2 - Không ai qua sông
Qua cầu Mù U, đoàn tuần hành ốm o còn chừng một nửa. Thiếp không nhìn thấy con chó của mình đâu. Vừa nãy còn thấy nó nhếch chân đánh dấu lãnh thổ, bộ dạng vô cùng phè phỡn. Không biết con chó đã về nhà hay tạt chơi dọc đường sau cái vẫy đuôi của cô chó nào.
Út Lẹ đã bỏ về lúc ở bờ bên kia. Đám tuần hành đâm ra buồn tẻ, không phải vì khuyết mất giọng giòn rụm của Út Lẹ, mà vì vắng cảnh mấy đứa nhỏ con chị thò đầu ra khỏi chòm cây bên đường, kêu “má”, rồi nhe ra cười, khoe những hàng răng bắp bồ cào chỗ có hạt chỗ không. Lâu lâu đứa lớn nhất chạy ra trước đoàn người, đánh vần câu ghi trên vải, xong đi thuật lại cho mấy đứa em, “má mình đang rinh chữ không nên đánh phụ nữ bằng một cành hoa”. Thằng em nó, tay ngoáy cứt mũi, hỏi “vậy đánh bằng cây củi có được không ta?”
Út Lẹ lượm mấy trái bàng khô chọi dạt đám con nít khỏi đoàn người, nhưng có xua thì tụi nó cũng không chịu đi, “về thể nào cũng bị ổng sai đi mua rượu, tụi con đâu có ngu”. Vậy nên vài lần đoàn tuần hành dồn cục, khi bà mẹ phải xử vói ra ngoài vài vụ giành kẹo đánh nhau.
Điện thoại trong túi chị nào cứ nhấp nhổm đổ chuông, nghe nôn ruột. Một người bảo đàn bà tụi mình sao y như con Tấm, muốn ra đường phải nhặt thóc cho xong, mà giờ làm gì có Bụt. May mà qua sông, không còn người nhà chị nào chạy theo để hỏi cây dao xắt chuối giắt ở đâu, hay hết gạo thì mua chịu ở tiệm nào. Những chị bận rộn đã tách đoàn khi đến đầu cầu, bởi nếu qua sông thì phải đi một vòng xa lắm, sợ không kịp về nấu cơm trưa.
Người thay Út Lẹ rinh đầu kia của biểu ngữ là một cô bé ngập ngừng, nghe nói mới về làm dâu xứ Mù U. Thiếp dàn hàng ngang với cô, đoạn trúc treo biểu ngữ cho tựa vào vai, chật vật giữ khoảng cách cho cái băng vải không chùng xuống. Cố nhớ Ra khỏi dãy chợ mé sông, gió bỏ ngọn thổi tạt mấy biểu ngữ làm đoàn người chao lắc. Cô dâu mới bên kia bậm môi như đang giữ một con diều giãy giụa đòi bay. Thấp đậm như Thiếp còn bị gió xô trật bước xuống lề. Hai chị em rủ nhau cuốn băng ngắn lại, đi cho dễ. Trên đó giờ chắc chỉ còn mấy chữ “nên đánh phụ nữ”, người bên đường không biết, tưởng cuộc đi bộ này xúi giục bạo hành. Về hồi mười bảy tuổi, mình có giống cô dâu mới kia, ăn nhỏ nhẻ, đi nhỏ nhẻ. Chưa đầy chục năm mà, sao ngoảnh lại thấy xa.
Cái máy hát trong tay một chị bên Hội phụ nữ phát thêm lần nữa bài chim kêu chim kêu. Lần thứ ba Thiếp tự hỏi cô gái trong bài ca này sao có thể yêu quả pháo như đứa trẻ. Không biết có mấy loại pháo, thứ mà cô gái kia suốt đêm ngày bồng bế có văng ra thứ miểng bén ngót đã găm nhừ cổ bà ngoại Thiếp, hồi chiến. Cậu út lúc ấy vẫn bò quanh, tỉnh bơ bới tìm vú mẹ. Cảnh đó sau này đều được kể lại mỗi khi đám giỗ ngoại, không còn mang tính đau đớn, mà giễu cợt từ hồi nhỏ cậu út đã ham ăn, nên giờ đuổi giạt mấy bà chị để giành miếng đất.
Nghĩ lan man, Thiếp đạp gót người đi trước làm chiếc dép sút quai, đoàn đi lại dồn đống chờ chị nọ lấy dây thun buộc lại.
Tựa như sợi dây vô hình xỏ xâu đám người, tiếng nhạc kéo đoàn tuần hành đi qua doi Me Đất, gặp Trầm đang vác cần câu ễnh bụng đi ngược chiều. Nó đang chửa đứa thứ hai, và lại không cha như thằng con trai bốn tuổi đang lủn tủn đi bên chân mẹ, tay cầm xâu cá lóc nhỏ bằng chân cái. Trầm lạch bạch nhường đường, tay bưng rổ rau cóc, miệng cười toét, khen đoàn tuần hành vui y như đi coi hát. Thiếp cười, cười thật chứ không ngọt lạt như mấy chị sau lưng, “vui thì đi chung”. Bà chửa xua xua tay, chỉ vào bụng “con nhỏ đói rồi”.
Cái bóng Trầm lùi xa, để lại một vệt dài xì xào. Người Mù U tưởng trề môi đã đời hồi Trầm sinh đứa đầu và tiếp tục cấn bầu đứa thứ hai, giờ lại không nhịn nổi, “con nhỏ có gì hay mà cứ hất mặt lên”. Như thể Trầm có sinh chục đứa con hoang nữa cũng chẳng sao, nhưng đi đường phải cúi gằm, cấm vừa đi vừa ca cùng con nít, mắt mũi tươi giòn làm bọn đàn bà khác hoang mang. Đã lần nào mình có được vẻ mặt như con Trầm khi nãy chưa, Thiếp cố nhớ, nghe dậy chút tỵ hiềm không cơn cớ.
Không biết có phải vì con Trầm, mà những câu chuyện đàn bà không đầu không cuối mòn dần. Cũng có thể do mỏi chân, và nắng trưa làm cho kiệt sức, nên đoàn tuần hành mất hết hứng thú, đi như trôi về đúng chỗ lúc sáng nó nhóm lên, ngay trước một ngôi nhà thấp tối. Con Mực đang chờ Thiếp ở đó, bình thản đứng coi đám trẻ chọi lon.
Cũng chỗ ấy, nửa tháng trước có người đàn bà bị chồng dùng đũa than nóng xiên qua mắt phải. Mà người Mù U và cả anh chồng cũng không hiểu sao chị ta không chịu chạy ra như mọi khi, anh rượt đánh chị hoài chớ gì.
Cuộc đi bộ tháng Ba này là vì một người vừa xuất viện, và cũng cho bao đàn bà khác trên cái đất Mù U này. Hội phụ nữ đi thuyết phục từng nhà, rốt cuộc chỉ gom được chừng năm chục chị.
Một thím ngồi chơi tứ sắc không thèm ngẩng lên, nói “mắc cười, bộ biểu tình thì không bị đánh nữa sao?”
Câu hỏi đó cứ văng vào cuộc tuần hành, ở cái động tác nheo mắt nhả khói cười của mấy ông nhậu bên đường, của những cô gái hé cửa sổ ra dòm rồi hững hờ khép cửa, ở vài chị đàn bà lặn ngụp dưới mé sông nhổ bông súng ma, nhìn đám người đi qua như một đám rước linh thiêng chẳng liên quan đến mình.
Thiếp bước vào đoàn tuần hành chỉ vì muốn nghe lóm tên mấy lá thuốc trị ho cho trẻ nít mà mấy chị bảo nhau lúc đi ngang qua. Lội bộ được đỗi đường, một chị dúi biểu ngữ vô tay Thiếp, hớt hãi nói chết cha, quên tắt bếp nồi cơm ở nhà. Vậy là Thiếp đi hết một vòng, chẳng nghe ngóng thêm được bài thuốc nào nữa.
Tan về lúc trời quá trưa, nhưng chuyển mưa nên nắng úa. Con Mực lững thững đi đằng sau, rồi lại chạy vọt lên khi thấy bị bỏ xa. Gần đến tiệm thuốc Bắc bên kia đường, Thiếp đứng núp sau cột đèn nhìn đứa con gái đang được bà nội nó gội đầu ở vòi nước đầu nhà.
Chị sinh đứa bé này bảy năm trước, lúc nó hai tuổi rưỡi chị trốn đi theo anh lơ xe, không đem theo món gì, hay chút chữ nào để lại. Chồng Thiếp và đàn ông xóm chợ lặn sông mò gần chết, tưởng chị đuối nước xác đang nằm đâu đó dưới dãy nhà sàn. Năm ngoái, chị quay lại và đứa nhỏ nhìn chị hỏi dì lạ hoắc là ai sao lại vuốt tóc con. Chị không thể xưng mình là mẹ nó.
Nhưng chị đang ở lại Mù U, và sẵn sàng làm bất cứ gì, để được nói với con gái mình, mẹ đây!