hắn vươn ra đằng trước, mặt trên xanh bầm, mặt dưới đỏ lòm như một thứ ánh sáng ẩm ướt từ địa ngục chiếu lên.

Chính là hắn, xác hắn đã bị dãi mưa, dầm bùn và đầy bọt, bẩn thỉu và xanh rùng rợn, chết đã từ bốn hôm nay, dính người vào vách hào của chúng tôi, vùi trong hố đại bác ở đó. Người ta đã không tìm thấy hắn vì hắn ở gần quá!

Giữa người chết bị bỏ rơi trong cô đơn khủng khiếp ấy và những con người đang sống ở trong hầm, chỉ cách nhau có một bức vách mỏng bằng đất, và tôi nhận ra rằng cái nơi mà tôi thường gối đầu để ngủ đối diện đúng vào chỗ mà cái hình hài kinh khủng ấy đang tì vào.

Tôi không nhòm qua lỗ nữa.

Parađi và tôi, hai anh em đưa mắt nhìn nhau.

Anh bạn tôi thì thào vào tai tôi:

- Không nên bảo thằng bé biết vội.

- Không, không bảo ngay, phải không?

- Tớ đã nói với đại úy để cho lục soát túi của gã và ông ta cũng bảo “không cho thằng bé biết vội”.

Một làn gió nhẹ thoảng qua:

- Đã có mùi rồi!

- Còn phải nói!

Chúng tôi hít, mùi hôi thối xộc vào óc chúng tôi, làm chúng tôi choáng váng cả tâm hồn.

Parađi nói:

- Đó, thế đấy. Trong số sáu anh em, chỉ còn có Jôdep. Tớ bảo cậu điều này: tớ cho rằng hắn chẳng sống được bao lâu nữa đâu. Thằng bé ấy nó sẽ liều lĩnh, nó sẽ tìm cái chết. Nếu nó không nhờ giời vớ được một vết thương cứu mạng thì thế nào nó cũng chết. Sáu anh em, quá lắm thực. Có phải là cậu cũng thấy là quá lắm không?

Gã nói thêm:

- Có điều kỳ lạ là hắn ở sát chúng ta quá.

- Cánh tay hắn đặt trúng vào chỗ tớ thường gối đầu.

Parađi nói:

- Ừ, cánh tay phải có đeo đồng hồ.

- Cái đồng hồ... tôi bỗng im bặt... có phải đó chỉ là một ý nghĩ, hay một giấc mơ? Lúc này tôi nhớ, tôi nhớ rõ trước đây ba hôm, cái đêm chúng tôi bị mệt lử, trước khi thiếp đi, tôi nghe như có tiếng đồng hồ tích tắc và tự hỏi tiếng đó ở đâu ra vậy. Tôi nghĩ như vậy và nói cho Parađi biết, gã trả lời:

- Có thể cậu đã nghe chính cái đồng hồ đó qua vách đất. Khi người ta chết rồi thì đồng hồ vẫn vẩn vơ nghĩ ngợi và quay. Chà! Cái giống máy móc ấy thật là vô tình; nó cứ âm thầm quay tròn ít lâu.

Tôi hỏi:

- Tay hắn có máu, hắn bị trúng ở đâu?

- Tớ chẳng biết, có lẽ là ở bụng, tớ coi như có vết đen ở trong lòng hắn. Hoặc ở mặt: cậu có nhận thấy một vết nhỏ ở má không?

Tôi hồi tưởng lại bộ mặt xám xì và đầy râu ria của người chết.

- Mà quả thực, ở trên mặt, chỗ này có một vết gì ấy. Phải, có lẽ đạn do chỗ đó mà vào.

Parađi bỗng hấp tấp nói:

- Coi chừng! Hắn tới. Đáng lẽ ta không nên đứng ở đây.

Nhưng chúng tôi vẫn không đi, lưỡng lự, trù trừ trong khi đó Jôdep Mexnin tiến thẳng đến chỗ chúng tôi. Trông gã lúc này yếu ớt hơn bao giờ hết. Từ xa đã thấy nước da gã xanh nhợt, nét mặt cau có, gắng gổ, bước đi chầm chậm, lưng gù, tràn ngập một nỗi mệt mỏi vô tận và một ý nghĩ in sâu trong lòng.

Gã hỏi tôi:

- Mặt cậu có cái gì thế?

Gã đã thấy tôi trỏ cho Parađi chỗ đạn trúng vào.

Tôi giả vờ như không hiểu, rồi trả lời ư hữ.

Gã đáp tôi một cách lơ đãng:

- À!

Lúc đó tôi lo quá: vì cái mùi hôi. Gã sẽ ngửi thấy và không thể nào nhầm được: nó sẽ tố cáo rằng có xác chết. Và có thể gã sẽ nghĩ ngay là...

Tôi thấy hình như bỗng nhiên gã cảm thấy có dấu hiệu, có tiếng gọi thảm thê của người đã chết.

Nhưng gã không nói gì, bước đi, tiếp tục tha thẩn một mình và đến chỗ ngoặt thì biến mất.

Parađi bảo tôi:

- Hôm qua hắn có đến đây với cái ca-men đầy thức ăn mà không buồn ăn. Như có một sự định trước, thằng khỉ ấy đến đó thì dừng lại, hắn làm một dáng điệu và hắt cơm sang bên kia bờ hào, đúng ngay chỗ anh hắn ngồi. Thấy thế tớ chịu không nổi, nắm chặt tay hắn vừa đúng lúc hắn hắt cơm đi, thế là cơm rơi cả xuống đây, trong chiến hào. Cậu ạ, hắn phát khùng lên, mắt đỏ ngầu, ngoảnh lại tớ: “Mày điên sao vậy? Mày rồ à?” Tớ ngẩn mặt ra, lúng búng chẳng biết nói gì đành nhận là chót nhỡ. Hắn nhún vai và nhìn tớ trừng trừng như một con gà sống non. Rồi hắn bỏ đi, miệng còn lải nhải phân bua với Môngtrơi lúc ấy có mặt ở đó: “Đây, mày coi, thằng ngốc quá”. Cậu đã biết Jôdep vốn có tính nóng nảy, tớ cứ lầm bầm mãi: “Thôi, không sao, không sao”. Hắn thì vẫn lải nhải, còn tớ thì tớ chẳng vui chút nào, cậu biết đấy, vì trong việc này tớ vẫn đúng mà phải chịu sai.

Hai người chúng tôi im lặng đi lên.

Chúng tôi trở về hầm trú ẩn công cộng trong đó anh em khác đang tụ tập. Hầm ấy trước là chỉ huy sở nên khá rộng rãi.

Khi bước xuống hầm, Parađi lắng tai nghe.

- Những khẩu đội đại bác của ta hoạt động dữ dội từ một giờ rồi, cậu có thấy không, hả?

Tôi biết gã muốn nói gì, tôi làm một dáng điệu mơ hồ:

- Cậu ạ, rồi ta sẽ biết, ta sẽ biết rõ!

Trong hầm, Tiaret đang nói chuyện về vấn đề doanh trại với ba thính giả. Trong một xó, Mactơrô đang ngáy; gã nằm ở gần cửa vào nên muốn đi xuống phải bước qua bộ cẳng ngắn ngủi của gã, trông như gã thu cẳng vào trong người. Một nhóm người đánh bài quỳ xung quanh một cái chăn gấp lại.

- Đến lượt tao làm bài!

- 40 – 42! – 48 – 49! Khá đấy!

- Thằng chết treo, nó đỏ quá. Đỏ không thể tưởng tượng được. Mày mọc sừng đến ba lần[52]! Không chơi với mày được. Đồ mặt dày, hôm nay mày đã được tao và hôm nọ nữa mày vớ nhẵn của tao!

- Đồ miệng sò, thế sao mày không chịu bảo?

- Tao chỉ có quân tướng, và tướng không quân.

- Nó có con pic hoàng bài.

- Thằng nỡm này, quân đó ít khi nó có.

Một gã đang ăn uống, lầm bầm ở một góc:

- Rõ thật... Cái miếng phó mát này hai hào rưỡi mà tồi tệ quá! Ở ngoài thì như mát-tích thối, ở trong như vôi cứng.

Trong khi đó Tiaret kể lại chuyện gã đã bị một viên thiếu tá nào đó làm cho ê chề trong hai mươi mốt ngày.

- Cái thằng lợn ỉ ấy, mày ạ, nó hắc búa nhất trần đời. Tất cả anh em đều len lét khi bị nó đem ra trần, nó ngồi phành phành trên một cái ghế đến nỗi đầy phè cái ghế, cái bụng phệ đồ sộ và cái mũ kêpi lớn tướng khoanh đặc những lon từ trên xuống dưới như một cái thùng rượu vang. Nó nghiệt với lính quèn. Tên nó là Lôep – đặc là tên một thằng Đức.

Parađi reo lên:

- Thằng ấy tớ biết. Khi xảy ra chiến tranh, lẽ tất nhiên là nó xin được miễn ra mặt trận vì yếu. Khi tớ đương theo kỳ huấn luyện, nó đã biết cách lẩn tránh rồi, nhưng nó lẩn tránh ở các đầu đường góc phố để tóm lính: một cái khuy không cài: một ngày nhà pha, và nếu quân phục của cậu không tề chỉnh theo điều lệnh nó còn nhiếc cậu trước mặt mọi người và mọi người cười rũ; nó thì nó tưởng người ta cười cậu, còn cậu thì cậu biết người ta giỡn nó; nhưng biết gì thì biết, cậu cũng sắp đến lượt vào nhà pha nốt.

Tiaret lại nói:

- Nó có một con vợ. Mụ đó...

Parađi bật lên:

- Tớ cũng nhớ con mụ đó. Thật là một con mụ ôn vật!

- Có những kẻ đi đâu là dắt chó theo sau. Còn nó thì đi đâu nó cũng lê cái vật ôn tả ấy theo, con mụ cả người vàng khè, cậu biết đấy, như một loại táo, hai cái mông xương xẩu, trông thật là dữ tướng. Chính con mụ đó nó huých thằng chồng hành hạ chúng tớ: không có mụ thì thằng cha chỉ ngốc thôi chứ không ác mấy, nhưng có mụ thì nó lại ác hơn là ngốc. Cậu phải biết, như vậy biết bao nhiêu chuyện bí beng.

Lúc đó Mactơrô đang ngủ ở gần cửa vào, thức dậy, rên lên một tiếng vớ vẩn. Gã nhỏm dậy, ngồi trên lớp rơm như một người tù, và người ta trông thấy bóng dáng râu xồm xoàm của gã in hình lên tường, và con mắt tròn xoe của gã đảo đi đảo lại trong bóng tối. Gã ngẫm lại giấc mơ vừa rồi.

Rồi gã đưa tay xoa mắt và ôn lại những hình ảnh đã thấy đêm anh em xuất phát khỏi chiến hào như có liên quan đến giấc mơ vừa rồi của gã.

Giọng hãy còn ngái ngủ và vẩn vơ vì giấc mơ vừa rồi, gã nói:

- Của đáng tội, đêm đó như buồm gặp gió! Chà! Cái đêm lạ lùng. Tất cả những đội quân đó, từng đại đội, từng trung đoàn vừa hò hét vừa hát vang tiến lên theo dọc con đường. Trong bóng tối mờ mờ, trông thấy cả một rừng chiến sĩ đi lên, trào lên như nước biển, khoa chân khoa tay giữa đoàn xe pháo binh và xe cứu thương đi ngược lại. Chưa bao giờ tớ trông thấy nhiều xe đi trong đêm đến thế, chưa bao giờ!

Rồi gã đấm vào ngực một cái mạnh, ngồi lại chững chạc, lầu bầu rồi thôi không nói nữa.

Tiếng của lão Blerơ lúc bấy giờ mới cất lên, nói hộ cái ý nghĩ đương ám ảnh trong lòng mọi người:

- Bây giờ là bốn giờ. Bên ta có tấn công thì cũng quá muộn rồi.

Một người lính đang đánh bài trong góc kia cất tiếng the thé:

- Sao, mày chơi nữa hay thôi hử, đồ mặt giòi?

Tiaret vẫn kể tiếp câu chuyện về viên thiếu tá:

- Thế rồi một hôm ở doanh trại, nhà bếp dọn cho chúng tớ ăn xúp nấu với mỡ bò. Thối hoăng lên cậu ạ. Một đứa mới xin có ý kiến với đại úy, hắn mang ca-men xúp đến dí vào mũi đại úy...

Trong góc kia có tiếng gắt rất cáu kỉnh:

- Đồ cẳng bò, sao mày không đánh chủ bài?

-... Đại úy kêu lên: “Bỏ mẹ! Để lui ra đừng dí vào mũi ta thế. Đúng là thối nặc lên ấy”.

Một giọng nói bực dọc nhưng lúng túng vọng sang rè rè:

- Tao không quen đánh thế.

- Rồi đại úy làm báo cáo đưa lên lão thiếu tá. Thế là lão này tức điên lên, lão dẫn xác đến, tay vung vung tờ báo cáo:

“Cái gì nữa hử? Cái món xúp gây nổi loạn ấy đâu, đưa ta nếm xem!” Chúng tớ đổ xúp vào ca-men sạch mang đến. Lão hít hít rồi nói: “Thế nào, thơm đấy chứ! Mấy khi người ta cho ăn được món xúp bổ béo thế này!”

- Không quen đánh à! Nó nắm con bài đầu hoa kia mà. Rõ đồ guốc cùn, gà toi! Thật tai hại mày ạ.

- Thế nhưng đến năm giờ mở cổng trại, hai của quái lại dẫn xác đến, đứng như trời trồng trước mặt bọn bộ binh đang đi ra, cố tìm xem cánh này có chỗ nào hớ hênh thì chộp. Lão ta nói: “À, các ông mãnh ạ, các người định trêu tức ta làm trò cười nên mới kêu ca về cái món xúp tuyệt ngon ấy chứ gì. Ta ăn xúp đến sướng miệng, cả bà thiếu ta đây cũng ăn nữa, đợi tí xem ta có tóm hụt không nhé... Ê, đằng kia! Cái anh tóc dài, anh nghệ sĩ cao cao kia, lại đây tí!” Lão ngựa đực nói thế, còn mụ ngựa cái cứ đứng ngây cán tàn, gật gật đầu đồng ý.

-... Cái ấy cũng tùy, vì hắn ta không có con át. Trường hợp đặc biệt mà.

- Bỗng tự nhiên mụ ta tái nhợt mặt mũi, chặn tay lên bụng chả hiểu vì sao lại giật giật cả người. Đang đứng giữa bãi, con nhà lính chen chúc chung quanh, bỗng mụ đánh rơi cái ô rồi nôn thốc nôn tháo ra!

Parađi đột ngột lên tiếng:

- Này coi chừng! Trong hào người ta kêu gì đấy không nghe hả? Có phải kêu “báo động” không?

- Báo động à? Mày điên đấy à?

Người ta vừa nói xong câu ấy, một bóng đen đã luồn vào cửa hầm thấp và gọi:

- Đại đội 22 báo động! Chuẩn bị vũ khí!

Một loáng im lặng, tiếp theo mấy tiếng buột mồm:

- Tớ biết mà!

Parađi lầu bầu trong miệng rồi bò bằng đầu gối ra phía cửa hang chuột chúng tôi đang nằm.

Không ai nói gì nữa. Mọi người ngậm câm. Ai nấy vội vàng nhổm dậy, quỳ gối hoặc ngồi gập người; mọi người cài thắt lưng đạn. Những bóng cánh tay vung qua lại, dồn nhét các thứ vào túi. Rồi mọi người nhốn nháo chui ra ngoài, túm quai kéo lê xắc cùng với chăn, túi dết theo sau.

Bên ngoài ồn điếc tai. Tiếng súng nổ dậy to gấp trăm lần bao trùm chúng tôi cả hai bên và trước mặt. Các khẩu đội pháo bên chúng tôi gầm không ngớt tiếng.

Có tiếng hỏi rụt rè:

- Địch tấn công phải không cậu?

Một giọng đáp xẵng, cáu kỉnh:

- Tớ biết đâu đấy!

Răng nghiến chặt, anh em nuốt mọi ý nghĩ. Mọi người hối hả, chen chúc, va chạm nhau, miệng hậm hự không thành tiếng.

Một mệnh lệnh truyền qua:

- Ba lô lên vai!

- Có lệnh thay đổi...

Một sĩ quan sải chân chạy dọc theo chiến hào, hích khuỷu tay mở đường. Câu nói đứt mất phần sau vì người nói chạy biến mất.

Lệnh thay đổi! Một cơn rùng mình rõ ràng truyền qua hàng quân, tim bật nảy lên khiến mọi người cùng ngửng đầu, cùng ngừng lặng trong phút chờ đợi kỳ lạ.

Nhưng không phải, chỉ có lệnh thay đổi về khoản ba lô. Không mang ba lô nữa, cuộn chăn quanh mình, giắt dụng cụ vào thắt lưng.

Mọi người tháo chăn, giật chăn ra, cuộn tròn lại. Vẫn không nói năng, ai nấy mở mắt trân trân, ngậm cứng miệng.

Các viên cai đội lập cập đi qua lại, thúc những con người đương vội vã trong im lặng.

- Nào, mau lên! Nào, nào, vứt cái gì đi đấy? Có quàng lên không hử?

Một toán lính, đeo phù hiệu đôi búa chéo trên tay áo, len lỏi đi đến, thoăn thoắt khoét lỗ trên thanh hào. Anh em vừa sửa sang nốt trang bị, vừa ghé mắt sang họ.

- Bọn ấy làm gì thế nhỉ?

- Bậc trèo lên đấy.

Mọi người sẵn sàng. Họ xếp thành hàng, vẫn im lặng, chăn quàng chéo qua vai, quai mũ chịt dưới cằm đứng tì trên khẩu súng. Tôi ngắm những khuôn mặt dúm lại xanh nhợt và thầm kín ấy.

Họ không phải là lính: họ là những con người. Họ chẳng phải là bọn tứ chiếng giang hồ, bọn lính nhà nghề đã được đào tạo cho cái lò sát sinh của loài người để làm đồ tể hoặc vật bị giết.Họ là dân cày và thợ thuyền mặc quân phục. Họ là những người dân thường phải rời làng. Họ đã sẵn sàng. Họ đang đợi lệnh xông vào chỗ chết và chỗ giết, nhưng khi nhìn kỹ những khuôn mặt qua hàng lưỡi lê thẳng đứng, ta thấy họ cũng chỉ là những con người.

Ai nấy đều biết rằng mình sắp mang đầu, ngực, bụng, mang cả tấm thân không có gì che đỡ này lên làm mồi cho những mũi súng kề sẵn, cho đạn đại bác, cho những đống lựu đạn sẵn sàng tung ra, cho tất cả những thứ vũ khí đang đợi sẵn và nín lặng một cách khủng khiếp đằng trước kia, rồi mới chạm trán với những người lính khác mầu áo cần phải giết. Họ không thờ ơ với cuộc sống như quân cướp, họ không giận dữ đến mù quáng như kẻ man rợ. Nghe mãi những lời tuyên truyền mà họ vẫn không bốc. Họ thoát ra khỏi sự khích động của bản năng. Họ không say, cả say rượu lẫn say máu. Hoàn toàn tỉnh táo, sức còn mạnh và người còn khỏe, họ dồn về đây để một lần nữa lao mình vào những hành động điên cuồng mà nhân loại ngông cuồng đã bắt mỗi người phải nhận. Có một vẻ gì vừa trầm ngâm, vừa sợ hãi, lẫn một ý vĩnh biệt trong dáng im lặng của họ, trên lớp vỏ bình tĩnh dị thường bao phủ trên khuôn mặt họ. Họ không phải là kiểu anh hùng trong tưởng tượng, nhưng sự hy sinh của họ vượt cao quá tầm hiểu biết của những ai chưa từng thấy họ.

Họ đang chờ. Phút chờ đợi kéo dài, dài đến vô tận. Chốc chốc trong hàng lại có người khẽ giật mình khi một viên đạn từ phía trước bay đến, sượt qua mô chắn đạn trước mặt rồi thuốn vào lớp thịt nhão của mô đất sau lưng.

Ngày tàn tỏa ánh sáng sâm sẫm mà hùng vĩ xuống khối người còn khỏe mạnh và nguyên vẹn mà đến đêm sẽ chỉ còn sống sót lại một phần. Trời mưa – vẫn cảnh trời mưa như gắn liền vào mọi kỷ niệm của tôi về những tấn bi kịch của cuộc đại chiến. Đêm sắp đến, sắp giương cái cạm bẫy rộng bằng cả thế giới trước mặt loài người.

o O o

Những mệnh lệnh mới được truyền từ người này qua người khác. Họ chia nhau những quả lựu đạn xâu trong vòng dây thép. “Mỗi người lấy hai quả lựu đạn đi!”

Viên thiếu tá đi qua. Ông ta điềm đạm, mặc quân phục ngắn, nai nịt gọn, đã đơn giản hóa. Ông nói:

- Có chuyện hay, các chú ạ. Bọn Đức cuốn xéo rồi. Các chú tiến khỏe chứ, hả.

Tin tức mới bay lướt qua chúng tôi như gió:

- Có quân Marôc và đại đội 21 đằng trước. Bên cánh phải xuất phát tấn công đầu tiên.

Có lệnh gọi các hạ sĩ lên gặp đại úy. Họ mang về từng ôm đồ sắt. Bectrăng nắn nắn tôi. Gã móc cái gì vào cúc áo ca pốt của tôi. Một con dao nhà bếp. Gã bảo:

- Tớ gắn cái này vào áo cậu đấy.

Gã ngó tôi, rồi đi tìm những người khác. Pêpanh gọi:

- Còn tớ!

Bectrăng đáp:

- Không. Cấm không được lấy người tình nguyện trong việc này.

Họ vẫn chờ đợi trong không gian đẫm mưa, âm vang tiếng nện, rào quanh chỉ có tiếng đại bác nổ xa mênh mông. Bectrăng phát vũ khí xong đã quay về. Lác đác có người ngồi xuống, đôi người ngáp vặt.

Biét, lính giao thông xe đạp, luồn qua trước mặt chúng tôi. Tay gã mang chiếc áo mưa của một sĩ quan và rõ ràng gã quay mặt đi nơi khác. Côcôn gọi:

- Sao thế, mày không lên à?

- Không, tao không lên. Tao ở đại đội 17, tiểu đoàn 5 không tấn công!

- À, tiểu đoàn 5 lúc nào cũng bở, chẳng bao giờ như bọn mình!

Biét đã đi xa, mọi người hơi nhăn mặt khi thấy gã đã khuất.

Một người chạy đến nói gì với Bectrăng. Anh quay lại phía chúng tôi:

- Nào, ta đi. Đến lượt rồi.

Tất cả cùng chuyển mình một lần. Chúng tôi đặt chân lên những bậc do công binh đã khoét sẵn, chen vai nhau trèo ra ngoài chiến hào, bước lên mô chắn đạn.

o O o

Bectrăng đứng trên bãi dốc. Anh đưa mắt nhìn loáng qua chúng tôi. Khi chúng tôi lên đủ, anh nói:

- Nào, tiến lên!

Tiếng người vang lên thật kỳ lạ. Giây phút xuất phát qua rất nhanh và bất ngờ như giữa cơn mê. Không có tiếng đạn rít trong không trung. Trong tiếng rền lớn lao của đại bác, chúng tôi rất dễ nhận ra cái im lặng lạ lùng này khi đạn không réo chung quanh mình.

Chúng tôi tiến xuôi theo triền bãi trơn và gồ ghề, cử động như máy, đôi khi dùng khẩu súng dài lưỡi lê để chống. Con mắt tự nhiên cứ nhìn xói vào một chỗ nào đó trên sườn dốc, vào mặt đất bị phá nát đang trải dài, vào mấy thân cọc gày đứng lơ thơ, vào những thứ gãy vỡ nằm dưới hố. Thật không thể tưởng tượng rằng mình có thể đứng giữa ban ngày trên mặt dốc này ở đó đôi người sống sót còn nhớ mình đã phải luồn qua đây trong đêm tối với muôn vàn thận trọng và những người khác chỉ mới nghiêng nghé dòm vội ra đây qua lỗ châu mai. Không, không có loạt súng nào bắn vào chúng tôi. Hình như không có ai thấy cả tiểu đoàn từ trong lòng đất tỏa ra thì phải! Giây lát ngừng bắn này chứa đầy một nỗi đe dọa đang lớn dần, lớn dần. Ánh sáng nhợt nhạt làm chúng tôi chói mắt.

Mặt dốc bốn bề đều đầy kín những người đang cất bước chạy xuống như chúng tôi. Bên phải lấp loáng bóng một đại đội đang tiến xuống lũng dưới kia theo giao thông hào 97, một công sự cũ của Đức đã hỏng nát.

Chúng tôi vượt qua rào dây thép gai, theo lối đi chừa sẵn. Địch vẫn chưa bắn sang chúng tôi. Đôi người lóng cóng sẩy chân ngã lại dậy. Qua hết rào, chúng tôi ghép lại hàng rồi sấp ngửa chạy xuống dốc nhanh hơn một chút: linh tính thúc đẩy mọi người vận động nhanh hơn. Lúc ấy vài viên đạn bay đến chúng tôi. Bectrăng gọi chúng tôi dặn tiết kiệm lựu đạn, đợi đến phút cuối cùng.

Nhưng tiếng anh bị lấp ngay: bất thình lình những ngọn lửa tối sầm lóe lên trước mặt chúng tôi, kín cả chiều ngang bãi dốc và tung ra những tiếng nổ vang động kinh hồn. Pháo sáng bùng trên trời cao, đạn nổ ầm trên mặt đất thành một dãy dài từ trái sang phải. Cả một bức màn khủng khiếp tách rời chúng tôi ra khỏi thế giới, tách rời chúng tôi với quá khứ và tương lai. Chúng tôi đứng sững lại như bị đóng cọc xuống đất, sửng sốt trước đám mây đầy sấm sét bao quanh; rồi một sức mạnh chung lại xốc cả đám người lên, ném vọt về phía trước, nhanh vun vút. Chúng tôi lảo đảo bám vào nhau trong những làn khói ngập ngụa. Chúng tôi nhốn nháo ùa về phía Lũng, ở đó chúng tôi thấy mở ra liên tiếp những họng núi lửa rải rác, hoặc kề nhau, hoặc lồng vào nhau giữa tiếng ầm xé tai và những cột bụi đất tung lên trời. Rồi đạn pháo rơi vào đâu cũng không biết nữa. Hàng loạt tiếng nổ rào lên vang động ghê gớm đến nỗi con người cảm thấy chỉ riêng tiếng ồn của cơn bão sét ấy, của những ngôi sao lớn đang nổ tung mảnh trên không kia cũng đủ nghiền nát thân mình. Chúng tôi thấy rõ hay cảm thấy mảnh đạn vút qua bên đầu, rít lên như tiếng sắt nung đỏ nhúng nước. Một luồng hơi đạn đốt bỏng tay khiến tôi buông rơi khẩu súng. Tôi loạng choạng cúi nhặt súng, lại cúi đầu lao lên trong cơn dông tố nhằng nhịt ánh chớp màu hung đỏ, trong cơn mưa đá cháy lỏng dội xuống đè người, giữa những luồng tro muội quất vào thân. Tiếng mảnh đạn bay réo đến buốt tai, như đập vào gáy, xuyên qua thái dương, chúng tôi nghe thấy phải bật tiếng kêu. Ngây ngất vì mùi diêm sinh, tim chúng tôi như bị xoắn lại. Những luồng hơi giết người cứ xô đẩy, nhấc bổng, nhào lắc chúng tôi. Chúng tôi chồm tới; không còn biết đi đâu. Mắt nhấp nháy quáng lòa và chảy nước. Phía trước mặt, một dòng thác chớp lòe choán hết tầm mắt nhìn, bưng kín mắt.

Đó là hỏa lực địch bắn chặn. Phải băng qua vầng lửa xoáy bốc và những đám mây dựng đứng kinh tởm kia. Chúng tôi vượt. Chúng tôi đã hú họa vượt qua; đây đó những đoàn người quay tròn bị tung lên, nằm xuống, loáng sáng trong ánh lửa vờn từ cõi chết chiếu sang. Tôi thoáng thấy những khuôn mặt quái dị há mồm thốt ra những tiếng kêu bị tiếng rầm rầm nuốt biến, không nghe được. Một lò than đầy những tảng đỏ, tảng đen khổng lồ hung dữ đổ xuống chung quanh tôi, moi tung đất dưới chân tôi, ném tôi sang bên như một thứ đồ chơi biết nẩy. Tôi nhớ mình đã vọt qua một xác chết đang cháy đen thui, có một mảng máu đỏ tươi còn sủi trên thân. Tôi còn nhớ vạt áo khoác của người chạy bên tôi bén lửa cháy, vạch thành một đường khói. Phía tay phải, suốt dọc theo giao thông hào 97, một dãy bóng sáng khủng khiếp chen nhau dựng san sát như bóng người, khiến mắt chúng tôi nhìn sáng đến quáng lòa.

- Tiến lên!

Bây giờ chúng tôi tiến gần như chạy. Có người ngã quật sấp xuống, đầu chúi về phía