Mắt lửa đêm áp Tết
Đó là thứ ánh sáng diệu kỳ được thắp lên trong những đêm cận kề Tết cổ truyền. Dĩ nhiên, không phải điều diệu kỳ nào cũng được khởi nguyên từ những thứ cao siêu, ví như ánh lửa mà tôi sắp kể ra đây được đốt lên từ những gì bình dị nhất, nhà quê nhất, thậm chí là đã phế bỏ đi nhưng vẫn có thể sáng. Cũng nhờ đó mà tôi biết rằng, ở đời này mọi thứ dù tầm thường đến đâu cũng có thể lung linh được, con người hay vật vô tri đều vậy.
Càng về cuối năm, trời đêm càng tối hơn. Chỉ cần một ánh lửa nhỏ nào đó cháy lên thì ngay lập tức bóng đen như vỡ tan đi. Trong ký ức tôi vẫn còn nhớ tiếng trẻ con hò reo khi nhìn thấy lửa đêm tháng Chạp. Thằng bạn gọi ánh lửa ấy là “mắt lửa” nhìn xuyên qua đêm. Nó nói cứ tới độ này thì tổ tiên về ăn Tết với gia đình, các ngài khai khẩn khai canh cũng về ăn Tết với làng, mắt lửa chính là mắt của hiện thân người đi trước. Trẻ con đứa nào cũng sợ ma, nhưng lại thích cái cách giải thích của thằng bạn, bởi tổ tiên mình dù mất đi rồi nhưng không phải là ma. Và những ánh mắt lửa trở nên ấm áp hơn bao giờ hết.
Bắt đầu từ giữa tháng Chạp, lũ trẻ chúng tôi đi tới mấy quán sửa xe đạp kiếm cái lốp và săm xe người ta bỏ đi, đem về giấu sau bụi chuối nương nhà, đến tối thì huýt sáo gọi nhau ra đồng làng. Chúng tôi dắt nhau men theo những chân ruộng ra tới giữa đồng, ở đây như một thung lũng lúa nhìn bốn phía đều có nhà người dân. Cắm một chiếc cọc tre cao tầm người, chúng tôi móc chiếc lốp xe lên đó rồi châm lửa đốt. Ánh lửa bắt đầu bén cháy, cả lũ trẻ nhảy nhót hò reo cháy rồi cháy rồi! Màn đêm đang đen đặc bỗng dưng lộ ra một đốm lửa phừng phừng lên, mắt lũ trẻ trong đêm cũng rói lên những niềm vuí. Một đứa cầm tấm tôn sắt mỏng, đứa kia cầm cái dùi tre gõ kêu thèng thèng như chiêng. Một đứa khác lại cầm cái hộp nhựa, rồi một đứa nữa cầm cái dùi đánh vào thùng thùng như trống. Tất cả đứng trên bờ ruộng, ánh lửa cháy rực lên soi sáng những khuôn mặt trẻ thơ. Cánh đồng như thể đang vào một mùa vũ hội cuối năm.
Lửa đốt lốp xe lan nhanh nhưng cháy rất chậm, chốc sau toan cái bánh xe đã đó cháy tạo thành một chiếc vòng lửa giữa đồng. Đứng xa nhìn thấy chiếc vòng như một con mắt lửa tròn trịa, ở giữa mắt là một cái tròng đen, xung quanh lửa hắt lên thành những sợi lông mi bằng lửa.
Bạn nói mình dùng lửa, dùng tiếng động của thùng của tôn, tiếng hò hét là để đánh thức cánh đồng làng trỗi dậy, đánh thức những cây lúa đừng ngủ quên mà hãy cố gắng cho hạt vào mùa tới. Trò chơi trẻ con ấy thành ra một thứ tín ngưỡng tuổi thơ rất đẹp và ý nghĩa.
Đêm nào không có lốp xe thì chúng tôi đan những con tít bằng rơm. Ở quê, cứ xong mùa nhà ai cũng có một đống rơm to và cao cỡ mái nhà, rơm này dùng làm chất đốt và cho trâu bò ăn vào mùa lạnh. Trẻ con chúng tôi chạy đi rút trộm rơm (nghe đâu trong tất cả các loại trộm thì trộm rơm không có tội). Hoặc mỗi đứa tự về rút rơm nhà minh để chơi, cái kiểu “ phá nhà” của người quê đến thế là cùng. Như Hoàng Cầm trong bài thơ Cây tam cúc có câu “rút trộm rơm nhà đi trải ổ’'. Mấy đứa tập hợp lại và bắt đầu bện tít. Đan tít rơm cũng gần như đàn bà đan tít tóc, tức là lấy từng nắm rơm rồi bện chéo qua lại cho nó thành ra một con tít to cỡ bắp chân, dài cở sải tay. Tít rơm cháy lên có khác với cái lốp xe là khói không khét mù mà thơm, khi cháy xong nó còn lại một cục than hồng bằng rơm đỏ ngòm. Nhét vào đó củ khoai thì lúc sau mùi vỏ khoai cháy ngậy lên thơm lừng, lấy khoai ra bốc chia nhau ăn.
Cánh đồng làng tôi những đêm tháng Chạp như đã biến thành một xứ sở nào đó thuộc về huyền thoại, có tiếng cười trẻ thơ, tiếng khua chiêng trống, có mùi thơm dân dã, và đặc biệt là có ánh lửa xoáy vào mắt trẻ thơ.
♦
Trong bếp nhà người quê, từ sau ngày Tết ông Táo luôn luôn có lửa, một ánh lửa khác hẳn. Cứ đến sáng ngày hai ba tháng Chạp thì mạ tôi mua về một tượng đất gạch nung có ba hình người dính liền nhau, đó là tượng ông đầu rau, hay còn gọi là thần bếp. Đến tối mạ thắp nhang, đặt bộ tượng vào trong bếp, từ hôm đó cho tới hết mấy ngày Tết thì bếp nhà tôi hầu như đỏ lửa suốt. Mạ nói mấy ông thần này mới về nên còn lạnh lắm, phải nấu nướng để các ông được ấm. Tôi biết là mạ nói đùa cho vui thôi, nhưng tôi nghĩ tục lệ giữ lửa đó thường xuyên trong dịp Tết là một nét đẹp của người Việt mình. Giữ lửa, ấy cũng chính là giữ gìn ánh sáng văn hóa dân tộc mãi mãi bền vững.
Càng gần đến Tết, mạ càng bận rộn hơn. Những buổi tối năm xưa. còn ánh đèn tù mù, tôi rất thích chạy xuống bếp ngồi chơi với mạ, xem mạ làm bánh thuẫn (bánh xoài), rim mứt gừng. Cái khuôn đồng đổ bánh thuẫn được đặt trên bếp than hồng, mỗi lượt bánh đổ được đúng mười hai cái. Đổ bánh thuẫn cần cảm tính nhạy để biết khi nào bánh vừa tới mà mở nắp ra, tức cái lúc mà phía dưới bánh vừa vàng rộm, phía trên bánh thì nứt vết chân chim. Bếp than đỏ rực hồng, trên cái nắp của khuôn bánh cũng được rải một lớp than mỏng để bánh chín đều. Hơi lửa than phả vào mặt ấm đến nóng ran, nhưng tôi vẫn thích dược ngồi xem mạ đổ bánh. Chốc chốc, mạ cho tôi một chiếc bánh nhủ ăn thử xem đã vừa ngọt chưa. Than dùng đổ bánh thuẫn phải là thứ than tốt, khi đỏ nó phát ra những tiếp kêu lép tép và lửa nhói lên những ánh sao ở các cạnh hòn than.
Đêm hai chín Tết, nhà tôi soạn lá chuối, nếp, nhân đậu để gói bánh. Đến khuya thì gói vừa xong, ông tôi kê lên ở góc vườn sau bếp ba hòn đá vuông, đặt cái thùng to lên trên, xếp bánh vào, đổ nước và bắt đầu nhen lửa ở dưới. Củi nấu bánh là các gốc tre già mà ông đã đào được từ đầu tháng Chạp và đem phơi khô. Ông nói nấu bánh phải bằng gốc tre này lửa mới đượm để bánh dẻo. Những hôm đó tôi hay thức cùng ông ngồi canh bánh. Góc vườn tối um, gió chỉ thoảng rất nhẹ. Tôi ngồi trong lòng ông nội, hai tay ông đưa ra khoác lấy thằng cháu. Trước mặt bếp lửa đang cháy đỏ, tôi cảm nhận mình được bọc giữa rất nhiều những nguồn ấm áp ngày Chạp, lửa và tình yêu thương. Hai ông cháu ngồi canh nồi bánh, rồi tôi ngủ thiếp đi trong vòng tay ông lúc nào chẳng hay. Cho tới khi mở mắt thì thấy ánh lửa phía trước ập vào mắt. Ngước đầu lên, ông vẫn thức, ông nhìn tôi cười, cả nụ cười của ông cũng như có thứ lửa hiền hậu và ấm áp không gì sánh được.
♦
Mâm cỗ giao thừa vừa cúng xong thì ông nội phát hỏa giấy vàng bạc và đồ hàng mã. Cúng những thứ này chỉ với ý nghĩa tượng trưng thôi chứ ông nội tôi không hề mê tín, không cho phép đốt nhiều. Tôi ôm mớ vàng bạc giấy áo ra trước sân nhà. Châm lửa, đống giấy bùng cháy sáng lên cả một vùng sân nhà. Trong khi đó, ông tôi ném muối hạt lên trên, lửa gặp muối càng cháy rực hơn, phát ra tiếng kêu lách tách.
Cấm đốt pháo đi rồi, những cái Tết sau đó có buồn hơn, nhưng ánh lửa đêm trừ tịch thì vẫn không tắt được. Nhang vẫn còn đỏ trên mâm cỗ giao thừa, mắt lửa đó nhìn xuyên qua năm mới với sự tin an và phước trưởng.
Những ánh mắt lửa từ trong thẳm sâu ký ức cứ mỗi độ Tết lại quay về nhìn tôi với niềm mong mỏi. Nhẽ nào lửa gọi tôi về ủ ấm tháng ngày hôm xưa.