← Quay lại trang sách

Mùa xuân bẫy én đồng làng

Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở một làng quê hẳn không thể quên cái trò bẫy én vào mỗi độ xuân về. Ngày xưa tôi là một đứa bé mê chim chóc, mê đến nỗi có những ngày Tết xa quê cứ thèm mình là con chim én ấy, để được bay về cánh đồng quê hương và tình nguyện mắc vào một cái bẫy ai đó đã đặt chờ đợi.

Con nít làng tôi lớn lên như thế. Lớn lên từ cánh đồng mỗi mùa ban tặng một thứ sản vật, có cái cầm được có cái không, nhưng tất cả đều đáng yêu đáng nhớ. Mùa hạ cho thóc trảy vỏ bóc ra gạo trắng. Mùa thu toóc rạ đốt lên khói đồng xoáy vào mắt, cay. Mùa đông có lũ cá lội ngược nước chảy vào những chiếc nom đặt ở cống. Còn mùa xuân thung thăng bầy én về, thung thăng lũ trẻ đi bẫy én. Dường như mùa xuân, cánh đồng dành riêng cho lũ con nít.

Làng tôi là khuông đất nhỏ, không sông không biển, được bao quanh bởi ba làng khác. Chính vì thế mà ngày nhỏ tôi lọt giữa những ngọn lúa bờ đê và không định vị được phương hướng. Đến một hôm mặt trới chỉ cho tôi hướng đông - hướng tây ứng với chân trời nó mọc và lặn. Mùa xuân năm ấy bầy chim én bay về giúp tôi biết được hướng bắc — hướng nam theo chiều bay của chúng. Tôi cảm ơn loài chim mùa xuân này, én đã dạy cho tôi bài học về sự định hướng quê nhà, để đi xa tôi không đánh mất mình giữa bốn chiều quỹ đạo mông lung. Cũng nhờ cái hướng đàn chim đó mà tôi nhận ra làng mình như một cái bẫy dang tay đón lấy mùa xuân, ôm chặt những đứa con tha hương trở về, như tôi hôm nay. Trong tuổi thơ khốn khó, bạn bè tôi đã tự sắm ra trò để chơi và nhận lấy từ đó những bài học quý giá về địa lý, đạo lý.

Nơi mảnh làng bé nhỏ này, mùa xuân là sự phối hợp hoàn hảo nhất của thiên nhiên, đến nỗi suy nghĩ ấu dại của tôi đã đóng đinh một khái niệm tuyệt đối: Quê hương. Mỗi mùa xuân cánh én bay qua, như tuổi thơ lặng lẽ ẩn mình vào ký ức, riêng quê hương luôn là nơi trở về cho chim và người. Phải vì thế mà tục ngữ Việt đã dành một câu thiêng liêng nhất cho cả hai: “Chim có tổ, người có tông”.

Mùa xuân tiềm giữ một ma lực mạnh mẽ đến nỗi mọi thứ luôn muốn làm mới mình để vào hội. Hoa thời bung sắc, yến tỉa lông, chim công chuốt nỏn đuôi. Riêng những cánh én lại giản dị như chưa bao giờ biết làm đẹp. Bù lại, én thể hiện mình bằng cách lướt những đường bay điêu luyện, lộn đảo vòng giữa không gian. Muốn được yêu trước hết cần phải làm cho mình đáng yêu. Có lẽ én đã học được điều này nên không những khỏi tủi phận giữa mùa xuân thiếu tà áo mới mà còn được trẻ con đem lòng mến yêu. Trên cánh đồng làng, bằng vũ điệu của mình, én đã làm một cuộc soán ngôi ngoạn mục và giữ vị thế ấy suốt những mùa giải tân niên. Chim trời luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên thần thái cho thiên nhiên. Ở thủ đô Minsk, khi đàn chim sẻ bay lượn men theo dòng chảy sông Svislach mang nắng ấm về, là lúc mùa xuân đến. Cả thành phố náo động tiếng sẻ gọi nhau vào mỗi buổi chiều. Chính vì thế mà trước cổng chợ Kamarop có tượng con chim sẻ đậu trên đầu chú ngựa. Và đó là một biểu tượng của thành phố thể hiện sự thiện chí hòa ái.

Vào một ngày xuân năm mười tuổi, tôi nghe sau lưng nhà những tiếng sột soạt vờn gió, chạy ra xem thì thấy mấy cánh én nhỏ về đậu trên bờ ruộng. Rồi chúng bay vút theo hướng nam sà xuống cánh đồng trước mặt nhà. Ngày sương giáng, những cánh én thấp thoáng bay qua đã dừng chân ghé lại nơi làng quê yên ả và kịp đánh một dấu nhớ trong cuộc viễn du về miền ánh sáng. Mấy tấm ruộng giêng đang xanh thắm hệt một tấm áo choàng, bỗng nhiên được đơm thêm những chiếc cúc đen nhỏ. Và những chiếc cúc én ấy như muốn báo với người làng một mùa ấm êm sắp tới. Đấy chính là bức thông điệp mà nàng Xuân đã ý nhị nhờ cánh én mang về.

Én đầu mùa bạo dạn, chúng dừng lại rất lâu trên đồng làng, lướt cánh lượn qua lượn về trên đám lúa non. Lúc đầu một vài con, sau là từng đàn, cứ thế chúng kéo nhau về làm hội giữa đồng làng. Có lẽ chính nhờ tính cách hồn nhiên ấy nên én là loài... chơi được. Cũng như tình bạn, luôn cần sự hồn nhiên trong sáng để chơi với nhau được lâu dài. Mỗi trò chơi của tuổi thơ luôn để lại trong trí nhớ người ta những suy nghĩ chín chắn. Nhờ chơi mà trẻ con trưởng thành lên. Học mà chơi, chơi mà học là vậy.

Ở làng có một cái hồ, tục gọi hồ ông Bá, nước luôn đầy nên dùng để nuôi cá. Mùa xuân bầy én bay qua soi mmh xuống hồ như để trang điểm lại nhan sắc đã bị gió bụi đường trường làm xấu đi. Cụ già chủ hồ cá chỉ cần ngắm ảnh của con én dưới hồ là biết độ trong của nước để điều chỉnh cho phù hợp. Mãi sau này tôi mới biết, trong thủy nông học gọi đấy là phương pháp đĩa sếch-xi. Bình thường, để đo độ trong của nước hồ, người ta dùng đĩa sếch-xi, là một đĩa tròn chia làm bốn cánh sơn màu trắng đen xen kẽ. Ở giữa tâm đĩa gắn một thước đo vuông góc với mặt. Nhúng đĩa sếch-xi xuống nước, bao giờ không còn phân biệt màu đĩa thì độ đo của thước ứng với độ trong mặt nước. Từ khi biết được phương pháp này, tôi chợt khâm phục những người dân bình dị của quê mình, họ không được học hành nhiều nhưng lại làm việc rất có căn cớ. Tôi tự hỏi, phải chăng mỗi người nông dân là một nhà khoa học với hàm lượng trí thức tiềm ẩn và vận dụng khéo léo. Sống ở quê, chơi với người quê học được bao điều.

Như chuyện làm bẫy én cũng vậy, trẻ con học theo nhau là chính. Cái bẫy én rất đơn giản. Lấy đoạn tre ngắn, một đầu chẻ ra rồi nêm vào giữa nét chẻ một hòn đá để tạo thành cái nạng chãng ba. Dùng sợi chỉ buộc qua một cái vòng thòng lọng. Mồi bẫy én là ruồi, ruồi đen nhỏ hoặc ruồi xanh càng tốt. Bắt ruồi xong thì cột vào giữa cái vòng dây chỉ thòng lọng đó. Nhớ là phải dùng chỉ mảnh để én không phát hiện ra. Sigmund Freud từng nói: “Mỗi đứa trẻ đang chơi là một nhà thơ trong thế giới trò chơi của chúng”. Có lẽ sự sáng tạo của trẻ con luôn mang tính chất ngẫu hứng và hồn nhiên. Sau này lớn lên, nhiều lần tôi làm bẫy én cho các em nhỏ chơi, nhưng cảm xúc không còn được như xưa, nó toan liệu và khôn vãnh hơn, phải cố tình làm sao để bẫy được thật nhiều én. Thế là cái bẫy én rườm rà dây chạc khiến con én sợ, không dám bay đến ăn mồi.

Hôm thằng Cưng làm bẫy, mấy đứa tôi ngồi quanh xem nó vót tre buộc chỉ, rồi về nhà làm theo. Con nít ở làng chơi với nhau và học nhau là chính, tất cả những trò chơi hay kinh nghiệm làm đồng đều thế cả, một đứa biết thì tất cả biết, không giữ riêng mình làm gì. Từ những trò chơi, tình bạn đã được thắt chặt thêm. Sau này lớn lên, dẫu mỗi đứa đi một phương thì vẫn luôn nhớ nhau, như thể còn nợ nhau những bài học thuở ấu thơ.

Làm xong bẫy và nơm mồi ruồi, chúng tôi mỗi đứa cầm theo độ dăm cái bẫy ra đồng, chia nhau vùng ruộng và cắm bẫy. Bẫy được cắm giữa đồng, để cái chặng mồi cao hơn ngọn lúa chừng một gang tay. Cắm xong thì kéo nhau vào trong ngõ đứng chờ. Én về ngang đồng thường bay sà sà thấp ngang mặt ngọn lúa để tìm mồi, phải đặt bẫy sao cho đánh lừa được chúng. Giữa một cánh đồng mênh mang lúa xanh, tự dưng nổi lên chấm đen con ruồi mồi, lũ én tranh nhau bay đến đớp và cái dây thòng lọng thắt lại. Có con én muốn chơi trội, bật mình lượn ngược một vòng tròn giữa không, thế là vô tình mắc bẫy.

Khi một con én mắc vào chiếc bẫy nào đó là cả lũ con nít lại réo toáng lên cùng nhau chạy ra xem. Tôi không sao quên được cảm giác đợi chờ hồi hộp khi cánh én lướt gần đến chiếc bẫy, sau này nhớ lại thấy hệt như cảm giác khi thấy bóng người thương đi qua ngõ, cứ muốn gặp lại sợ gặp rồi không biết xử sự sao. Thế nên mỗi khi có én mắc bẫy thì gỡ ra, chuyền tay nhau mỗi đứa nắm giữ một lúc như cầm lấy cái may mắn đầu năm, xong rồi thả cho chúng bay đi. Cánh én được trả tự do vút thẳng lên bay lượn mấy vòng mừng rỡ. Cũng nhờ sự độ lượng nhân ái ấy mà năm nào vào mùa xuân én cũng về nhiều. Bởi chúng quý con nít làng tôi, chúng biết lũ trẻ sẽ không nhẫn tâm giết hại nên chẳng ngại ngần lấy mình ra làm trò cùng vui. Trong dân gian, chim và người thường có sự hóa thân cho nhau. Ví như Eros - vị thần tình yêu trong thần thoại Hy Lạp có đôi cánh, cô Tấm trong cổ tích Việt hóa thành chim vàng anh. Đôi khi sự hóa thân ấy nhằm mang đến một điều báo ứng linh nhiệm. Hậu Hán thư dẫn chuyện chàng Dương Bảo đi chơi gặp con chim sẻ vàng bị con mặt cắt đánh rơi, chàng đem chăm sóc rồi thả ra cho sẻ bay về trời, đến tối có một chàng trai bưng bốn chiếc vòng vàng đến tạ ơn công cứu mạng. Sự độ lượng với chim không chỉ là tình yêu thiên nhiên mà còn thể hiện trách nhiệm với chính số mệnh của mình.

Những thằng Cưng, thằng Hụ, thằng Tí, con Xíu và tôi ngày ấy giờ lớn cả rồi. Tôi trở lại quê nhà, không tham vọng gì nhiều ngoài niềm hứng khởi được hòa mình vào cuộc sống thanh bình và nhấm nháp dư vị tuổi thơ. Vẫn cánh đồng làng của ngày hôm qua, hạt vẫn gieo mùa đợi nhận quà, én sẽ về qua bên xóm cũ, nhận lại tin yêu và khát vọng tự do.

Xưa cụ Tố Như lấy cái ý “ngày xuân con én đưa thoi” để ví thời gian đời người trôi nhanh. Còn tôi, mỗi lần nhớ về tuổi thơ thì cứ nghĩ chính trò bẫy én đã níu mùa xuân đi chậm lại một chút. Và tôi ngẫu hứng lẩy Kiều: Ngày xuân con én... thôi đưa.