Chương 48, 49 CHƯƠNG TRÌNH TÌNH BÁO SARGASSO-KHU NGHỈ MÁT NÚI ELK-MONTROSE, COLORADO-
Harvath gác máy trong nỗi ngờ vực cay đắng. Anh không hề biết tổng thống nói chuyện với ai trong khi bắt anh phải giữ máy chờ nhưng khi Ruth Ledge trở lại đường dây của anh, ông bực bội khủng khiếp và cuộc nói chuyện của họ trở nên tồi tệ.
Tổng thống nói trắng với anh là anh phải hoàn toàn đứng ngoài cuộc điều tra và khi Harvath từ chối ông ta nói rằng, ông ta không còn lựa chọn nào và phải bắt anh vì tội phản quốc.
Phản quốc? Harvath bị sốc. Tại sao nỗ lực cứu mạng những người quan trọng với anh, những người là người Mỹ lại có thể là một hành động phản quốc được?
Tổng thống cho anh hai mươi tư tiếng để trở về Washington và tự đến. “Và nếu tôi không” Harvath đã hỏi thế.
“Vậy thì tôi không thể và sẽ không chịu trách nhiệm về sự tồn tại của anh”, Ruth Ledge đã trả lời như vậy.
Thế đấy. Ba quân cờ đã ở trên bàn và lúc này Harvath biết rõ anh đang đứng chỗ nào.
Anh kết thúc cuộc nói chuyện với Tổng thống bằng câu nói, “Tôi nghĩ, mỗi chúng ta phải làm theo những gì mà chúng ta cảm thấy đúng thôi”. Và anh gác máy. Đó là khoảnh khắc mà Harvath chưa từng lường trước. Tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã đe dọa mạng sống của anh. Thật không thể giải thích nổi – cũng như không thể giải thích nổi việc anh bị gắn cho cái mác là một tên phản quốc.
Harvath thoáng nghĩ, liệu đó có phải là cơn ác mộng hay không nhưng tình hình này lại là một thực tế cay đắng nhiều hơn.
Bây giờ, lập trường của anh rất rõ ràng. Sau nhiều năm phục vụ không tiếc mình cho đất nước anh lại bị người ta vứt đi. Trình độ chuyên môn của anh, bảng thành tích trước đây của anh, thậm chí, cả lòng trung thành của anh, chẳng khác gì những mục trên tờ thanh toán để người ta cân, đong, đo đếm và vứt đi tùy thích.
Mặc dù muốn, nhưng anh cũng không thể mang bán thân mình đến chỗ tổng thống; không phải bây giờ. Không phải vì sau khi đã được tổng thống tin tưởng nhiều lần trong quá khứ. Harvath cũng chưa từng phản bội lại lòng tin ấy. Lòng trung thành và thận trọng của anh quả là trên cả hoàn hảo nhưng rõ ràng tất cả những thứ ấy chẳng có ý nghĩa mấy nếu không muốn nói là chẳng còn chút ý nghĩa nào đối với Jack Ruth Ledge.
Harvath có cảm giác mình bị phụ bạc và bỏ rơi. Thực ra, tổng thống đã chọn bọn khủng bố chứ không phải anh. Quả là kỳ lạ.
Cứ cho là có thể như vậy, nhưng Harvath vẫn không cảm thấy vô vọng. Tổng thống có thể đe dọa bắt giữ anh vì tội phản quốc hoặc tệ hơn nhưng lời đe dọa ấy chỉ có trọng lượng nếu anh bị bắt. Và với thời hạn hai mươi tư giờ ấy có thể hiểu được việc cuối cùng anh định làm.
Nhìn xuống tập tài liệu đã để trên bàn của Tom Morgan, anh lấy ra những thông tin gần đây nhất mà anh có trước khi rời khỏi phòng họp.
Nghiên cứu danh sách các bí danh của những tên tù nhân đã được thả, anh để ý đến một cái tên anh đã từng biết trước đây nhưng nó thuộc về một người anh đã từng giết và từng chứng kiến cái chết của hắn ta. Hắn không thể nào còn sống được. Phát hiện đó chỉ có thể có nghĩa: Một kẻ nào đó đang dùng bí danh đó của hắn.
Chương 49Ba mươi tiếng sau, Harvath hỏi qua tai nghe. “Ông có lạc quan không?”.
“Có”, gã Lùn trả lời. Gã nhìn qua thông tin đó một lần. “Abdel Salam Najib là một nhân viên tình báo Syria, hắn được cho là đã dùng bí danh Abdel Rafiq Suleiman”. Najib là cái tên thứ ba trong danh sách và bí danh Suleiman vốn thuộc về một người Harvath từng giết. “Thế còn Tammam Altal?” anh hỏi.
“Cũng là tình báo của Syria và người quản lý của Najib. Đó là mối liên hệ anh đang tìm kiếm phải không?” gã Lùn hỏi.
“Có thể”, Harvath nói, anh không muốn để gã Lùn biết gì. “Tôi không muốn ông chuyển cho tôi mọi thứ liên quan đến cả Najib và Al-tal người quản lý của hắn”.
“Tôi gửi ngay đây”.
Harvath tắt máy, tháo tai nghe và quay mặt về phía các đồng nghiệp của anh.
“Anh muốn giải thích cho tôi chuyện này chứ?” Finney vừa xoắn tay ra phía sau, vừa nhìn Harvath và hỏi.
“Vào ngày 23 tháng 10 năm 1983, một chiếc xe tải đưa thư báo màu vàng Mercedes Benz chứa thuốc nổ đã được lái tới Sân bay quốc tế Beirut.
Tiểu đoàn 1, Binh chủng Lính thủy đánh bộ số 8, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 2 đã thiết lập trụ sở ở đó với tư cách là một phần của một lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia được cử đến để giám sát việc PLO[1]. “Người lái chiếc xe tải đi quanh chỗ đỗ xe ngay bên ngoài khu Lính thủy đánh bộ rồi bước đến chỗ chứa gas. Hắn lao qua hàng rào dây thép gai bao quanh khu đỗ xe, bay vào giữa hai trạm lính gác, xuyên qua một cái cổng và đâm vào hành lang của khu nhà”.
“Sao bọn lính gác không bắn gã ngốc này?” Finney hỏi.
“Họ không được phép dùng đạn thật”, Parker trả lời. Hôm đó ông đã mất một người bạn thân. “Các chính trị gia lo ngại xả súng vô tình có thể giết chết dân thường”.
Khi Parker không nói thêm gì nữa, Harvath tiếp tục: “Theo lời một Lính thủy đánh bộ sống sót trong vụ tấn công, tên lái xe này đã mỉm cười khi hắn lái chiếc xe tải vào tòa nhà”.
“Khi bắn cho nổ, sức nổ tương đương với trên sáu nghìn cân thuốc nổ TNT. Phải mất nhiều ngày cứu hộ và đội cứu hộ liên tục gặp phải làn đạn của những tay bắn tỉa. Cuối cùng, 220 lính thủy đánh bộ, mười tám nhân viên hải quân và ba quân nhân đã bị giết. Sáu mươi người Mỹ khác bị thương. Đó là số lượng Lính thủy đánh bộ bị giết lớn nhất chỉ trong một ngày kể từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai và cuộc chiến của Iwo Jimo. Đó cũng là cuộc tấn công gây chết người nhiều nhất đối với các lực lượng của Mỹ ở nước ngoài trong giai đoạn Hậu Chiến tranh Thế giới thứ II nhưng điều thú vị nhất xét từ quan điểm chống khủng bố là cuộc tấn công vào khu Thủy quân Lục chiến là cuộc đánh bom chết người thực sự đầu tiên trong lịch sử.”
Finney không nói nên lời. Ông đã quen với những cuộc tấn công trong lịch sử, nhưng không phải với những chi tiết thực tế khủng khiếp thế này.
“Chúng ta không bao giờ biết chính xác là ai chịu trách nhiệm về việc này vì vậy ngoài một vài quả đạn chúng ta đã bắn ở Syria, chẳng bao giờ có câu trả lời chính xác” Harvath khẳng định. “Bây giờ, nhanh chóng tìm hiểu về giai đoạn cách đây năm năm và một người đàn ông tên là Asef Khashan”.
“Khashan cực kỳ giỏi về chiến tranh du kích và cách sử dụng chất nổ do đã được đào tạo tình báo ở Syria”.
“Hắn là một tên trong lực lượng tiên phong thuộc tổ chức khủng bố Hezbollah ở Lebanon và chỉ phải báo cáo trực tiếp lên Damacus. Khi Mỹ phát hiện ra thông tin hắn có liên quan trực tiếp đến khâu lập kế hoạch và bày ra cuộc đánh bom năm 1983, họ quyết định đã đến lúc phải cho hắn về hưu non”.
Parker nhìn Harvath và nói, “Và anh đã được cử tới để giết hắn”.
Harvath gật đầu.
Finney giơ tay gỡ cái bút giắt ở sau tai. Chỉ vào màn hình ở phía trước căn phòng ông nói, “Có nghĩa là Najib này đã theo anh sau những gì anh làm với Khashan?”
“Nếu tôi không nhầm”, Harvath nói, “Thì đại loại là như vậy”.
“Anh nói đại loại là ý gì?”.
“Mối liên hệ thực tế giữa Najib và Khashan là qua người quản lý của chúng, Tammam Al-Tal. Khashan là một trong những mật vụ giỏi nhất của hắn. Một số người nói với Al-Tal hắn giống như một đứa con trai. Khi Khashan bị giết Al-Tal đã treo thưởng cái đầu tôi”.
“Nếu đây là một chiến dịch ngầm làm sao hắn biết là anh có liên quan?”.
“Chúng tôi đã sử dụng một sỹ quan quân đội Syria mà người Mỹ trả lương để giúp theo dõi Khashan”, Harvath trả lời. “Tôi không bao giờ cho hắn biết tên thật của tôi, nhưng hắn có một bộ hồ sơ về tôi kèm theo ảnh theo dõi và một số thông tin khác từ các cuộc họp của chúng ta. Không lâu sau hắn bị kết tội tham ô và hắn đã dùng hồ sơ này làm tấm thẻ để giảm tội. Cuối cùng, hồ sơ này rơi vào tay Al-Tal và hắn ta dùng toàn bộ nguồn tin hắn có để so sánh với những tấm ảnh của tôi. Kết cục là như vậy”.
“Al-Tal có liên quan gì đến cuộc tấn công không?” Parker hỏi.
“Chúng ta không bao giờ có thể phát hiện ra đủ chứng cứ để chứng minh liệu hắn có liên quan trực tiếp hay không. Tuy nhiên, có cả đống bằng chứng về việc Al-Tal giúp hợp tác bán vũ khí giết người hàng loạt mà Saddam Hussein cất giấu ở đất nước chúng ngay trước khi chúng ta xâm chiếm”.
“Hắn treo thưởng anh bao nhiêu?”.
“Đâu đó khoảng 150.000 đô la Mỹ”, Harvath trả lời. “Đó là số tiền tiết kiệm cả đời của Al-Tal và vì hắn sẵn sàng chi khoản tiền tiết kiệm cả đời nói trên vào việc thuê người hại tôi nên Washington đã loại trừ Syria và Lebanon ra khỏi phạm vi hoạt động của tôi”.
“Có vẻ như chúng ta đã có quá đủ lý do để tin rằng Al-Tal chính là kẻ đứng sau những vụ tấn công vào Tracy, mẹ anh và đội trượt tuyết”, Finney nói. “Anh có biết hắn ở đâu không?’.
“Hắn đang điều trị ung thư phổi giai đoạn bốn ở Jordan”.
“Cái chết cận kề”, Parker khẳng định, “Có lẽ hắn càng quyết tâm muốn loại trừ anh”.
Harvath gật đầu như thể muốn nói, Có thể.
“Vậy những bí danh của Najib có liên quan gì tới Al-Tal?”.
Harvath nhìn sang Parker. “Abdel Rafiq Suleiman vốn là bí danh mà Khashan sử dụng khi tôi đuổi theo hắn tới một căn nhà an toàn của Hezbollah ở ngoại ô Breiut”.
“Rồi sao?”.
“Al-Tal cho Khashan bí danh đó”.
“Việc sử dụng lại bí danh không có gì là lạ”, Morgan lên tiếng.
“Trong một số trường hợp phải mất rất nhiều thời gian và tiền bạc để xây dựng đấy. Nếu một điệp viên quý giá có hồ sơ không quá cao, một cơ quan hoặc người quản lý nào đó có thể quyết định chuyển bí danh đó cho một điệp viên khác”.
Lúc ấy, Harvath biết chính xác anh sẽ hạ Abdel Salam Najib thế nào. Anh sẽ khiến người quản lý của hắn phải cho hắn lên bàn thờ.
Chú thích:
[1] PLO: Tổ chức giải phóng Palestine rút quân khỏi Lebanon.