← Quay lại trang sách

Chân Dung Một Người Vô Hình.

Trong hành trình tìm kiếm sự thật, hãy sẵn sàng với những điều không ngờ tới, vì sự thật rất khó tìm và khi đã tìm ra bạn cũng sẽ thấy thật khó hiểu. - HERACLITUS

Mới ngày nào còn sống đó. Một người, giả dụ đang ở đỉnh cao sức khỏe, thậm chí chưa già, chẳng có tiền sử bệnh tật gì. Mọi thứ vẫn như xưa, như lúc nào cũng vậy. Ông ta sống từ ngày này sang ngày khác, lo việc của mình, mơ về cuộc đời đang trải ra trước mắt. Thế rồi, đùng một cái, cái chết đến. Ông thở nhẹ một hơi, sụp xuống ghế của mình, và thế là chết. Sự đột ngột của cái chết chẳng để chỗ trống cho suy nghĩ, chẳng cho tâm trí cơ hội tìm kiếm từ ngữ nào để an ủi mình. Ta chẳng còn gì ngoài cái chết, một thực tế không thể thay đổi được trong sự vĩnh cửu của chính ta. Chúng ta cam chịu chấp nhận cái chết sau một quãng thời gian bệnh tật kéo dài. Thậm chí cái chết vì tai nạn cũng được cho là bởi số phận. Nhưng một người đàn ông chết mà chẳng rõ nguyên nhân, một người đàn ông chết chỉ vì ông ta là người, đưa ta đến thật gần với ranh giới vô hình giữa sống và chết mà ta chẳng còn biết mình đang ở bên nào. Sự sống trở thành cái chết, như thể cái chết đã luôn sở hữu sự sống ngay từ đầu. Chết không cảnh báo. Như thể có khẩu lệnh: Đời dừng. Và nó dừng bất cứ khi nào.

Tin về cái chết của cha đến với tôi ba tuần trước. Đó là một buổi sáng Chủ nhật, tôi đang trong bếp chuẩn bị bữa sáng cho cậu con trai nhỏ, Daniel. Trên lầu, vợ tôi vẫn ngủ, ấm áp dưới lớp chăn, tận hưởng thêm mấy tiếng ngủ nướng. Mùa đông ở vùng nông thôn: một thế giới im lặng, mùi khói gỗ, màu trắng. Tâm trí tôi đang ngổn ngang suy tư về đoạn mình vừa viết đêm qua, chỉ mong chờ đến chiều để quay lại với công việc. Rồi điện thoại đổ chuông. Tôi biết ngay là có sự không lành. Không ai gọi điện đến vào lúc tám giờ sáng Chủ nhật nếu không phải vì một tin tức không thể chờ đợi. Và tin mà không thể đợi thì lúc nào cũng là tin dữ.

Tôi không thể tập trung vào một ý nghĩ ra hồn nào.

Thậm chí trước khi đóng gói đồ đạc và khởi hành chuyến xe dài ba tiếng tới New Jersey, tôi biết mình phải viết về cha. Tôi chẳng có kế hoạch, chẳng có ý tưởng trước nào về chuyện này. Tôi thậm chí còn không thể nhớ mình đã quyết định thực hiện nó nữa. Nó cứ ở đó, là điều hiển nhiên, một nhiệm vụ choán lấy tôi từ khoảnh khắc tôi nhận được tin. Tôi nghĩ: Cha đi rồi. Nếu tôi không hành động nhanh lên, toàn bộ cuộc đời cha sẽ biến mất cùng ông.

Giờ nhìn lại chuyện ấy, thậm chí chỉ sau vỏn vẹn ba tuần lễ, tôi đã thấy đó là một cách phản ứng thật kỳ quặc. Tôi đã luôn tưởng tượng rằng cái chết sẽ khiến mình đờ ra, bất động trong nỗi đau đớn. Nhưng giờ chuyện đã xảy ra như vậy, tôi không rỏ giọt nước mắt nào, tôi không cảm thấy thế giới quanh mình đổ sụp. Theo một lối lạ lùng, tôi như đã chuẩn bị kỹ một cách đáng kinh ngạc cho cái chết này, bất chấp sự đột ngột. Điều khiến tôi phiền lòng là chuyện khác, không liên quan đến cái chết hay phản ứng của tôi trước chuyện ấy: đó chính là việc nhận ra cha mình chẳng để lại dấu vết nào.

Cha không có vợ, không gia đình ràng buộc, không đời ai phải xáo trộn khi ông ra đi. Một thoáng kinh ngạc, có thể, với mấy người bạn nhăn nheo, khóc sùi sụt vì lo sợ về một cái chết bất thường cũng nhiều bằng vì nỗi mất đi một người bạn, tiếp sau đó là một quãng nức nở ngắn, và rồi hết chuyện. Cuối cùng, cứ như thể cha chưa từng sống trên đời.

Thậm chí trước khi chết cha đã luôn vắng mặt, và từ lâu rồi những người gần gũi nhất với ông cũng đã học được cách chấp nhận sự vắng mặt ấy, coi đó là một giá trị cơ bản trong sự tồn tại của ông. Giờ ông đã đi, chuyện tiêu hóa được sự thật rằng ông ra đi mãi mãi cũng chẳng có gì khó khăn với thế giới. Thuộc tính tự nhiên trong cuộc sống của ông giúp thế giới chuẩn bị sẵn cho cái chết của ông – kiểu chết đã được dự báo – và nếu có lúc ông được nhớ đến, thì cũng chỉ theo cách nhòa nhạt, chỉ nhòa nhạt thế thôi.

Chẳng có chút đam mê, dù là với một đồ vật, một con người, hay một lý tưởng, không thể hoặc không muốn để lộ bản thân ra trong mọi tình huống, cha đã cố gắng giữ mình thật xa khỏi đời sống, để tránh phải dính dáng đến sự nhốn nháo của mọi điều. Ông ăn, đi làm, có bạn bè, chơi quần vợt, và với tất cả những thứ đó ông cũng chẳng có mặt. Theo nghĩa sâu xa, bất di bất dịch nhất, ông là một kẻ vô hình. Vô hình với những người khác, và hầu như cũng vô hình với chính mình. Nếu, khi cha còn sống, tôi đã phải liên tục đi tìm ông, tìm người cha vắng mặt, thì giờ khi ông đã chết, tôi cảm thấy như mình vẫn phải tiếp tục đi tìm. Cái chết không thay đổi gì cả. Sự khác biệt duy nhất là hiện giờ thời gian của tôi đã cạn.

***

Trong suốt mười lăm năm, cha đã sống một mình. Lầm lì, mờ đục, như đã miễn nhiễm với thế giới. Ông không giống một con người chiếm chỗ trong không gian, mà như một khối không gian hình người không thể xuyên qua. Mọi điều nảy bật khỏi ông, vỡ tan khi đập vào ông, cũng có lúc chúng dính được vào ông – nhưng chúng không bao giờ xuyên qua nổi. Suốt mười lăm năm, ông ở lì trong tòa nhà khổng lồ, chỉ một thân một mình, và trong chính ngôi nhà đó ông đã chết.

Trong một quãng thời gian ngắn, cả gia đình chúng tôi đã sống ở đó – cha, mẹ, em gái và tôi. Sau khi cha mẹ tôi ly dị, mọi người ly tán hết: mẹ tôi bắt đầu cuộc sống mới, tôi đi học đại học và em gái tôi ở cùng mẹ cho đến lượt nó cũng đi học. Chỉ cha tôi ở lại. Bởi một điều khoản trong thỏa thuận ly hôn chỉ ra rằng mẹ tôi vẫn sở hữu một phần ngôi nhà và được chia nửa số tiền nếu nhà được bán (điều khiến cha không muốn bán), hoặc vì muốn thầm lặng từ chối sự thay đổi (như thể chỉ ra cho thiên hạ thấy vụ ly dị chẳng hề tác động lên ông theo cách mà ông không kiểm soát được), hoặc đơn giản là vì thói trì trệ, một cơn mê xúc cảm khiến ông chẳng muốn làm bất cứ điều gì, ông cứ ở đó, sống một mình trong ngôi nhà đủ tiện nghi cho sáu, bảy người.

Đó là một tòa nhà ấn tượng: cổ kính, kiên cố, theo phong cách Tudor, với cửa sổ khung chì, mái lợp đá phiến và những căn phòng thuộc tầm vương giả. Việc mua tòa nhà là một bước đi lớn với cha mẹ tôi, là dấu hiệu của việc giàu lên. Đây là khu tốt nhất trong thành phố, và dù không hẳn là một chốn dễ chịu để sinh sống (nhất là cho trẻ con), vẻ đồ sộ đã át đi sự trầm uất của nó. Sự thật là cha đã cuộn mình thật kỹ ở tòa nhà ấy trong toàn bộ phần còn lại của cuộc đời quả là một chuyện mỉa mai vì thoạt đầu ông khăng khăng không chịu chuyển đến đó. Ông than phiền về giá cả (một chủ đề bàn đi nói lại), và khi cuối cùng ông đồng ý, thì đó cũng là một chuyện bi hài kịch. Mặc dù vậy, ông trả bằng tiền mặt. Toàn bộ trong một lần. Không thế nợ, không trả góp hàng tháng. Đó là năm 1959, thời ông còn làm ăn phát đạt.

Lúc nào cũng là người hành động theo thói quen, cha đi làm từ sáng sớm, miệt mài cả ngày, và rồi, khi trở về nhà (vào những ngày cha không về muộn), cha đánh một giấc ngắn trước bữa tối. Một lần trong tuần đầu tiên chúng tôi ở nhà mới, trước khi chúng tôi thực sự chuyển hết đồ đạc vào, cha đã phạm phải một sai lầm ngớ ngẩn. Thay vì lái xe về nhà mới sau ngày làm việc, cha đi thẳng về tòa nhà cũ, như vẫn làm suốt nhiều năm, đậu xe vào lối, đi vào nhà qua lối cửa hậu, bước lên cầu thang, vào phòng ngủ, nằm ra giường và ngủ luôn. Cha ngủ chừng một giờ đồng hồ. Chẳng cần phải bàn, khi nữ chủ nhân của ngôi nhà trở về và thấy một gã đàn ông lạ ngủ trên giường, bà ta đã có chút kinh ngạc. Thế nhưng không như nhân vật Goldilocks, cha tôi không nhảy bật dậy và bỏ chạy. Vụ nhầm lẫn cuối cùng đã được giải thích, và tất cả mọi người được một bữa cười ra trò. Thậm chí giờ đây, chuyện ấy vẫn làm tôi cười. Và nữa, với tất cả những chi tiết ấy, tôi không thể không nhắc đến nó như một câu chuyện đáng thương tội nghiệp. Việc người đàn ông nhầm lẫn lái xe thẳng về ngôi nhà cũ chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng tôi thấy cái đáng kinh ngạc là ông không hề nhận ra mọi thứ trong nhà đã thay đổi. Thậm chí một tâm trí mệt mỏi và mông lung nhất cũng phải có một góc phản ứng thuần chất động vật, và có thể báo hiệu cho cơ thể biết nó đang ở đâu. Chỉ có kẻ nào gần như bị hôn mê mới không thấy, hoặc ít nhất, không cảm thấy, rằng ngôi nhà không còn như xưa nữa. “Thói quen,” như một nhân vật của Beckett từng nói, “là một kẻ u mê.” Và nếu tâm trí không còn có thể phản ứng với những dấu hiệu vật chất, thì nó sẽ thế nào khi đối mặt với những dấu hiệu của tinh thần?

* * *

Trong suốt mười lăm năm qua cha hầu như chẳng thay đổi thứ gì trong tòa nhà. Cha không lắp đặt thêm món nội thất nào, cũng chẳng lấy bớt ra món nội thất nào. Các bức tường vẫn có nguyên màu ấy, nồi niêu xoong chảo không hề được thay thế, thậm chí cả váy vóc của mẹ tôi cũng chẳng bị vứt đi – chỉ bị nhét vào trong ngăn kéo tầng áp mái. Kích cỡ của tòa nhà đã bào chữa cho việc cha không đưa ra quyết định gì về những thứ nó chứa. Không phải là vì cha bám lấy quá khứ, cố gắng bảo quản tòa nhà như một bảo tàng. Trái lại, cha dường như chẳng hề biết mình đang làm gì. Sự trì trệ phủ trùm lấy ông, không phải ký ức, và cho dù cha đã sống ở ngôi nhà đó suốt từng đó năm, ông cũng chỉ sống như một kẻ xa lạ ghé qua mà thôi. Mỗi năm trôi qua, cha ngày càng dành ít thời gian ở đó. Cha hầu như chỉ ăn ở các nhà hàng, sắp xếp lịch làm việc sao cho đêm nào cũng bận, và sử dụng tòa nhà còn ít hơn cả một nơi để ngủ. Một lần nọ, nhiều năm trước, tôi tình cờ nhắc đến chuyện đã kiếm được bao nhiêu tiền từ việc viết lách và dịch dọt trong những năm vừa qua (cũng chẳng nhiều nhặn cho lắm theo bất cứ tiêu chuẩn nào, nhưng nhiều hơn mức tôi đã kiếm ra trước đó), và lời đáp mỉa mai của cha là ông còn tốn nhiều hơn thế cho việc đi ăn ngoài. Điểm chính là: cuộc đời cha không quanh quẩn ở nơi cha sống. Nhà chỉ là một trong nhiều chốn cha ghé qua trong chuỗi tồn tại không thả neo, không ngừng nghỉ của ông, và việc thiếu đi một trọng tâm đã đẩy tới việc cha bị biến thành một kẻ ngoài cuộc vĩnh viễn, một vị khách trong chính cuộc đời mình. Bạn không bao giờ có thể cảm nhận được rằng cha đang dừng ở đâu.

Tuy vậy, ngôi nhà vẫn quan trọng với tôi, nếu chỉ giới hạn trong việc nó đã bị bỏ mặc – một biểu hiện cho thấy trạng thái tinh thần đã, thêm một điều khó hiểu khác, tự động vẽ ra các hình ảnh cụ thể trong sự vô thức. Ngôi nhà trở thành ẩn dụ cho cuộc đời cha tôi, là sự phơi bày chính xác và trung thành cho thế giới nội tâm của ông. Cho dù cha đã giữ cho ngôi nhà sạch sẽ và bảo quản nó y như cũ thì dù ít dù nhiều, nó vẫn trải qua một quá trình phân rã chầm chậm không tránh khỏi. Cha ngăn nắp, cha luôn đặt mọi thứ vào chỗ cần để, nhưng chẳng có gì được chăm sóc tới, chẳng có gì được dọn rửa. Nội thất, đặc biệt là trong những căn phòng cha hiếm khi ghé qua, phủ đầy bụi, mạng nhện, dấu hiệu của việc bị quên lãng hoàn toàn; lò nướng không thể cứu vãn bởi cặn của những thứ thức ăn đã cháy thành than; trong tủ chén, đôi khi mòn mỏi trên những chiếc kệ suốt nhiều năm là: những túi bột đã bị mọt ăn, bánh quy đã mốc, từng túi đường đã vón cục, những hũ xi-rô không còn có thể mở nắp. Mỗi khi tự nấu nướng, cha sẽ cần mẫn và ngay tức thì rửa chén bát – nhưng chỉ xoa xoa chúng, chẳng bao giờ dùng đến xà phòng, thế nên từng chiếc cốc, từng chiếc tách, từng chiếc đĩa đều đóng một lớp màng nhớp nhúa. Suốt cả tòa nhà, những chiếc mành cửa lúc nào cũng đóng kín đã đi đến nông nỗi chỉ việc kéo nhẹ thôi cũng khiến chúng rách toạc. Ống nước rò rỉ và làm gỉ ố hết cả đồ đạc, lò sưởi không bao giờ tạo đủ hơi ấm, vòi hoa sen không hoạt động. Tòa nhà trở nên tiều tụy và trầm uất khiến chẳng ai muốn bước vào. Bạn có cảm giác như mình vừa bước vào nhà của một kẻ mù lòa.

Bạn bè và gia đình cha, cảm nhận được sự điên rồ trong cách ông sinh sống tại tòa nhà đó, liên tục thúc giục ông bán nhà chuyển đi nơi khác. Thế nhưng ông luôn tìm cách gạt phắt họ đi với thái độ lập lờ “Ở đây tôi thấy hạnh phúc,” hoặc “Ngôi nhà hợp với tôi.” Tuy nhiên, cuối cùng thì cha cũng chịu đi. Vào đúng phút cuối. Trong cuộc trò chuyện qua điện thoại cuối cùng mà chúng tôi có, mười ngày trước khi cha qua đời, ông nói nhà đã được bán và việc chuyển đi sẽ diễn ra vào ngày mùng một tháng Hai, còn khoảng ba tuần nữa. Cha muốn biết tôi có sử dụng được món nào trong nhà không, và tôi đồng ý sẽ ghé qua cùng vợ và Daniel ngay khi có một ngày rỗi rãi. Cha mất trước khi chúng tôi có cơ hội làm điều đó.

* * *

Tôi đã hiểu được rằng chẳng có gì khủng khiếp hơn việc phải đối mặt với đồ đạc của một người đã chết. Đã thành sự bất biến: chúng chỉ có ý nghĩa trong cuộc đời đã dùng tới chúng. Khi cuộc đời đó hết, mọi điều thay đổi, cho dù chúng vẫn y như cũ. Chúng ở đó mà cũng không ở đó: những bóng ma hữu hình, bị mắc kẹt lại trong thế giới mà chúng chẳng còn thuộc về. Thứ để lo đến, chẳng hạn, là một tủ đầy quần áo lặng lẽ chờ người đàn ông sẽ chẳng bao giờ mở cửa trở về mặc lại chúng ư? Hay một trong những gói bao cao su nằm chen giữa những ngăn kéo đầy ắp đồ lót và tất vớ? Hay một chiếc máy cạo râu chạy điện nằm trong phòng tắm, vẫn còn ken đầy vụn râu từ lần cạo cuối cùng? Hay cả tá lọ nhuộm tóc rỗng được giấu kín trong những chiếc va-li du lịch? – đột nhiên phơi bày ra những thứ người ta không mong muốn nhìn thấy, không mong muốn được biết. Có chút xót xa trong đó, và có cả chút gì đó rùng rợn. Tự thân chúng chẳng có ý nghĩa gì, như mấy thứ dụng cụ nấu ăn từ một nền văn minh đã biến mất. Nhưng chúng cũng nói lên điều gì đó với chúng ta, sờ sờ ở kia không phải là những đồ vật mà là những mảnh sót lại của ý nghĩ, của ý thức, tượng trưng cho sự trơ trọi của một người đàn ông đã tự đưa ra quyết định cho bản thân: hoặc là nhuộm tóc, hoặc là mặc chiếc áo kia, hoặc là sống, hoặc là chết. Và sự phù phiếm của tất cả những thứ từng ở đó là cái chết.

Mỗi khi tôi mở một ngăn kéo hoặc cụng đầu vào một chiếc tủ, tôi lại thấy mình như kẻ đột nhập, như tên trộm đang xới tung những góc bí mật trong tâm trí một con người. Tôi cứ mong cha mình bước vào, nhìn chằm chằm vào tôi với vẻ không tin nổi, và hỏi tôi nghĩ mình đang làm cái quái gì vậy. Việc cha không thể phản đối dường như không công bằng lắm. Tôi không có quyền xâm nhập vào chốn riêng tư của ông.

Một số điện thoại được ghi vội vàng nguệch ngoạc trên một tấm danh thiếp có ghi chú rằng: H. Limeburg - Thùng rác các loại. Những tấm ảnh chụp cha mẹ trong tuần trăng mật ở thác Niagara, năm 1946: mẹ căng thẳng ngồi trên lưng con bò để chụp những tấm ảnh hài hước chẳng bao giờ gây buồn cười, và một cảnh bất chợt phi thực về thế giới, thậm chí từ thời tiền sử. Một tủ đầy búa, đinh, và hơn hai chục cái tua-vít. Một giá chất đầy những tấm séc đã bị hủy bỏ từ năm 1953 và những tấm thiệp tôi nhận được hồi sinh nhật sáu tuổi. Và rồi, bị vùi dưới đáy chiếc ngăn kéo trong phòng tắm: chiếc bàn chải đơn sắc từng thuộc về mẹ và chưa hề được chạm hay ngó ngàng đến trong suốt mười lăm năm.

Danh sách ấy dài dằng dặc.

* * *

Chẳng mấy chốc mọi sự đã nói rõ với tôi rằng cha hầu như chẳng chuẩn bị gì cho việc chuyển nhà. Dấu hiệu duy nhất của việc buộc phải chuyển đi mà tôi có thể tìm thấy trong cả tòa nhà là một vài thùng sách – toàn sách vớ vẩn (bản đồ đã lỗi thời, sách giới thiệu các món đồ điện từ năm mươi năm trước, một cuốn ngữ pháp Latin cho học sinh trung học, sách luật cổ đại) mà cha định đem quyên góp. Ngoài ra thì chẳng còn gì nữa. Chẳng có chiếc hộp trống nào chờ được xếp đầy. Không mảnh nội thất nào được bán hay cho. Không có lời bàn bạc nào với công ty chuyển nhà. Như thể cha không tài nào đối mặt với chuyện ấy. Thay vì dọn trống tòa nhà, cha chỉ đơn giản thả cho mình chết. Cái chết là một lối thoát, lối thoát hợp lẽ duy nhất.

Tuy nhiên, chẳng có lối thoát nào cho tôi. Mọi việc phải dàn xếp cho xong, không ai lo việc đó hộ cả. Trong mười ngày tôi đảo qua đồ đạc của cha, dọn sạch đồ khỏi tòa nhà, chuẩn bị chỗ sẵn sàng cho chủ mới. Đó là quãng thời gian khốn khổ, nhưng cũng là một quãng thời gian hài hước một cách kỳ quặc, quãng thời gian của những quyết định liều lĩnh và lố bịch: bán đi, quẳng ra, cho luôn. Vợ tôi và tôi mua một máng trượt lớn bằng gỗ cho bé Daniel mười tám tháng tuổi và đặt giữa phòng khách. Thằng bé phát rồ lên trong sự hỗn loạn: lục lọi giữa đống đồ, đội chụp đèn lên đầu, quăng phỉnh đánh bạc ra khắp nhà, chạy nhảy qua khoảng không mênh mông của những căn phòng cuối cùng cũng được dọn trống. Hàng đêm tôi và vợ nằm dưới những cái chăn cứng như đá tảng xem mấy bộ phim dấm dớ trên truyền hình. Cho đến khi, ngay cả ti-vi, cũng được đem cho nốt. Máy sưởi gặp vấn đề lớn và nếu tôi quên không đổ nước vào thì nó sẽ tự tắt. Một buổi sáng chúng tôi tỉnh dậy và nhận ra nhiệt độ trong nhà giảm xuống chỉ còn bốn độ. Chuông điện thoại đổ hai chục lần mỗi ngày, và cũng hai chục lần tôi phải nói cho ai đó nghe rằng cha tôi đã chết. Tôi nghiễm nhiên trở thành tay buôn nội thất, thợ vận chuyển, người báo tin dữ.

* * *

Tòa nhà bắt đầu biến hình thành sân khấu cho một vở hài kịch nhàm chán về thói đời. Họ hàng chạy vù vào, hỏi xin món đồ này, bộ đồ bếp kia, thử áo vét của cha, lục tung thùng hộp, bàn bạc om sòm như bầy ngỗng. Hội bán đấu giá đến định giá các món hàng (“Chẳng có gì được phủ bọc, chẳng đáng một xu nữa rồi”), hỉnh mũi lên, và bước ra. Đám dọn dẹp rầm rập tiến vào trong đôi ủng nặng nề và lôi đi cả núi rác. Ông quản lý nước đến đọc đồng hồ nước, ông quản lý ga đến đọc đồng hồ ga, ông quản lý dầu đến đọc máy đo dầu. (Một trong số họ, tôi quên mất là ai rồi, kẻ đã bị cha tôi gây ra khối phiền hà rắc rối suốt nhiều năm, nói với tôi trong bộ dạng đồng lõa trắng trợn, “Tôi không thích phải nói điều này” – nghĩa là ông ta thích – “nhưng cha anh là một lão khốn kiếp đáng ghê tởm.”) Người môi giới nhà đất đến để mua lại vài món nội thất cho chủ mới và rốt cuộc thì lấy được một cái gương cho bản thân. Một bà chủ tiệm đồ cổ mua lại mấy chiếc mũ cũ của mẹ tôi. Một gã đồng nát đến với đội tay sai (bốn người da đen tên là Luther, Ulysses, Tommy Pride, và Joe Sapp) và chất lên xe đẩy tất cả mọi thứ từ bộ tạ thể hình cho đến cái lò nướng bánh mì hỏng. Khi đã xếp đặt xong, chẳng còn gì sót lại. Thậm chí không có một tấm bưu ảnh. Thậm chí không một ý nghĩ.

Nếu phải nói đến khoảnh khắc tồi tệ nhất đối với tôi trong những ngày ấy thì đó là khi tôi bước qua bãi cỏ trước nhà trong cơn mưa như trút để tống một ôm đầy cà-vạt của cha vào phía sau chiếc xe Hội Từ Thiện. Phải có đến hơn một trăm chiếc cà-vạt, và nhiều cái tôi thấy từ thuở thơ ấu: hoa văn, màu sắc, kiểu dáng đã hằn sâu những nhận thức đầu đời, rõ ràng như khuôn mặt của cha vậy. Nhìn thấy bản thân mình quẳng chúng đi chẳng khác gì một đống rác quả là một điều vượt quá mức chịu đựng, và đúng là như thế, vào ngay khoảnh khắc tôi thảy chúng vào chiếc xe, tôi đã đi đến ngưỡng gần nhất với sự khóc. Còn hơn cả việc nhìn thấy cỗ quan tài hạ xuống dưới huyệt, hành động vứt bỏ những chiếc cà-vạt ấy trong mắt tôi mới là hiện thân cho khái niệm chôn vùi. Tôi cuối cùng cũng hiểu ra cha mình đã chết.

* * *

Ngày hôm qua, một đứa trẻ con nhà hàng xóm đã tới đây chơi với Daniel. Một cô bé chừng ba tuổi rưỡi gần đây mới khám phá ra là người lớn cũng có thời là trẻ con, và thậm chí chính cha mẹ của cô cũng có cha mẹ. Có một lúc, cô bé nhấc ống nghe điện thoại lên và tiến hành một cuộc trò chuyện tưởng tượng, rồi quay sang tôi nói, “Chú Paul, là cha của chú. Ông muốn nói chuyện với chú.” Thật là kinh hoàng, tôi chợt nghĩ: có một con ma ở đầu dây bên kia, và ông ta thực sự rất muốn nói chuyện với tôi. Phải mất một lúc tôi mới có thể đáp. “Không,” cuối cùng tôi cũng lắp bắp thành câu. “Không thể là cha chú được. Hôm nay ông không gọi điện được đâu. Ông ở nơi khác rồi.”

Tôi đợi đến khi cô bé đặt ống nghe xuống và bước ra khỏi phòng.

* * *

Trong chiếc tủ ở phòng ngủ của cha, tôi tìm được hàng trăm tấm ảnh – được cất giấu kỹ trong trong những phong bì làm từ xơ chuối đã bạc màu, dán lên các tấm giấy đen của những album đã bong sờn, nhồi nhét bừa bãi trong các ngăn kéo. Nhìn vào cách mà chúng được cất đi, tôi đoán ra cha chẳng bao giờ ngó ngàng đến chúng, hay thậm chí còn quên bẵng là chúng ở đó. Một cuốn album cực lớn, bọc bằng vải da hảo hạng với hàng chữ khắc bằng vàng trên bìa – Đây là Cuộc đời chúng ta: Nhà Auster – hoàn toàn chẳng có gì bên trong. Ai đó, có thể là mẹ tôi, đã có lúc vất vả cực nhọc đặt làm album này, nhưng chẳng buồn bận tâm lấp đầy nó.

Lúc trở về nhà, tôi đắm đuối với những tấm ảnh đó cùng một sự say mê gần như điên dại. Tôi thấy chúng bất khả cưỡng lại, quý giá, sánh ngang hàng với những thánh tích thiêng liêng. Dường như chúng có thể kể cho tôi nghe những điều tôi chưa từng được biết, hé lộ những bí mật bị giấu kín trước đây, và tôi nghiên cứu tỉ mẩn từng tấm ảnh một, nắm bắt lấy từng chi tiết, từng bóng dáng không thể nhận diện, cho đến khi tất cả những tấm ảnh trở thành một phần của mình. Tôi không muốn điều gì lạc mất.

Cái chết kéo thân xác của một con người ra khỏi anh ta. Trong sự sống, một con người và thân xác anh ta hợp nhất; trong cái chết, đây là người đó và kia là thân xác của anh ta. Chúng ta vẫn bảo, “Đây là thi thể của X,” như thể thân xác này, thứ vốn từng chính là con người ấy, không phải là hiện thân hay thuộc về anh ta, mà chính là con người có tên là X, đột nhiên chẳng còn gì quan trọng nữa. Khi một người bước vào phòng và bạn bắt tay anh ta, hay bắt tay với thân xác của anh ta, tức là bạn đang bắt tay với chính anh ta. Cái chết thay đổi điều ấy. Đây là thi thể của X, chứ không phải đây là X. Cách diễn đạt đã hoàn toàn khác biệt. Giờ chúng ta đang nói về hai thứ chứ không phải một, ngụ ý rằng người đàn ông vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng chỉ là ở dạng một ý niệm, một tập hợp của những hình ảnh và ký ức trong tâm trí của kẻ khác. Còn về phần thân xác, chẳng có ý nghĩa gì hơn thịt và xương, một khối vật chất thuần túy.

Việc phát hiện ra những tấm ảnh ấy có ý nghĩa quan trọng với tôi bởi chúng dường như đã xác nhận thêm lần nữa cho sự tồn tại về mặt vật chất của cha trong thế giới này, cho tôi được mộng tưởng rằng cha vẫn còn đây. Thực tế là nhiều tấm ảnh trong số ấy tôi chưa từng được nhìn thấy, đặc biệt là những tấm ảnh từ thời cha còn trẻ, cho tôi cái cảm giác lạ lùng là được gặp ông lần đầu tiên, rằng một phần của ông chỉ mới trong đoạn khởi nguyên của sự tồn tại. Tôi đã mất cha. Nhưng cùng lúc đó, tôi đã tìm thấy ông. Miễn là tôi còn giữ những tấm ảnh ấy trước mắt mình, miễn là tôi còn nghiên cứu chúng với sự tập trung tuyệt đối, thì dường như ông vẫn còn sống, thậm chí trong cái chết của mình. Hoặc nếu không sống, thì cũng không chết. Hoặc hơn thế nữa, nghe có vẻ siêu nhiên, ông đang bị khóa lại trong một vũ trụ chẳng hề có cái chết, nơi mà cái chết chẳng bao giờ xâm nhập nổi.

* * *

Hầu hết những tấm ảnh ấy chẳng nói cho tôi nghe được điều gì mới, nhưng chúng giúp tôi lấp đầy những khoảng đứt gãy, khẳng định lại những ấn tượng, cung cấp bằng chứng mà trước kia chưa từng có. Chẳng hạn như một loạt ảnh chụp thời cha còn là một gã độc thân, có thể đã được chụp trong nhiều năm, đã cho ra một bản miêu tả chính xác về những phương diện tính cách đã bị chìm khuất đi trong những năm tháng hôn nhân, một khuôn mặt của cha mà tôi chỉ bắt đầu nhìn thấy sau khi cha ly dị: cha là một kẻ ưa đùa cợt, dân chơi đô thị, cái đinh của bữa tiệc. Hết tấm ảnh này đến tấm ảnh khác cha đứng với nhiều phụ nữ, thường là hai hoặc ba người, tất cả họ đều có kiểu tạo dáng rất hoạt họa, cánh tay họ có thể đang quàng lên nhau, hoặc hai trong số họ ngồi trong lòng cha, hoặc là một nụ hôn gió chẳng hướng tới ai ngoài người chụp ảnh. Hậu cảnh: một ngọn núi, một sân quần vợt, có thể là một bể bơi hoặc một căn nhà gỗ. Có những tấm ảnh được mang về sau những cuộc ngao du dịp cuối tuần đến nhiều khu nghỉ dưỡng khác nhau ở Catskill cùng với những ông bạn độc thân khác: chơi quần vợt, vui vẻ với các cô nàng. Cha đã sống như vậy cho đến tuổi ba mươi tư.

Đó là cuộc đời phù hợp với cha, và tôi có thể hiểu tại sao cha quay về với lối sống ấy sau khi hôn nhân tan vỡ. Với một người đàn ông chỉ thấy đời đáng chịu đựng bằng cách trôi nổi trên bể mặt của chính mình, thì việc ông hài lòng khi chỉ cho thiên hạ nhìn thấy bề nổi của mình cũng là lẽ tự nhiên. Chỉ tiêu thì ít ỏi và sự ràng buộc không hề tồn tại. Hôn nhân, trái lại, đã đóng sập cánh cửa. Sự tồn tại của bạn bó lại trong một không gian hẹp mà bạn phải không ngừng để lộ bản thân – và vì thế, không ngừng bị cưỡng chế phải nhìn vào bản thân, xem xét thế giới sâu hút của riêng mình. Khi cánh cửa được mở ra thì chẳng bao giờ tồn tại vấn đề gì cả: bạn luôn có thể chạy trốn. Bạn có thể tránh những xung đột không mong muốn, dù là với chính mình hay kẻ khác, chỉ đơn giản bằng cách bỏ đi.

Khả năng lẩn tránh của cha là vô tận. Bởi lãnh địa của những kẻ khác là phi thực với cha, thế nên việc xâm nhập vào lãnh địa ấy cũng được thực hiện bằng cái phần mà cha tự thấy là phi thực không kém, một phần bản thể mà cha đã huấn luyện thành một diễn viên đóng vai mình trong vở hài kịch trống rỗng của toàn thể thế giới. Cái phần bản thể đại diện ấy về bản chất là sự bỡn cợt, một đứa trẻ mắc chứng tăng động, một kẻ chuyên bịa ra những chuyện khó tin. Không có gì có thể coi là nghiêm túc cả.

Bởi chẳng có gì thực sự đáng kể, cha tự cho phép bản thân tự do làm bất cứ điều gì mình muốn (lẻn vào câu lạc bộ, đóng giả chuyên gia phê bình ẩm thực để được một bữa miễn phí), và vẻ quyến rũ mà ông đã luyện để thu phục lòng người chính là thứ khiến cho sự thu phục ấy trở thành vô nghĩa lý. Theo kiểu phù phiếm của đàn bà, cha giấu tuổi thật, bịa ra những mẩu chuyện về hoạt động làm ăn, nói vòng vo về bản thân – từ ngôi thứ ba, như thể về một kẻ cha quen biết (“Có một người bạn của tôi gặp vấn đề này; anh nghĩ xem anh ấy nên làm gì?…”). Mỗi khi tình huống trở nên ngặt nghèo, mỗi khi bị dồn sát đến bước đường phải hé lộ bản thân, cha sẽ lách qua bằng cách nói dối. Cuối cùng, sự dối trá trở thành quán tính và được phép thả phanh vì lợi ích của chính nó. Nguyên tắc là nói càng ít càng tốt. Nếu mọi người không bao giờ biết sự thật về cha, họ sẽ không thể trả đòn và đem chúng tấn công ông. Dối trá là một cách mua sự phòng vệ. Bởi vậy thứ mà mọi người nhìn thấy khi cha xuất hiện trước mặt họ không thực sự là ông, mà là con người ông đã tạo ra, một sinh vật nhân tạo mà ông có thể thao túng nhằm mục đích thao túng kẻ khác. Còn chính bản thân ông lại được nguyên dạng vô hình, một kẻ chơi rối tung hứng mấy sợi dây điều khiển bản thể phân đôi kia từ chốn đơn độc, tối tăm phía sau tấm mành.

Trong mười, mười hai năm cuối đời, cha có một bà bạn gái cố định, và đó là người phụ nữ đi cùng ông trong các sự kiện xã hội, kẻ đóng vai người đồng hành chính thức. Lúc này lúc khác cũng đã có vài lời bâng quơ về đám cưới (với sự nài nỉ của bà), và tất cả mọi người đều cho rằng đó là người phụ nữ duy nhất cha dính dáng đến. Tuy nhiên, sau khi cha chết, những người đàn bà khác bắt đầu bước ra ánh sáng. Người này đã yêu ông, kẻ kia đã sùng bái ông, kẻ khác nữa thì sẽ cưới ông. Bà bạn gái chính thức bàng hoàng khi biết về những người phụ nữ ấy: cha tôi chưa bao giờ hé môi nửa lời về họ với bà. Mỗi người đều được cha cấp cho một tuyến đời, và ai cũng tưởng họ đã chiếm trọn được ông. Thế rồi hóa ra, chẳng ai biết được chút ít nào về ông cả. Cha đã xoay xở để lẩn tránh được tất cả họ.

* * *

Cô độc. Nhưng không phải ở trạng thái cô đơn. Không cô độc theo cách của Thoreau[1], đày ải bản thân để khám phá xem mình đang ở đâu; không cô độc theo cách của Jonah[2], khẩn cầu được giải thoát khỏi bụng của con cá voi. Cô độc theo lối thoái lui. Theo lối không phải nhìn thấy bản thân, hoặc không phải nhìn thấy mình bị bất kỳ kẻ nào trông thấy.

Nói chuyện với cha là một trải nghiệm của sự nỗ lực. Cho dù ông vắng mặt, như ông vẫn thường như vậy, hay tra tấn bạn bằng một tiếng cười khô khốc, một dạng thức khác của sự vắng mặt. Việc ấy giống như bạn đang cố gắng giúp một cụ già lẩn thẩn hiểu bạn vậy. Bạn cứ nói, và cha, không chút thái độ phản ứng nào, hoặc một thái độ chẳng liên quan gì cả, cho thấy cha chẳng hề bước theo cùng dòng chảy từ ngữ của bạn. Trong vài năm gần đây, mỗi khi nói chuyện với cha qua điện thoại tôi lại thấy mình nói nhiều hơn thường lệ, tôi trở nên luyên thuyên hằn học, nói năng liên hồi trong nỗ lực tuyệt vọng giành được sự chú ý, để khích lên một chút phản ứng từ người ở đầu dây bên kia. Rốt cuộc, tôi luôn cảm thấy mình thật ê chề khi phải cố gắng quá mức.

Cha không hút thuốc, cha không uống rượu. Chẳng thèm muốn khoái lạc tình dục, không khao khát khoái lạc trí tuệ. Sách làm cha phát chán, và hiếm lắm mới có một bộ phim hay vở kịch nào mà cha không ngủ quên giữa chừng. Thậm chí lúc tiệc tùng bạn cũng thấy cha phải gắng gượng giữ cho mắt mở, và đa phần là cha bỏ cuộc, ngủ thiếp đi trên chiếc ghế khi người ta vẫn quay cuồng trò chuyện xung quanh. Một người sống chẳng cần hương vị. Bạn cảm thấy như chẳng điều gì có thể xâm nhập vào ông, rằng cha chẳng còn tha thiết gì với những điều mà thế giới này mang lại nữa.

* * *

Ba mươi tư tuổi, kết hôn. Năm mươi hai tuổi, ly dị. Ở một mặt, cuộc hôn nhân kéo dài nhiều năm, nhưng trên thực tế nó chỉ diễn ra trong vài ngày. Cha chưa bao giờ là một người đàn ông đã có gia đình, cũng chẳng phải là một người đàn ông đã ly dị, mà cả đời chỉ là một gã độc thân bất chợt có lúc giải lao là hôn nhân. Cho dù cha không hề trốn tránh trách nhiệm bề ngoài của một người chồng (ông chung thủy, chu cấp đầy đủ cho vợ con, gánh vác tất cả trách nhiệm), nhưng sự thật rõ ràng là cha không được sinh ra để đóng vai trò ấy. Cha đơn giản là chẳng có chút năng khiếu gì cho việc đó cả.

Mẹ tôi chỉ mới hai mươi mốt tuổi khi kết hôn với cha. Thành quả của cha trong mấy ngày tán tỉnh ngắn ngủi thật là giản dị. Không chút đề nghị táo bạo, không lần nào trỗi dậy cơn ghì riết đến nghẹt thở của đàn ông. Họ chỉ đôi lúc cầm tay, trao cho nhau nụ hôn chúc ngủ ngon lịch thiệp. Tình yêu, dù theo cách diễn đạt nào đi nữa, chưa bao giờ được ai trong hai người khẳng định. Khi hôn lễ diễn ra, họ chỉ biết về nhau nhiều hơn mức người dưng.

Chẳng bao lâu sau thì mẹ nhận ra sai lầm của mình. Thậm chí trước khi tuần trăng mật của họ kết thúc (tuần trăng mật, được ghi lại đầy đủ trong những tấm ảnh tôi tìm thấy: hai người họ ngồi cạnh nhau, chẳng hạn vậy, trên một tảng đá bên bờ một mặt hồ tuyệt đối tĩnh lặng, ánh dương trải thành một dải dài phía sau họ soi triền đồi đầy thông đã bắt đầu ngập trong bóng tối, cha vòng tay ôm mẹ, và hai người nhìn nhau, cười bẽn lẽn, như thể tay chụp ảnh đã ép họ phải giữ y nguyên tư thế ấy quá lâu), thậm chí trước khi tuần trăng mật ấy đi qua, mẹ đã biết cuộc hôn nhân này sẽ chẳng đâu vào đâu. Mẹ đã khóc lóc chạy về với mẹ đẻ và nói muốn bỏ chồng. Bằng cách nào đó, mẹ của mẹ đã xoay xở thuyết phục được con gái quay trở lại và cho cuộc hôn nhân ấy thêm cơ hội. Và rồi, trước khi cơn gió bụi ấy lắng xuống, mẹ phát hiện ra mình có thai. Đột nhiên mọi thứ trở thành quá muộn.

* * *

Đôi khi tôi lại nghĩ về chuyện ấy: Chuyện tôi đã được tạo mầm tại khu nghỉ dưỡng dành cho những kẻ đi hưởng tuần trăng mật ở thác Niagara như thế nào. Chuyện ấy xảy ra ở đâu không hẳn là quan trọng. Nhưng ý nghĩ về chuyện vòng tay ôm trống rỗng đam mê, màn rờ rẫm giữa những lớp chăn lạnh giá của khách sạn không bao giờ thất bại trong việc khiến tôi thấy nhục nhã về sự tồn tại không được mong đợi của mình.

Già tám tháng sau đó, vào buổi sáng ngày sinh nhật thứ hai mươi hai, mẹ tôi tỉnh dậy và bảo với cha rằng em bé đòi ra đời rồi. Kỳ quặc, cha bảo, đứa trẻ sẽ không ra đời trong vòng ba tuần nữa đâu – và thản nhiên đi làm, bỏ mặc mẹ ở nhà mà không có lấy một chiếc xe.

Mẹ đợi. Nghĩ rằng cha đã nói đúng. Mẹ đợi thêm chút nữa, rồi gọi điện thoại cho chị chồng nhờ bà chở tới bệnh viện. Bác tôi ở với mẹ hết cả ngày, cứ mấy tiếng lại gọi cha một lần để giục ông đến. Để sau đi, ông đáp, em đang bận, em sẽ đến khi nào có thể.

Quá nửa đêm một chút thì tôi tìm được cách bước ra thế giới, mông ra trước, khóc váng lên không cần thắc mắc.

Mẹ đợi cha xuất hiện, nhưng mãi tới sáng hôm sau cha mới xuất hiện – tháp tùng mẹ của ông, người muốn xem xét đứa cháu thứ bảy. Đó là một chuyến ghé thăm ngắn ngủi, căng thẳng, rồi cha lại cuốn gói đi làm.

Mẹ khóc, tất nhiên rồi. Dù gì đi nữa, mẹ vẫn còn trẻ, và mẹ không muốn mình có quá ít ý nghĩa với cha như vậy. Nhưng cha chẳng bao giờ có thể hiểu được điều ấy. Chẳng thể từ lúc bắt đầu, và cũng chẳng thể vào khi kết thúc. Việc thực sự có mặt ở nơi cha đang đứng là một điều bất khả. Trong suốt cả quãng đời cha sống, ông ở một nơi nào đó khác, lưng chừng giữa ở đây và ở kia. Nhưng chẳng bao giờ thực sự ở đây. Và cũng chẳng bao giờ là thực sự ở kia.

* * *

Ba mươi năm sau, vở kịch nhỏ ấy lại tái diễn y hệt. Lần này thì tôi có mặt ở đó, chính mắt tôi đã được nhìn thấy.

Sau khi con trai tôi ra đời, tôi đã nghĩ: chắc chắn chuyện này sẽ làm cha hài lòng. Chẳng phải người đàn ông nào cũng muốn trở thành ông nội sao?

Tôi đã mong cha vỗ về thằng bé, để cha cho tôi chút minh chứng rằng cha, cuối cùng, có thể cho người ta thấy chút xúc cảm – rằng cha thực sự, rốt cuộc thì, có chung những xúc cảm như những kẻ khác. Và nếu cha có thể bày tỏ chút trìu mến với đứa cháu trai, thì chẳng phải đó cũng là cách gián tiếp để bày tỏ lòng trìu mến cho chính tôi sao? Bạn không bao giờ ngừng khao khát tình yêu từ cha mình, thậm chí cả khi bạn đã trưởng thành.

Nhưng rồi, con người ấy không hề thay đổi. Tổng cộng cha chỉ thăm cháu nội cỡ ba bốn lần, và không lần nào cha có thể nhận ra được thằng bé giữa cái đám khổng lồ trẻ nít không biết của ai với ai được sinh ra trên thế giới mỗi ngày. Daniel được hai tuần tuổi khi cha liếc mắt nhìn thằng bé lần đầu. Tôi vẫn còn nhớ ngày hôm ấy một cách sắc nét: Đó là một ngày Chủ nhật oi nồng vào cuối tháng Sáu, khí trời như lò hun, vùng nông thôn phủ khói xám vì hơi ẩm. Cha tôi dừng xe, nhìn vợ tôi đặt con vào nôi để nó ngủ, và bước tới chào. Ông cúi đầu xuống cái nôi chừng mười giây, đứng thẳng dậy và nói, “Một đứa bé xinh đấy. Chúc may mắn nhé,” rồi tiếp tục đi vào nhà. Cha cũng có thể nói như thế về con cái của một kẻ lạ mặt nào đó ông tình cờ gặp khi xếp hàng ở siêu thị. Trong suốt quãng ghé thăm ngày hôm ấy, cha không hề nhìn Daniel, không một lần nào thèm đề nghị bế thằng bé.

* * *

Tất cả chuyện đó, chỉ mới là một ví dụ.

Tôi nhận ra không thể nào bước vào thế giới cô độc của kẻ khác. Nếu chuyện chúng ta có lúc biết được về sự tồn tại của một bản thể khác, dù chỉ ở một mức độ ít ỏi, thì cũng chỉ có thể là vì anh ta sẵn sàng để kẻ khác biết về mình. Một người sẽ nói: Tôi lạnh. Còn không anh ta chẳng nói gì cả, và chúng ta thấy anh ta run rẩy. Nhưng với kẻ không nói gì mà cũng không run rẩy thì sao? Nơi nào khó tiếp cận thì ở nơi đó có sự khó hiểu và lảng tránh, người ta không làm gì được nhiều hơn là quan sát. Nhưng việc người ta có thể hiểu được những gì mình quan sát được hay không lại là một vấn đề hoàn toàn khác.

Tôi không muốn suy đoán bất cứ điều gì.

Cha không bao giờ nói về bản thân, không bao giờ tỏ ra biết mình có thểnói gì đó. Như thể cuộc sống nội tại cũng lẩn tránh chính cha.

Cha không thể nói về chuyện ấy, chính vì thế cha thường lờ nó đi trong im lặng.

Nếu chẳng có gì khác ngoài im lặng, thì chuyện tôi cứ thế nói năng có phải là quá không cần thiết không? Và nữa, nếu có bất cứ điều gì quan trọng hơn sự im lặng, thì tôi có thấy cần phải nói ra ngay từ đầu hay không?

Lựa chọn dành cho tôi có giới hạn. Tôi có thể giữ im lặng, nếu không thì tôi có thể nói về những điều không thể xác nhận. Ở mức độ tối thiểu, tôi muốn cứ thế thảy hết các dữ liệu thực tế ra, càng sổ toẹt chúng ra càng tốt, và để chúng tự phát biểu bất cứ điều gì chúng muốn. Nhưng thậm chí ngay cả thực tế cũng không phải lúc nào cũng nói ra sự thực.

Cha luôn tỏ ra hết sức lãnh đạm, cách cư xử của ông quá mức dễ đoán, đến nỗi tất cả những hành động của cha đều gây kinh ngạc. Người ta không thể tin nổi rằng có thể tồn tại một con người – kẻ chẳng có chút xúc cảm nào, kẻ đòi hỏi quá ít từ người khác. Và nếu như kiểu con người ấy không tồn tại, thì có nghĩa là có một con người khác, kẻ trốn trong một người không bao giờ có mặt ở đó, và vậy thì bí quyết của vấn đề chính là việc tìm ra ông ta. Với điều kiện là ông ta có tồn tại để mà tìm.

Tất cả để nhận thức được một việc, ngay từ khi bắt đầu, rằng cốt lõi của kế hoạch này là sự thất bại.

* * *

Ký ức đầu tiên: sự vắng mặt của cha. Trong những năm đầu đời tôi, cha đi làm từ sáng sớm, trước khi tôi thức dậy, và trở về nhà sau khi tôi đã đi ngủ từ lâu. Tôi là con trai của mẹ, và tôi sống trong quỹ đạo của bà. Tôi là mặt trăng bé nhỏ bay quanh trái đất khổng lồ là bà, là hạt bụi trong khối cầu chịu lực hút của bà, và tôi điều khiển những con sóng, thời tiết, những cơn xúc cảm. Điệp khúc mà cha dành cho mẹ là: Đừng có nựng nịu nó quá, em làm hư nó bây giờ. Nhưng sức khỏe của tôi không được tốt, và mẹ dùng chuyện ấy để chống chế cho sự nuông chiều dành cho tôi. Chúng tôi dành phần lớn thời gian bên nhau, mẹ với sự cô đơn và tôi với thân hình co quắp kiên nhẫn đợi chờ ở phòng khám để được ai đó dập tắt cơn cồn cào lúc nào cũng nhộn nhạo trong bụng. Thậm chí vào lúc ấy, tôi còn tuyệt vọng bám lấy mấy ông bác sĩ, đòi họ ôm tôi. Ngay từ khi bắt đầu, có vẻ như tôi đã tìm kiếm cha, tìm kiếm trong hoảng loạn một ai đó nhang nhác bóng hình ông.

Những ký ức về sau: sự khao khát. Tâm trí tôi lúc nào cũng tìm kiếm một cái cớ dù nhỏ nhất để phủ nhận hiện thực, tôi khăng khăng giữ niềm hy vọng về một điều mình sẽ không bao giờ được trao – hoặc được trao quá ít ỏi và quá độc đoán đến mức nó có vẻ như không còn thuộc giới hạn của những trải nghiệm bình thường, ở một nơi mà tôi không bao giờ được phép sống nhiều hơn vài khoảnh khắc trong suốt cuộc đời. Không phải là vì tôi cảm thấy cha không thích mình. Đó chỉ là vì cha lúc nào cũng phân tâm, không thể nào nhìn về hướng tôi. Và hơn tất cả mọi điều, tôi muốn ông chú ý vào mình.

Bất cứ điều gì, dù là nhỏ nhất, cũng đã là đủ. Chẳng hạn như một Chủ nhật nọ gia đình tôi tới một nhà hàng đông đúc và phải đợi xếp bàn, cha bèn đưa tôi ra ngoài, kiếm được một quả bóng bàn (từ đâu nhỉ?), rồi đặt một xu bên vệ đường và bắt đầu trò chơi với tôi: ném quả bóng vào đồng xu. Tôi hồi ấy chắc chỉ mới hơn tám hoặc chín tuổi.

Trong dòng hồi tưởng, không gì còn có thể nhỏ nhoi hơn nữa. Và bất kể sự thật là tôi đã được cha cho vào cuộc chỉ bởi cha ngẫu nhiên đề nghị tôi chia sẻ sự nhàm chán cùng ông, cũng đã làm tôi muốn xỉu vì sung sướng.

Đa số các lần chỉ có sự thất vọng mà thôi. Trong một khoảnh khắc cha dường như đã có thể thay đổi, như đã mở lòng ra được một chút xíu, và rồi, đột nhiên, ông chẳng còn buồn ở đó nữa. Có một lần tôi tìm cách thuyết phục được cha đưa mình đi xem bóng bầu dục (đội Giants đấu với Chicago Cardinals, ở sân vận động Yankee hoặc Polo Grounds, tôi quên mất là sân nào rồi), ông bất thình lình đứng dậy khỏi ghế khi trận đấu đi đến gần khúc cuối và bảo: “Đến giờ đi rồi.” Cha muốn “chạy trước đám đông” và tránh việc bị kẹt xe. Mọi lời tôi nói đều chẳng thể nào thuyết phục nổi cha, và vì thế chúng tôi đi về, đơn giản là vậy, khi trận đấu đang đi đến cao trào. Tôi thấy thất vọng khủng khiếp khi theo ông đi xuống những bậc thềm bê -tông, và rồi, thậm chí còn tồi tệ hơn trong bãi đậu xe, với tiếng vọng ồn ào của đám đông vô hình đang hò hét phía sau.

Bạn không thể nào tin rằng cha biết điều bạn muốn, chia sẻ được những gì bạn đang cảm thấy. Chuyện bạn phải tự nói với ông khiến tất cả mọi điều tiêu tan luôn từ trước, phá hỏng toàn bộ giai điệu trong mơ trước khi một nốt được ngân lên. Và rồi thậm chí ngay cả khi bạn đã nói với cha, cũng chẳng có gì làm chắc là cha sẽ hiểu ý của bạn.

* * *

Tôi nhớ một ngày nọ rất giống ngày hôm nay. Đó là một Chủ nhật mưa phùn, ngôi nhà như lơ mơ và lặng lẽ: thế giới chậm lại một nửa. Cha tôi đang đánh một giấc ngắn, hoặc chỉ mới vừa thức dậy, và tình cờ thế nào tôi lại đang nằm trên giường cùng ông, chỉ hai cha con ở trong phòng. Kể chuyện cho con nghe đi ạ. Chắc bắt đầu phải là như thế. Và bởi vì cha chẳng làm gì khác, bởi vì cha vẫn đang lơ mơ trong cái nặng trĩu của buổi chiều, ông đã làm theo như tôi yêu cầu, ngân nga kể một câu chuyện không bỏ lỡ chi tiết nào. Tôi vẫn nhớ như in câu chuyện ấy. Cứ như là tôi vừa mới bước chân ra khỏi căn phòng, với ánh sáng xám mờ của nó và đống chăn mền hỗn độn trên giường, như thể, chỉ đơn giản nhắm mắt lại, tôi có thể bước trở vào bất cứ khi nào tôi muốn.

Cha kể về những ngày ngao du khám phá của ông ở Nam Phi. Đó là câu chuyện phiêu lưu ly kì, đầy rẫy nguy hiểm chết người, những vụ đào thoát rợn tóc gáy, và những đoạn giật gân yêng hùng không thể nào tin nổi: phát lối đi xuyên rừng với con dao rựa, đánh tan của một băng cướp với hai bàn tay không, bắn chết luôn con lừa khi nó bị gãy chân. Ngôn từ của cha thật hoa mỹ và xoắn xuýt, có thể là tiếng vọng từ một cuốn sách mà chính ông từng đọc khi còn là một cậu bé. Nhưng chính phong cách văn hoa ấy đã làm tôi mê mệt. Không chỉ bởi cha kể tôi nghe những điều mới lạ về bản thân mình, tiết lộ cho tôi về thế giới quá khứ xa xôi của ông, mà còn vì cha kể về chúng với những từ ngữ mới mẻ và lạ lùng. Thứ từ ngữ ấy cũng quan trọng như chính bản thân câu chuyện vậy. Nó là một phần hữu cơ, và theo lối nào đó thì không thể nào phân biệt nổi với câu chuyện. Sự kỳ quặc quá đỗi của nó là bằng chứng cho tính xác thực.

Tôi chẳng hề mảy may nghĩ rằng đó có thể chỉ là một câu chuyện do bịa mà nên. Trong suốt nhiều năm sau tôi vẫn tiếp tục tin nó là sự thật. Thậm chí khi đã đi qua giai đoạn có nhận thức rõ ràng hơn, tôi vẫn cảm thấy đôi điều trong đó phải là sự thật. Nó cho tôi điều gì đó để nắm lấy cha mình, và tôi hết sức miễn cưỡng để buông ra. Cuối cùng thì tôi cũng có được lời giải thích cho sự lảng tránh bí ẩn ấy của mình, sự thờ ơ của cha dành cho tôi. Cha là một mẫu hình lãng mạn, một người với quá khứ bí mật đầy hấp dẫn, và cuộc sống hiện tại của ông chỉ là một trạm dừng, một cách để gặm nhấm thời giờ cho đến khi ông khởi hành chuyến chu du mới. Ông đã lên kế hoạch hết cả, đã tìm ra cách để lấy được kho vàng được chôn sâu trong lòng dãy núi Andes.

* * *

Thường trực trong tâm khảm tôi: nỗi khao khát làm được điều gì đó phi thường, gây ấn tượng với cha bằng chiến tích thuộc tầm cỡ anh hùng. Cha càng xa lánh, mục tiêu của tôi càng cao. Dù khao khát của một đứa trẻ con chỉ là sự liều lĩnh và lý tưởng hóa, thì nó đồng thời cũng thực tế một cách lố bịch. Tôi chỉ mới mười tuổi, và chẳng có đứa trẻ con nào để tôi cứu khỏi một tòa nhà đang bốc cháy, không có thủy thủ nào để tôi cứu trên biển. Tuy nhiên, tôi lại là một đứa chơi bóng chày rất cừ, ngôi sao nhí trong đội Little League, và cho dù cha chẳng có chút hứng thú nào với môn bóng chày, tôi nghĩ rằng nếu cha xem tôi thi đấu, chỉ một lần thôi, cha có thể nhìn thấy ánh sáng mới trong tôi.

Cuối cùng thì cha cũng đến. Bố mẹ của mẹ cũng ghé thăm chúng tôi vào đúng đợt ấy, và ông ngoại, người hâm mộ cuồng nhiệt của môn bóng chày, cùng đến xem với cha. Đó là trận đấu đặc biệt kỷ niệm ngày Liệt sĩ, và chỗ ngồi chật kín. Nếu tôi muốn làm một điều gì đó để lại dấu ấn tên tuổi, thì đây chính là lúc để làm điều đó. Tôi vẫn nhớ đã nhìn thấy họ trên băng ghế gỗ, cha tôi mặc chiếc áo sơmi trắng không đeo cà-vạt và ông ngoại quấn một chiếc khăn tay màu trắng trên cái đầu trọc để tránh nắng – toàn bộ khung cảnh ấy giờ lóa lên dưới luồng sáng trắng trong tâm trí tôi.

Có thể quên chuyện đó đi mà không cần phải kể rằng tôi đã phá hỏng tất cả. Tôi không vụt trúng quả nào, tôi mất đi tư thế đĩnh đạc của mình trong trận đấu và không thể nào căng thẳng hơn được nữa. Trong hàng trăm trận đấu tôi từng chơi suốt thời thơ ấu, đó là trận tồi tệ nhất.

Sau đó, khi đi bộ về xe với cha, cha bảo tôi đã chơi một trận rất hay. Không phải như vậy, tôi đáp, đó là một trận khủng khiếp. Chà, con đã cố gắng hết sức rồi, cha đáp. Con không thể lúc nào cũng chơi hay được.

Không phải cha đang cố gắng động viên tôi. Cha cũng chẳng cố gắng để tỏ ra tàn nhẫn. Thực ra, cha chỉ đang nói điều mà bất cứ ai cũng nói trong tình huống ấy, như theo một quán tính. Chúng là những lời đúng đắn nên nói, và chúng cũng được nói ra với chẳng chút xúc cảm, tỏ ra lịch thiệp, với đúng thứ giọng lơ đãng cha sẽ dùng tới trong gần hai mươi năm sau khi cha nói, “Một đứa bé xinh đấy. Chúc may mắn nhé.” Tôi có thể thấy tâm trí cha đã ở nơi nào khác.

Thực ra mà nói, chuyện ấy chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng là: tôi nhận ra rằng kể cả nếu tôi có làm được những điều mình kỳ vọng, thì phản ứng của cha cũng y như vậy. Tôi thành công hay thất bại cũng chẳng có chút mảy may ảnh hưởng nào tới cha. Tôi không được cha định nghĩa qua những gì tôi làm, mà ở việc tôi là cái gì, và điều này có nghĩa là cách ông nhìn nhận về tôi chẳng bao giờ thay đổi, rằng chúng tôi đã bị đóng đinh trong một mối quan hệ bất di bất dịch, tách biệt khỏi người kia bằng hai mặt của một bức tường. Thậm chí còn hơn thế nữa, tôi nhận ra rằng tôi chẳng làm được gì trong chuyện ấy. Mọi thứ chỉ thuộc về cha mà thôi. Giống như tất cả những điều khác trong cuộc đời cha, cha nhìn về tôi qua màn sương mù của sự cô độc, như thể tôi là một thứ xa vời khỏi bản thân ông. Tôi nghĩ thế giới là một vùng đất xa xôi với cha, một vùng đất mà cha chẳng bao giờ có thể thực sự bước vào, và xa xôi ở ngoài kia, giữa những bóng dáng mờ ảo cứ thấp thoáng qua lại trước mặt ông, tôi được sinh ra, trở thành con trai ông rồi lớn lên, như thể tôi cũng chỉ là một bóng dáng mờ ảo khác, hiện lên rồi biến mất trong lãnh địa chỉ thắp sáng nhờ nhờ là vùng ý thức của ông.

* * *

Với đứa con gái, được sinh ra khi tôi ba tuổi rưỡi, có vẻ như chuyện ấy dễ dàng hơn với ông. Nhưng cuối cùng thì hóa ra chuyện ấy lại khó khăn hơn cực độ.

Em là một đứa trẻ xinh đẹp. Mong manh hiếm có, với đôi mắt nâu tuyệt vời có thể dâng đầy nước chỉ với một chút trêu đùa. Phần lớn thời gian em chỉ muốn một mình, một dáng hình nhỏ bé lang thang trong mảnh đất tưởng tượng của yêu tinh và thần tiên, nhón gót nhảy múa trong bộ đầm múa ba lê voan tỉa tót, hát thầm thì chỉ đủ mình em nghe thấy. Em là phiên bản thu nhỏ của Ophelia đầy bi đát, dường như vậy, trong cuộc đời đầy ắp những đấu tranh nội tại. Em chỉ có vài người bạn, khó khăn lắm mới chịu đến trường, và bị nỗi nghi ngờ bản thân quấy nhiễu, thậm chí khi còn bé xíu, em đã biến những việc hàng ngày đơn giản nhất thành cơn ác mộng của nỗi đau khổ và thất bại. Đã có những cơn cáu kỉnh, những màn khóc lóc thảm thương, và chuỗi biến đổi xúc cảm đột ngột không ngừng. Chẳng có gì được yên ổn dài lâu.

Nhạy cảm với những sắc thái xung quanh một cuộc hôn nhân thiếu hạnh phúc hơn tôi, cảm giác bất an của em biến thành bất thường và méo mó. Ít nhất một lần trong ngày em lại hỏi mẹ “có yêu cha không.” Câu trả lời lúc nào cũng vậy: tất nhiên là có rồi.

Đấy chẳng phải là một lời nói dối thuyết phục cho lắm. Nếu nó thuyết phục, thì em đã chẳng có nhu cầu phải hỏi lại câu đó vào ngày hôm sau.

Ở mặt khác, thật khó mà thấy được nếu chuyện ấy là thật thì sẽ cải thiện được gì.

* * *

Gần như là em đã tỏa ra mùi hương tuyệt vọng. Người ta khao khát được bảo vệ em ngay lập tức, để che chắn cho em khỏi sự tấn công của cuộc đời. Như tất cả mọi người, cha nuông chiều em. Em càng khóc lóc đòi sự chiều chuộng thì cha càng sẵn lòng trao nó cho em. Chẳng hạn như dù em đã biết đi từ lâu lắm rồi, cha vẫn cứ khăng khăng đòi bế em đi xuống cầu thang. Chẳng có gì để thắc mắc về chuyện cha làm thế vì tình yêu thương, hạnh phúc được làm thế bởi em là một thiên thần nhỏ. Nhưng ẩn dưới sự chiều chuộng ấy là một thông điệp không hiện hình là em sẽ chẳng bao giờ có thể làm được điều gì cho bản thân mình. Em chẳng phải là một con người đối với cha, mà là một thiên thần, và bởi vì em chẳng bao giờ đòi được hành động như một cá thể độc lập, em sẽ chẳng bao giờ trở thành như vậy.

Tuy nhiên mẹ tôi lại thấy được những gì đang diễn ra. Khi em gái tôi lên năm tuổi, mẹ đưa em đến một cơ sở tư vấn, với một chuyên viên tâm lý trẻ em, và vị bác sĩ khuyên rằng nên bắt đầu một đợt trị liệu. Đêm đó, khi mẹ nói với cha về kết quả của cuộc khám bệnh, cha đã nổi trận lôi đình. Không đứa con gái nào của tôi… vân vân. Ý nghĩ rằng con gái cha cần đến sự trợ giúp về mặt tâm thần chẳng khác gì bảo em bị bệnh hủi. Cha không chấp nhận chuyện ấy. Cha thậm chí không thèm bàn luận gì đến chuyện ấy.

Đây chính là điều mà tôi muốn nói đến. Cha từ chối nhìn vào bản thân chỉ có thể là do cha cứng đầu cứng cổ không chịu nhìn