Tại Sao Phải Tu Thiền? Tác giả: Bhante Gunaratana
Bhante Henepola Gunaratana, người Tích Lan (Sri Lanka), là tác giả của nhiều tựa sách do nhà xuất bản Wisdom Publications ấn hành: Mindfulness in Plain English, Eight Plain English, The Four Foundations of Mindfulness in Plain English,Meditation on Perception, và Loving-Kindness in Plain English.
Là một tu sĩ Phật giáo hơn 65 năm, Sư đã đạt được danh hiệu cao nhất ở Bắc Mỹ của phái Siyam Nikaya, thuộc Phật giáo Nguyên Thủy. Sau khi qua Mỹ năm 1968, Sư lấy bằng Tiến sĩ về Triết học ở đại học American tại Washington, D.C. Sư đã qua các nước châu Âu, châu Á, Úc và Nam Mỹ để hướng dẫn các khóa tu thiền. Năm 1982, Sư thành lập Hội Bhavana, một tu viện/trung tâm tu thiền ở West Virginia, nơi Sư hiện đang sinh sống.
Tại sao phải hành thiền?
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời gian và nghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê. Nó đòi hỏi nhiều cá tính mà chúng ta thường xem là khó chịu và tránh né chúng bất cứ khi nào có thể. Ta có thể tóm tắt là thiền đòi hỏi một tinh thần dám nghĩ, dám làm.
Không thể phủ nhận là ngồi xem truyền hình thì dễ hơn nhiều. Vậy tại sao ta phải quan tâm đến thiền? Tại sao phải lãng phí thời gian và năng lượng, khi ta có thể đi ra ngoài tận hưởng mọi thú vui Tại sao? Rất đơn giản. Vì chúng ta là con người. Và cũng chính vì sự thật đơn giản: ta là con người; nên ta cảm thấy mình phải đón nhận bao thất vọng, khổ đau trong cuộc sống mà không thể làm chúng biến mất đi. Ta có thể đẩy chúng khỏi sự chú tâm của mình trong một khoảng thời gian nào đó; ta có thể tìm quên lảng trong bao nhiêu tiếng đồng hồ nào đó, nhưng chúng luôn trở lại – thường vào những lúc ta không ngờ nhất. Bỗng nhiên, tựa như trên trời rớt xuống, ta sẽ ngồi dậy, nhẩm tính lại, và nhận thức về hoàn cảnh thực sự của mình trong cuộc đời. Có điều gì không ổn với chúng ta? Ta túng thiếu? Ta sợ hãi? Ta làm gì cũng thất bại? Ta chỉ là một chúng sanh. Ta phải hứng chịu cùng loại bệnh truyền nhiễm với mọi chúng sanh. Đó là con quỷ bên trong tất cả chúng ta, và nó có nhiều bộ mặt với nhiều cánh tay: sự căng thẳng triền miên, sự thiếu sự cảm thông đối với người, cũng như bản thân (kể cả những người gần gủi với ta nhất), sự đè nén cảm xúc, giết mòn tâm hồn. Không có ai trong chúng ta hoàn toàn thoát khỏi chúng. Ta chạy trốn chúng. Ta xây cả một nền văn hóa để che giấu chúng, giả vờ là chúng không có mặt, và vùi đầu vào các dự án, mục tiêu, lo lắng về chỗ đứng của mình trong xã hội. Nhưng chúng không bao giờ mất đi. Chúng là luồng sóng ngầm dưới mọi suy tưởng, là tiếng nói thầm thì không dừng dứt trong đầu: “Chưa tốt đủ. Chưa đâu. Cần phải có nhiều hơn. Tốt hơn. Cần phải tốt hơn nữa”. Đấy là con quỷ. Con quỷ có mặt ở khắp nơi dưới nhiều hình thức thô, tế vô tận. Nhưng bản chất trải nghiệm của ta thì thay đổi. Thay đổi không ngừng nghỉ. Cuộc sống trôi qua trong từng khoảng khắc, và không bao giờ giống nhau. Sự biến đổi không ngừng là bản chất của vũ trụ giác quan. Một tư tưởng vừa khởi lên trong đầu, nửa giây sau nó biến mất. Rồi một tư tưởng khác đến, sau đó cũng qua đi. Một âm thanh chạm đến tai, rồi im lặng. Mở mắt ra và cả thế giới ùa vào, chớp mắt, chúng lại biến mất. Người đến rồi đi qua cuộc đời chúng ta. Bạn bè xa rời, người thân ra đi. Vận may của ta trồi sụp. Đôi khi ta thắng, và cũng nhiều khi, ta thua. Nó không ngừng như thế: thay đổi, thay đổi, thay đổi; không hai giây phút nào giống nhau. Không có gì sai với điều đó. Biến đổi là bản chất của vũ trụ. Nhưng văn hóa nhân loại đã dạy chúng ta những cách phản ứng kỳ lạ đối với dòng chảy không dừng dứt này. Chúng ta phân loại kinh nghiệm. Chúng ta cố dán nhãn mọi suy tưởng, mọi thay đổi tâm lý trong dòng chảy vô tận này, bằng một trong ba khung trạng thái: tốt, xấu hay trung tính, không đáng để tâm đến. Sau đó, tùy theo cái khung đã chọn, chúng ta cảm nhận sự việc bằng một số phản ứng tâm lý quen thuộc. Nếu điều gì được cho là ‘tốt’, ta sẽ cố nắm giữ ngay tại đó. Ta bám vào đó, nắm chặt, ôm cứng, cố không để nó thoát khỏi ta. Khi điều gì đó không xảy ra theo như ý, ta lại bằng mọi cách cố lặp lại với hy vọng nó sẽ xảy ra theo như ý. Hãy gọi thói quen tâm lý này là “chấp”. Ở phía bên kia của tâm là cái khung được dán nhãn “xấu”. Khi ta xem điều gì đó là “xấu” thì ta cố đẩy nó ra xa. Ta cố chối bỏ, chống báng, chỉnh sửa nó. Ta cố hủy bỏ nó bằng mọi cách có thể. Ta tranh đấu chống lại ngay cả trải nghiệm bản thân của mình. Ta chạy trốn những gì thuộc về ta. Hãy gọi thói quen tâm lý đó là “tẩy chay”. Giữa hai phản ứng này là cái khung có nhãn dán “trung tính”. Chúng ta bỏ vào khung đó các trải nghiệm không tốt, không xấu. Chúng trung tính, nhạt nhẽo, bàng bạc. Chúng ta dồn các trải nghiệm vào khung trung tính này để bỏ lơ chúng, để quay về lại nơi nhộn nhịp, nơi của hành động, được gọi là vòng vô tận của ái và sân. Như thế khung của các trải nghiệm “trung tính” không được ta quan tâm đủ. Hãy gọi thói quen tâm lý này là “thờ ơ”. Kết quả trực tiếp của tất cả những thứ điên cuồng này là một cuộc chạy đua không có đích đến, dồn dập chạy theo dục lạc, trốn chạy không dừng nghỉ khỏi khổ, và không dừng bỏ qua bao trải nghiệm của mình. Rồi ta lại hỏi sao cuộc sống vô vị. Kết luận là cách sống đó thất bại. Dầu ta có cố gắng chạy đuổi theo dục lạc, tiếng tăm khó nhọc đến thế nào, cũng có nhiều lúc ta không thể thành công. Dầu ta có đào tẩu nhanh tới đâu, cũng có nhiều lúc khổ đau bắt kịp mình.
Và giữa những khoảng thời gian ấy, cuộc sống trở nên nhàm chán đến độ ta có thể hét lên. Tâm ta đầy các quan điểm và phê phán. Ta xây các bức tường quanh mình và bị kẹt trong nhà tù của chính cái thích và không thích của mình. Ta đau khổ. Ta không thể có được mọi thứ mình muốn. Điều đó bất khả thi.
May mắn thay, chúng ta có sự lựa chọn khác. Ta có thể học cách kiểm soát tâm, để thoát khỏi cái vòng quay vô tận của tham và sân. Ta có thể tập không muốn những gì ta thường muốn, để nhận ra các ham muốn nhưng không để chúng làm chủ mình. Điều đó không có nghĩa là ta sẽ nằm xuống để mọi người có thể dẫm đạp lên. Điều đó có nghĩa là ta tiếp tục sống bình thường, nhưng sống với một quan điểm hoàn toàn mới. Ta làm những điều cần làm, nhưng không để hấp lực của chính các ái dục của mình sai khiến, làm chủ mình. Dầu có muốn điều gì đó, ta cũng không chạy đuổi theo nó. Có sợ điều gì đó, ta cũng không cần phải đứng run rẩy. Sự huân tập tâm linh này rất khó. Đòi hỏi thời gian. Nhưng cố gắng để làm chủ mọi thứ là điều không thể; khó khăn đến độ không thể. Ta không thể thay đổi triệt để cách sống của mình, trừ khi ta bắt đầu thấy mình đúng như mình đang là. Lúc đó, những sự chuyển đổi sẽ tự nhiên đến. Ta không cần phải ép buộc, đấu tranh với bất cứ điều gì, hoặc tuân theo mệnh lệnh của ai đó có thẩm quyền. Sự thay đổi tự động xảy ra; và chúng ta thay đổi. Nhưng chúng ta phải biết mình là ai, như thế nào chứ không ảo tưởng, phê phán, hay có sự chống đối nào. Chúng ta phải xem lại vị thế của mình trong xã hội và chức năng của mình với tư cách là thành viên trong xã hội. Ta phải xét đến các bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với đồng loại, nhưng trên hết là bổn phận đối với bản thân với tư cách là một cá nhân sống cùng với các cá nhân khác. Và cuối cùng, ta phải thấy rất rõ ràng: tất cả là một đơn vị duy nhất, một tổng hợp của sự tương quan liên hệ không thể giảm thiểu. Nói thì có vẻ phức tạp, nhưng nó có thể xảy ra tức tốc. Sự vun bồi tâm linh qua thiền hành là vượt bậc trong việc giúp chúng ta đạt được sự hiểu biết và hạnh phúc bình an đó. Thiền được gọi là Đại Sư Phụ (Great Master). Nó là lò lửa thanh lọc tâm, hoạt động chậm nhưng chắc, qua trí tuệ. Càng có hiểu biết, ta càng kham nhẫn, uyển chuyển, từ bi. Ta trở thành những cha mẹ, hay các bậc thầy lý tưởng. Chúng ta luôn sẳn sàng tha thứ và quên lảng. Ta cảm thấy dễ cảm thông với người vì ta hiểu họ, và ta hiểu họ vì ta hiểu bản thân mình. Ta đã quay nhìn vào tận bên trong, đã thấy sự tự ảo tưởng và những sa ngã, yếu kém của con người mình, để học thương yêu và tha thứ. Khi ta đã biết thương mình, từ bi với mình, thì lòng thương cảm đối với người khác sẽ tự động có mặt. Một vị chứng thiền đã đạt được sự hiểu biết về cuộc sống thấu đáo. Vị đó liên hệ với thế giới bằng một tình yêu thương sâu đậm, không phê phán. Thiền rất giống như sự vun xới, khai vỡ một mảnh đất mới. Để biến rừng thành đồng bằng, trước tiên ta phải đốn cây, dời gốc. Sau đó phải sới đất, bón phân, gieo giống, và thu hoạch. Để vun trồng tâm, trước tiên ta phải dọn sạch những ô uế trên đường –nhổ tận gốc rể để chúng không mọc trở lại. Sau đó bón phân: ta dồn năng lượng và kỷ luật vào mảnh đất tâm. Sau đó gieo giống, và thu hoạch sản phẩm của tín, giới, định và tuệ. Mục đích của thiền hành là sự chuyển hóa bản thân. Cái ‘tôi’ trước khi đi vào trải nghiệm thiền không giống với cái ‘tôi’ sau đó. Thiền chuyển hóa cá tính của ta bằng quá trình tạo sự nhạy cảm, bằng cách khiến ta ý thức sâu xa đến ý nghĩ, lời nói và hành động của bản thân. Ngã mạn sẽ bay hơi, sự kỳ thị người khác sẽ cạn kiệt. Cuộc sống của ta sẽ bằng phẳng hơn. Vì vậy thiền, nếu hành cho đúng, chuẩn bị cho ta đối mặt với những sự vô thường trong cuộc sống. Nó làm giảm căng thẳng, lo âu và sợ hãi. Trạo cử tiêu giảm, đam mê trở nên chừng mực. Mọi thứ bắt đầu có chỗ đứng, và cuộc sống của ta trở nên nhuần nhuyễn, thay vì là đấu tranh. Tất cả những điều này xảy ra là nhờ có trí tuệ.
Chánh Niệm
Bài pháp này giúp ta dần dần vun trồng chánh niệm tỉnh giác. Theo truyền thống, cách thực hành này được gọi là vipassana.
Trong quá trình thực hành chánh niệm, chúng ta dần dần trở nên ý thức về việc chúng ta thực sự là gì, rất khác với hình ảnh của cái ngã của bản thân. Chúng ta đối mặt với cuộc sống thực sự là gì. Nó không chỉ là một cuộc diễu hành lên xuống, qua lại, với kẹo bánh lủng lẳng ở cườm tay. Cuộc sống có ý nghĩa sâu xa hơn, nếu ta chịu khó nhìn, và nhìn đúng hướng.
Chánh niệm là một phương pháp rèn tâm giúp ta trải nghiệm thế giới một cách hoàn toàn mới. Lần đầu tiên chúng ta sẽ biết điều gì đang thực sự xảy ra, chung quanh và bên trong ta. Đó là một quá trình tự khám phá bản thân. Một cuộc khảo sát trong đó ta tự quán sát chính các trải nghiệm của mình khi chúng đang xảy ra. Chúng ta sẽ quán sát mọi thứ một cách khách quan, đúng như chúng là – tuôn chảy và chuyển đổi trong từng khoảng khắc. Cuộc sống do đó sẽ trở nên phong phú đến độ không diễn tả nổi. Ta phải tự trải nghiệm nó.
Qua phương pháp này, ta luyện bản thân nhìn thực tại đúng như nó là. Quá trình chánh niệm này thực sự khác với những gì ta thường làm, với khuynh hướng nhìn cuộc sống qua tấm màn của tư duy và quan điểm, mà ta lầm tưởng là thực tại. Chúng ta quá chấp vào dòng suy tưởng vô tận này đến độ thực tại đi qua mà ta không hay biết. Chúng ta bỏ thời gian tham dự các hoạt động, vướng mắc vào các cuộc truy đuổi vô tận dục lạc và hạnh phúc cũng như không ngừng trốn chạy khỏi đau khổ, thất vọng. Chúng ta tiêu pha tất cả năng lượng, cố gắng để làm cho bản thân được hạnh phúc hơn, cố gắng để chôn lấp những sợ hãi, tìm kiếm sự an toàn không ngừng nghỉ. Trong lúc đó, thế giới của sự trải nghiệm thực sự đi qua mà ta không chạm tới được, không hưởng được hương vị.
Trong thiền chánh niệm, chúng ta rèn luyện bản thân bỏ qua các phản ứng bản năng để sửa đổi, chuyển biến và chế ngự - thay vào đó ta đào sâu vào thực tại. Bằng cách đó, ta bắt đầu khám phá ra sự bình an thực sự. Oái oăm là sự bình an thực sự chỉ đến khi ta đã dừng chạy đuổi theo nó.
Khi ta buông lơi các ý muốn chạy đuổi theo sự thoải mái, thì sự tự tại thực sự sẽ phát khởi. Khi ta buông sự bám chấp vào việc được thỏa mãn, nét đẹp thực sự của cuộc sống sẽ xuất hiện. Khi ta quyết biết thực tại không ảo tưởng, với đầy đủ những khổ đau, nguy hiểm, thì tự do và an toàn thực sự sẽ thuộc về ta. Đây không phải là một lý thuyết, một hệ tư tưởng, hay một niềm tin; đây là một thực tại có thể quán sát, trải nghiệm, một điều gì đó mà ta có thể và cần phải tự mình thấy biết.
Thiền chánh niệm giúp ta cách mổ xẻ trải nghiệm của chính bản thân với sự chính xác lớn. Chúng ta tập theo dõi sự phát sinh của ý nghĩ, tư tưởng với cảm xúc – và phản ứng của ta đối với sự kích thích này – với sự bình tĩnh và sáng suốt. Chúng ta bắt đầu nhìn thấy bản thân phản ứng mà không để mình bị mắc kẹt trong chính các phản ứng. Bản chất chấp chặt của tư tưởng dần dần chết đi.
Sự thoát khỏi bản chất chấp chặt của tư tưởng nảy sinh một quan điểm hoàn toàn mới về thực tại. Đó là sự thay đổi hoàn toàn thế giới quan, một sự chuyển đổi hoàn toàn trong cơ cấu nhận thức. Điều đó mang theo với nó sự bình an của việc được giải phóng khỏi sự chấp chặt. Do các thuận lợi này, Phật giáo xem phương cách nhìn sự vật như thế này là một cách nhìn đúng về cuộc sống: đó là nhìn sự vật như chúng thực sự là.
Trong đó phải kể đến chính bản thân mình: ta sẽ nhìn mình đúng như mình là. Ta sẽ nhận ra được các hành vi ích kỷ của mình. Sẽ thấy được những khổ đau của mình. Và ta đã tạo ra khổ đau đó như thế nào. Sẽ nhận ra ta đã làm khổ người khác như thế nào. Ta sẽ nhìn xuyên thấu được những lớp lang dối trá mà ta thường tự nhủ mình, và ta sẽ thấy điều gì thực sự ở đó. Ta sẽ nhìn thấy được sự vật như chúng là để có thể phản ứng với trí tuệ.
Sự Thực Hành:
Ngồi thẳng lưng và để thân yên, hoàn toàn không động đậy. Sau khi đã ngồi yên, khép hay nhắm mắt lại. Tâm chúng ta giống như một ly nước bùn. Ta càng giữ cho ly nước đứng yên, bùn càng lắng xuống đáy và nước sẽ được trong. Tương tự, nếu ta giữ thân yên, không động đậy, đặt tất cả sự chú tâm không phân tán vào đối tượng thiền quán, tâm sẽ lắng xuống và bắt đầu trải nghiệm các thiền quả.
Chúng ta cần giữ tâm ở giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại chuyển biến rất nhanh, nên người bình thường dường như không nhận thấy sự có mặt của nó. Mỗi khoảng khắc là phút giây của các sự kiện và không có khoảng khắc nào trôi qua mà không có sự kiện. Chúng ta không thể để ý đến khoảng khắc mà không để ý đến sự việc xảy ra ngay trong khoảng khắc đó. Do đó, khoảng khắc chúng ta cần cố gắng để quan tâm đơn thuần đến là giây phút hiện tại. Tâm ta sẽ đi qua một chuỗi sự kiện giống như một chuỗi hình ảnh đi qua máy chiếu. Một số hình ảnh phát xuất từ quá khứ và một số khác là do sự tưởng tượng của ta về các dự tính trong tương lai.
Tâm không thể nào tập trung mà không có đối tượng tâm linh. Do đó ta phải cho tâm một đối tượng mà lúc nào cũng có mặt. Một đối tượng như thế chính là hơi thở. Tâm không phải nhọc công mới tìm được hơi thở. Hơi thở ra vào ở mũi trong từng khoảng khắc. Vì sự thực tập thiền quán xảy ra trong từng giây phút sống của ta, nên tâm sẽ rất dễ dàng tập trung trên hơi thở, vì hơi thở khác hơn mọi đối tượng là luôn có mặt.
Bắt đầu bằng ba hơi thở sâu. Sau đó, thở bình thường, để hơi thở vào ra tự nhiên, không gò ép và bắt đầu tập trung vào đầu mũi. Chỉ đơn giản chú tâm vào cảm giác của hơi thở vào ra nơi đó.
Khi hơi thở vào hoàn tất và trước khi hơi thở ra bắt đầu, có một sự nghỉ ngắn. Hãy để tâm đến đó và để tâm đến sự bắt đầu của hơi thở ra.
Khi hơi thở ra hoàn tất và trước khi hơi thở vào bắt đầu, có một sự nghỉ ngắn. Cũng để tâm đến đó. Có nghĩa là có hai đoạn nghỉ ngắn – một ở cuối hơi thở vào và một ở cuối hơi thở ra. Hai đoạn nghỉ này xảy ra nhanh đến độ có thể bạn không để ý đến sự xuất hiện của chúng. Nhưng khi có chánh niệm, ta sẽ nhận ra chúng. Đừng nói năng hay nghĩ tưởng điều gì. Chỉ đơn giản chú ý đến hơi thở vào ra mà không cần nói, “Tôi thở vào”, hay “Tôi thở ra”. Khi bạn tập trung vào hơi thở, hãy bỏ qua bất cứ tư tưởng, ký ức, âm thanh, mùi, vị, cảm giác và chỉ chú tâm hoàn toàn vào hơi thở, không có gì khác nữa.
Lúc bắt đầu, cả hơi thở vào và ra đều ngắn, vì thân và tâm chưa ổn định, buông thư. Hãy để ý đến cảm giác của hơi thở vào ra ngắn đó, mà không cần phải nói, “thở vào ngắn” hay “thở ra ngắn”. Khi ta tiếp tục chú tâm vào cảm giác của hơi thở vào ngắn, hơi thở ra ngắn, thân và tâm trở nên khá tĩnh lặng. Sau đó hơi thở của ta trở nên dài. Hãy để ý đến cảm giác của hơi thở dài như nó là, mà không cần phải nói, “Hơi thở dài”. Sau đó hãy để ý đến cả quá trình thở từ bắt đầu đến cuối. Từ đó hơi thở trở nên vi tế, và thân tâm trở nên an tĩnh hơn trước đó. Hãy để ý đến cảm giác êm ái này của hơi thở. Hơi thở được dùng làm điểm khảo chiếu quan trọng để kéo tâm lang thang trở về. Đó là khung tham khảo dựa trên đó ta có thể biết những sự thay đổi và gián đoạn không ngừng mà lúc nào cũng xảy ra như là một phần của sự suy nghĩ bình thường. Có ẩn dụ cho rằng thiền hành giống như thuần hóa voi rừng. Tiến trình thực hiện việc đó là cột con thú vừa bắt được bằng một sợi dây thật chắc. Khi bị cột như vậy, con thú không bằng lòng. Nó giãy dụa, dậm chân, trì kéo dây cột suốt nhiều ngày. Cuối cùng rồi nó cũng nhận ra là nó không thể thoát, đành chịu thua. Tới lúc đó, ta có thể bắt đầu cho nó ăn và giao tiếp với nó với sự thận trọng. Dần dần ta có thể vứt bỏ dây trói, cột gỗ, và huấn luyện voi làm một số trò. Lúc đó là ta có một con voi đã được huấn luyện để làm những việc có ích. Trong ẩn dụ này, con voi rừng là tâm hoạt động buông lung, dây trói là chánh niệm và cột gỗ là đối tượng thiền của ta, là hơi thở. Con voi thuần hóa trong quá trình này là tâm khéo được huấn luyện. Định tâm mà ta có thể sử dụng trong công việc vô cùng khó khăn là xuyên thấu nhiều lớp ảo tưởng che mờ thực tại. Thiền đã giúp thuần hóa tâm.
Mười Lời Khuyên Giúp Việc Hành Thiền Hữu Hiệu Hơn:
Để việc hành thiền được tốt đẹp, ta cần nhớ những điều sau đây:
1: Chớ mong đợi điều gì.
Chỉ ngồi thẳng buông thư, xem sự thể thế nào. Xem tất cả là một trải nghiệm. Hãy sốt sắng trong cuộc trải nghiệm, nhưng chớ để mình bị phân tâm bởi những mong chờ ở kết quả. Về vấn đề đó, chớ quan tâm đến bất cứ kết quả gì. Hãy để pháp hành tiến triển theo hướng và tốc độ của nó. Hãy để thiền hướng dẫn ta. Sự tỉnh thức trong thiền giúp ta nhìn thực tại đúng như nó là. Dầu điều đó có giống như ta mong đợi hay không, nó cũng đòi hỏi một sự gián đoạn tạm thời tất cả mọi ý kiến, quan điểm. Ta phải dẹp qua một bên hình ảnh, ý kiến, phán xét trong thời hành thiền. Nếu không chúng sẽ làm ta vấp váp.
2: Đừng căng thẳng.
Đừng cố ép điều gì hay tạo các nỗ lực quá lớn, quá mức. Thiền không hề thúc bách. Không có chỗ hay nhu cầu cho sự gắng sức quá đáng. Hãy để nỗ lực của ta tự nhiên và bền vững.
3: Chớ gấp rút.
Không cần vội vả, hãy từ tốn. Hãy ngồi xuống vững chải trên gối thiền và ngồi như thể ta có cả ngày để ngồi. Bất cứ thứ gì thực sự đáng giá đều cần có thời gian để phát triển. Kiên nhẫn, kiên nhẫn và kiên nhẫn.
4: Đừng chấp vào thứ gì mà cũng đừng chối bỏ thứ gì.
Điều gì đến hãy để nó đến, thích ứng với nó, dù đó là bất cứ điều gì. Nếu có những tâm ảnh tốt đẹp phát khởi, cũng tốt. Nếu có tâm ảnh xấu xuất hiện, cũng được thôi. Hãy xem tất cả đều giống nhau, và thoải mái với bất cứ điều gì xảy ra. Đừng chống đối lại với cái mình trải nghiệm, chỉ cần quán sát nó trong chánh niệm.
5: Hãy buông.
Hãy tập thích ứng với tất cả những biến đổi xuất hiện. Thoải mái và buông thư.
6: Chấp nhận bất cứ điều gì phát khởi.
Chấp nhận các cảm xúc của mình, dầu chúng không phải là thứ ta muốn có. Chấp nhận trải nghiệm của mình, dầu là những thứ ta không ưa. Đừng buộc tội bản thân về những thất bại, thiếu sót trong kiếp nhân sinh của mình. Tập nhìn tất cả mọi hiện tượng trong tâm là hoàn toàn tự nhiên và chấp nhận được. Cố gắng tập luôn chấp nhận một cách vô tư đối với tất cả mọi thứ mà ta trải nghiệm.
7: Hãy rộng lượng với bản thân.
Hãy tử tế với bản thân. Có thể chúng ta chưa được hoàn hảo, nhưng ta đang cố gắng để làm điều đó. Trong quá trình trở nên người mà ta muốn trở thành, bắt đầu trước tiên với sự chấp nhận hoàn toàn ta là ai.
8: Hãy tự xét mình.
Hãy quán xét mọi thứ. Không chấp nhận điều gì như một hiển nhiên. Đừng tin vào bất cứ điều gì vì điều đó nghe hay ho, trí tuệ hoặc do một vị thiên nào đó nói. Hãy tự mình kiểm chứng. Điều đó không có nghĩa là ta phải tỏ ra hoài nghi, ngoan cố hay bất kính. Mà chỉ có nghĩa là ta phải thực nghiệm. Đem mọi lời thuyết giảng so với chính kinh nghiệm của mình, và hãy để kết quả đưa ta đến với sự thật. Thiền quán là kết quả của tâm nguyện được sống với những gì chân thực và đạt được tuệ giải thoát về cấu trúc thực sự của hiện hữu. Toàn bộ thực tập này dựa trên ước muốn được tỉnh giác trước chân lý. Không có điều đó, sự thực tập của ta là giả tạo.
9: Xem mọi vấn đề là những thử thách.
Hãy xem các chướng ngại phát sinh là cơ hội để tu tập và để trưởng thành. Đừng tránh né chúng, buộc tội bản thân, hay chôn kín các phiền não trong sự im lặng thần thánh. Chúng ta có vấn đề ư? Tốt. Càng thêm cơ hội để làm tốt hơn. Hãy vui lên, đối mặt với vấn đề, quán xét nó.
10: Chớ do dự.
Ta không cần phải có câu trả lời cho mọi vấn đề. Những suy tư lý luận không giúp chúng ta thoát ra khỏi cái bẫy. Trong thiền, tâm được thanh lọc một cách tự nhiên bằng chánh niệm, bằng sự chú tâm đơn thuần không lời lẽ (vô ngôn). Sự thận trọng theo thói quen không đủ để hủy diệt những thứ đang giam giữ ta. Tất cả những gì chúng ta cần là sự ý thức rõ ràng, không định kiến về các vấn đề và cách chúng vận hành ra sao. Chỉ cần có vậy để giải quyết vấn đề. Quan điểm và lý luận không thể làm điều đó. Đừng suy nghĩ. Hãy quán sát.
Vài hiểu lầm về thiền:
Có một số nhận định sai lầm chung về thiền. Tốt nhất là nên giải quyết, làm rõ những điều này ngay, vì chúng là loại định kiến có thể cản trở sự tiến bộ của ta ngay lúc bắt đầu.
Thứ 1: Thiền chỉ là một phương cách để thư giãn.
Thực ra: Sự thư giãn chỉ là một sản phẩm phụ hữu ích của thiền, nhưng không phải là mục đích của thiền.
Thứ 2: Thiền làm tâm lâng lâng như sống trong mộng.
Thực ra: Khi hành thiền chúng ta đâu có cố khiến tâm không còn ý thức, hay cố gắng biến mình thành một thứ thực vật bất động. Trái lại thì có: ta sẽ ngày càng ý thức hơn về những biến đổi trong cảm xúc của bản thân. Ta sẽ tu tập để hiểu biết bản thân với sự chính xác, rõ ràng hơn bao giờ hết.
Thứ 3: Thiền là một cách tu huyền bí, khó hiểu nghĩa lý.
Thực ra: Thiền hoạt động với các tầng tâm thức nằm sâu hơn tư duy, khái niệm. Do đó, một số trải nghiệm về thiền không thể diễn tả bằng lời. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là ta không thể hiểu thiền. Thiền cần được hiểu bằng cách thực hành nó. Mỗi lần hành thiền là một sự quán sát và là một trải nghiệm, một cuộc thám hiểm. Tập nhìn từng giây phút như nó là giây phút đầu tiên và duy nhất trên thế gian, đó là điều căn bản.
Thứ 4: Thiền là một cách tu nguy hiểm.
Thực ra: Nếu chúng ta bắt đầu một cách từ từ, thông thả, sự tiến bộ trong thực hành sẽ xảy ra một cách tự nhiên. Không nên áp đặt thứ gì. Sau này, khi ta tu tập dưới sự kiểm soát chặt chẻ và trí tuệ bao quát của một vị thầy có khả năng, ta có thể tăng tốc mức độ phát triển bằng cách thử hành thiền chuyên sâu một thời gian. Tuy nhiên, buổi ban đầu hãy thư thả. Thực tập nhẹ nhàng.
Thứ 5: Thiền là trốn chạy thực tại.
Thực ra: Thiền không nhằm che chắn chúng ta khỏi những khổ đau trong cuộc đời. Đúng hơn thiền cho phép ta đào sâu vào cuộc sống và tất cả mọi khía cạnh của nó để ta có thể vượt qua rào cản của cái đau, thoát khổ. Thiền đi thẳng vào thực tại.
Thứ 6: Thiền là cách tốt nhất để luôn cảm thấy bình an.
Thực ra: Thiền đôi khi cũng tạo cho ta cảm giác đầy bình an, tĩnh lặng – nhưng đó không phải là mục đích để hành thiền và không phải lúc nào điều đó cũng xảy ra. Hơn nữa, nếu chúng ta hành thiền với mục đích đó trong tâm thì nó lại ít khi xảy ra hơn là khi ta thiền với mục đích thực sự của thiền, đó là làm tăng sự tỉnh thức.
Thứ 7: Thiền là ích kỷ.
Thực ra: Chúng ta ích kỷ nhiều hơn là mình tự nhận biết. Tự ngã luôn có cách để biến những hoạt động cao cả nhất thành rác rưởi nếu nó được phép. Qua thiền, chúng ta trở nên ý thức về bản thân đúng như nó là, bằng cách nhận ra các hành vi vi tế mà chúng ta làm do tính ích kỷ của bản thân. Từ đó ta mới thực sự bắt đầu tính vô ngã. Thanh tịnh bản thân khỏi tâm ích kỷ không phải là một hành động ích kỷ.
Thứ 8: Thiền là ngồi suy tưởng viễn vông.
Thực ra: Giống như sự tĩnh lặng, bình an, những tư tưởng viễn vông, xa vời cũng có thể phát khởi trong lúc chúng ta hành thiền. Dĩ nhiên, ta không cần phải tránh né chúng – nhưng cũng đừng tìm kiếm chúng. Chúng cũng chỉ là các dư phẩm dễ chịu của thiền. Điều gì khởi lên, sẽ khởi lên. Chỉ đơn giản thế thôi.
Thứ 9: Thiền sẽ giúp mọi phiền não qua đi.
Thực ra: Rất tiếc thiền không phải là thuốc trị bá bệnh nhanh chóng. Có thể chúng ta nhận thấy một số thay đổi ngay, nhưng các hiệu quả thực sự sâu xa cần nhiều thời gian thực hành. Đó là cách mọi thứ trên vũ trụ này vận hành. Không có gì đáng giá được thực hiện qua đêm. Kiên nhẫn là chìa khóa. Nếu chúng ta không học được gì từ thiền, ít nhất ta sẽ học được tính kiên nhẫn. Bất cứ sự chuyển hóa thâm sâu nào cũng cần kiên nhẫn.
(Trích dịch từ sách START HERE, START NOW)