ĐỂ KẾT THÚC ❖ 1 ❖
Hầu hết những cuốn sách phương Tây về Điện Biên Phủ mà tôi được đọc đều dành không ít trang viết về lịch sử Việt Nam, đặc biệt là cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước từ khi Việt Nam bị Pháp đô hộ. Rõ ràng những nhà nghiên cứu đều thấy rõ Điện Biên Phủ chỉ là sự kết thúc của cuộc chiến đấu chống chiến tranh xâm lược lần thứ hai của đế quốc Pháp với Việt Nam sau khi dân tộc ta đã giành lại được độc lập từ tay phát xít Nhật tháng 9 năm 1945.
Như trên đã nói: Từ những năm đầu thập kỷ 20 thế kỷ trước, người cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã thấy người dân Việt Nam đang chết dần chết mòn dưới gông cùm thuộc địa, không thể chờ “cách mạng vô sản ở chính quốc [nước Pháp] thành công để giải phóng cho mình”, chỉ còn cách duy nhất cứu đất nước là : “ Đem sức ta mà giải phóng cho ta!”. Ông đã lần lượt tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội năm 1925, Đảng Cộng sản Viêt Nam năm 1930 và Việt Minh năm 1940.
Thành lập Mặt Trận Việt Minh là một sáng tạo thiên tài của Nguyễn Ái Quốc. Việt Minh, một cái tên mới, không dễ hiểu, với người đứng đầu : “Ông Ké” , “Già Thu” , “Hồ Chí Minh”…hoàn toàn xa lạ ngay cả với người Việt Nam, nói chi tới quốc tế. Alain Ruscio kể lại năm 1946, sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, khi chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm nước Pháp, báo L’Humanite của Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu tên Bác là “Hichi Minh”, báo Figaro là “Ho Chi Ming”, báo LeMonde là “Ha Chi Minh”.
Đây là quyết định nói lên đầy đủ bản lĩnh, tầm nhìn sâu sắc tình hình mọi mặt của một thế giới đang vô cùng biến động, sự lựa chọn yếu tố quyết định có thể giúp cho những người cách mạng chỉ có đôi bàn tay trắng có thể giành lại sơn hà và sự tự tin hiếm có của một thủ lĩnh cách mạng. Hai chữ Việt Minh đã mang lại sức mạnh thần kỳ là thức tỉnh tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp người Việt Nam từ hang rừng Cao Bắc Lạng đến bưng biền Cà Mau, từ nông thôn đến thành thị tạo nên một khí thế cách mạng trước đây chỉ có trong giấc mơ. Chúng ta không quên sự lo lắng của không ít người làm cách mạng lúc đó là nhân dân ta qua hàng ngàn năm dựng nước đã có một truyền thống thượng võ, nhưng sau gần một trăm năm bị đô hộ, liệu lúc này tinh thần đó có còn không? Cũng có người cho rằng muốn cứu nước lúc này chưa phải là lúc đánh đuổi ngoại xâm, mà là nâng cao dân trí vì chế độ phong kiến, thuộc địa đã kìm hãm dân ta ở một trình độ quá thấp. Chính Nguyễn Ái Quốc cũng đã từng có lúc nhận xét: “Nước Việt Nam sẽ nguy mất nếu lớp thanh niên không sớm hồi sinh!”
Việt Minh là cụ thể hóa bước đầu tư tưởng vũ trang cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện trong cương lĩnh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Từ sau ngày Bác về nước năm 1941, một Mặt trận Đại đoàn kết dân tộc Việt Nam thực sự hình thành, phong trào tổng khởi nghĩa toàn dân giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc bùng phát khắp đất nước, đưa người dân vào tổ chức, vào hành động. Có thể nói từ đây xuất hiện thế hệ Hồ Chí Minh.
Ba năm sau, tới ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tháng 12 năm 1944, Bác nói : “ cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”. “ chiến thuật vận dụng là cách đánh du kích” . “Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội quân đàn em khác… Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”. Ở đây, rõ ràng là Bác đã thành lập một đội quân đầu tiên chứ không phải là “một đội du kích” như những đội du kích tiền thân khác của quân đội cách mạng.
Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính là cương lĩnh của phong trào chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Ta đã biết: “cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, toàn diện và trường kì với cách đánh du kích”. Đây chính là đường lối chiến lược của cuộc kháng chiến. Sau này, tùy theo tình hình phát triển của chiến tranh, có thời gian ta thêm những chữ “tranh thủ viện trợ quốc tế” hoặc “dựa vào sức mình là chính”. Suốt ba mươi năm chiến tranh giải phóng Tổ quốc, đường lối chiến lược chiến tranh không hề thay đổi, đã trở thành ý nghĩ và niềm tin, máu thịt của mọi người dân.
Sau này, người ta mới thấy sự chuẩn bị công phu, sâu sắc và dũng cảm của Người cho những điều tưởng chừng như dễ hiểu và đơn giản này.
Đối với những nhà nghiên cứu về quân sự vào thời đó, thì những vấn đề Bác đưa ra không phải không có gì để tranh cãi. Những từ chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng lúc này còn rất mới. Nhiều năm sau đó, một nhà nghiên cứu người Pháp viết một cuốn sách phân tích về ba loại hình chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng, chiến tranh du kích và đi tới kết luận ba loại hình chiến tranh này về thực chất chỉ là một, là chiến tranh cách mạng. Riêng về “chiến tranh toàn dân” là một điều rất mới. Nhiều người cho rằng không thể phát động một cuộc chiến tranh toàn dân. Có lập luận không thể tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân, vì chiến tranh là hoạt động đặc thù của những lực lượng vũ trang, người dân phải đứng ngoài hoạt động này và tính mạng của họ phải được hết sức tôn trọng. Có nhà lý luận về quân sự cho rằng :“ Chiến tranh không phải là một cuộc hội hè để ta đưa dân chúng tới dạo chơi dài ngày”. Nhưng người ta nói nhiều là không thể có điều kiện để thực hiện một cuộc chiến tranh toàn dân.
Chiến thuật Bác lựa chọn là “chiến tranh du kích”. Đây là vấn đề gây tranh cãi bậc nhất. Chiến tranh du kích chưa bao giờ mang lại thắng lợi hoàn toàn cho một dân tộc đấu tranh đánh đuổi bọn thống trị. Nhưng sự tranh cãi hồi đó tập trung vào khả năng sử dụng chiến thuật du kích tại Việt Nam. Claodơvit, một nhà triết học về chiến tranh, đã phân tích rất hay về chiến tranh du kích trong tác phẩm “ Bàn về chiến tranh” của mình, đã nhận xét: “Để tiến hành chiến tranh du kích phải có không gian rộng lớn như nước Nga”. Ngay cả Mao Trạch Đông, một người được coi là người thầy của chiến tranh du kích hiện đại, cũng nhận xét: “Muốn tiến hành chiến tranh du kích phải có không gian rộng lớn, những nước nhỏ như Bỉ không thể tiến hành chiến tranh du kích”. Những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, khi phát xít Nhật chuẩn bị đổ bộ vào Việt Nam, không ít báo chí ở Việt Nam thời đó đã giễu: “Nếu Việt Nam bị phát xít Nhật tiến công thì ta sẽ áp dụng chiến thuật rút sâu vào nội địa”!
Còn vấn đề “đánh lâu dài”. Các nhà lý luận kinh điển về chiến tranh ,đều không chủ trương đánh lâu dài. Người nói sớm nhất có lẽ là Tôn Tử. Tôn Tử nói : “Chỉ nghe thấy dùng binh phải thắng nhanh, chưa từng nghe đến việc khéo léo kéo dài để giành thắng lợi. Chiến tranh lâu dài mà có lợi cho quốc gia là điều không hề có xưa nay. (…) Người khéo dùng binh không gọi lính hai lần, không tải lương ba lượt”.
Chắc chắn, Bác rất hiểu rõ những điều này. Có người phân vân vì sao khi về nước, Bác chỉ đem theo một tác phẩm quân sự duy nhất là cuốn “ Tôn Tử binh pháp”. Nhiều điều có tính cách chiến lược Bác lựa chọn cho cuộc đấu tranh vũ trang của ta, ví như “đánh lâu dài” , “lấy yếu đánh mạnh, lấy ít đánh nhiều”… đã bị chính Tôn Tử bác bỏ. Nhưng chắc Bác đã suy tính rất nhiều và có những lý lẽ của mình. Bác vẫn tự tay dịch cho cán bộ đọc, vì những người làm quân sự không thể không đọc cuốn sách này. Và chắc chắn Bác đã có lý do vì sao có những điều mình không làm theo Tôn Tử, vì cuộc chiến tranh thời Tôn Tử đã diễn ra cách đó năm ngàn năm. Và thực ra, trong chiến tranh, chúng ta đã làm không ít điều Tôn Tử đã nói, như “phải biết địch biết ta”, “đánh chắc thắng”… Đặc biệt , có một điều Bác hầu như không bao giờ bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào, là tìm mọi cách để từng bước giành độc lập, thống nhất cố tránh một cuộc chiến tranh tàn khốc, kéo dài.
Có thể nói trên đường đi tìm cách chữa căn bệnh nan giải của dân tộc, cuối cùng, Bác đã phải chọn nhiều vị “độc dược”. Chúng cực kỳ nguy hiểm cho người bệnh, nhưng nếu dùng được thuốc đắng này thì mới có cơ khỏi bệnh.
Chúng ta đã phải chọn những phương thuốc đắng khó nuốt nhất, vì chúng ta cần đánh thắng một kẻ thù bội phần mạnh hơn, chưa từng có trong lịch sử. Nếu như chỉ đơn thuần so sánh về lực lượng thì trận đánh không thể diễn ra. Thiên tài của Nguyễn Ái Quốc là đã tìm ra những phương thức đấu tranh có thể mang lại hiệu quả. Nhưng đây mới chỉ là những điều nằm trong tính toán của người. Có thể thực hiện được một cuộc chiến tranh toàn dân không? Có thể thực hiện được một cuộc chiến tranh du kích trong một nước không rộng người không đông khi kẻ thù đã có mặt khắp nơi? Có thể duy trì một cuộc chiến lâu dài cho tới ngày toàn thắng trước một kẻ thù mạnh hơn ta cả một giai đoạn phát triển lịch sử…? Chính bác cũng đang cùng cả dân tộc tìm câu trả lời. Người đang thực hiện với tinh thần quả cảm của một cuộc chơi mang ý nguyện bình sinh của mình. Tất cả những câu trả lời còn nằm ở phía trước.
Một yếu tố dẫn tới thành công là những chủ trương này được đưa ra rất đúng lúc. Bác chỉ nói tới cuộc kháng chiến toàn dân, khi trên cả nước , từ Bắc chí Nam, người dân đã tập hợp dưới cờ Việt Minh, trong một Mặt trận đại đoàn kết dân tộc, với nộ khí xung thiên, sẵn sàng lên đường đòi nợ nước, trả thù nhà. Đồng bào ta cũng đã có dịp tập dượt từ năm 1940 qua khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Ba Tơ và một thời gian dài chuẩn bị võ trang Tổng khởi nghĩa, đặc biệt là tại núi rừng Việt Bắc, trước Cách mạng tháng Tám, và tiếp đó là một năm kháng chiến tại nửa nước miền Nam.
Nếu trên đây có nói những chủ trương về kháng chiến của ta vào thời đó có thể gây ra những điều tranh cãi về mặt lý luận, nhưng trong thực tiễn, nó đã được toàn dân tiếp thụ ngay từ đầu một chân lý, và cùng với thời gian, chân lý đó ngày càng khẳng định tính chính xác, tính hiệu quả của nó. Và đây chính là điều vô cùng quan trọng bảo đảm cho tính bền vững phát triển của nó trong suốt quá trình ba mươi năm chiến tranh.
Vì thấm nhuần những tư tưởng cơ bản của cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng Tổ Quốc, nên chúng ta đã chiến thắng trong cuộc tổng giao chiến đầu tiên với quân Pháp tại khắp các thành phố. Mặc dầu, chúng ta chưa tìm ra những phương thức cụ thể để phát động một cuộc chiến tranh toàn dân nhưng mọi người dân đều có ý thức với kháng chiến. Tất cả nhân dân Liên khu 1 lọt giữa vòng vây đều tình nguyện trở thành “chiến sĩ quyết tử”. Nhiều thành phố đông vui chỉ còn lại những ngôi nhà, đường phố trống vắng khi bộ đội ra rút đi. Không đầy một năm sau ngày kháng chiến tàn quốc, cuộc tiến công chiến lược của quân Pháp vào căn cứ địa Việt Bắc nhằm kết thúc chiến tranh đã bắt đầu,nhưng cũng chính lúc này chiến lược chiến tranh toàn dân đã hình thành, một mặt trận chiến tranh toàn dần bắt đầu được triển khai, không chỉ làm thất bại về cơ bản cuộc tiến công chiến lược của kẻ thù mà còn làm thất bại vĩnh viễn chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của chúng.
Sau chiến dịch Việt Bắc, mặc dù địch đã chiếm đóng hầu hết những thành phố , thị xã trên đất nước ta, lực lượng vũ trang và nhân dân ta gặp rất nhiều khó khăn vì những cuộc càn quét và chính sách bao vây kinh tế của địch, nhưng lại là lúc chúng ta thấy dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, nhưng nhất định nhân dân ta sẽ chiến thắng.
Vì cuộc kháng chiến toàn dân không chỉ còn là mơ ước của những nhà lãnh đạo cuộc kháng chiến mà đã có trở thành một mặt trận mỗi ngày một mạnh mà kẻ thù không có cách nào đối phó.
Mặt trận chiến tranh toàn dân đã làm thay đổi tất cả. Nó làm thay đổi về cơ bản chiến tranh du kích cổ điển vốn cần có không gian rộng lớn, nó cho phép ta thành lập những vùng sau lực địch với những phương thức khác nhau, những khu di tích, khu căn cứ du kích, những làng kháng chiến, những “làng tề cứu quốc”, những căn cứ bí mật… Nó cho phép các chiến sĩ du kích của ta “xoay vần với địch” chiến đấu ngay trên quê hương mình. Với tinh thần chiến tranh toàn dân, cách đánh địch của ta trở nên muôn hình vạn trạng, có tiếng súng và không có tiếng súng, cái chết đe dọa khắp nơi, nhưng không thể phòng bị vì đây là cuộc chiến tranh không có mặt trận.
❖ 2 ❖Những người tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam đều phân vân trước một số thuật ngữ đã từng xuất hiện trong chiến tranh của ta, như chiến tranh du kích tại chỗ, du kích vận động chiến, du kích trận địa chiến…
Chiến tranh du kích chiếm vị trí cơ bản trong suốt hai cuộc kháng chiến. Du kích là một từ Hán Việt được hiểu theo từ ngữ là “đi và đánh”. Mao Trạch Đông đã định nghĩa : “Du kích là ‘đi để đánh’.”. Đi nhiều hơn đánh. Đi từ biển lên rừng, từ rừng xuống biển. Nguyên tắc của chiến tranh du kích là lấy số đông đánh số ít. Và Mao cho rằng trong điều kiện chiến tranh hiện đại rất khó tiến hành chiến tranh du kích tại các thành phố. Engels cũng đã nói điều tương tự.
Không riêng Claudơvit, Mao Trạch Đông cũng cho rằng muốn áp dụng một chiến thuật du kích phai có không gian rộng lớn. Ông cho rằng: một nước nhỏ như nước Bỉ không có điều kiện để tiến hành chiến tranh du kích.
Khi ở nước ngoài Bác đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về chiến tranh chống Nhật của Hồng quân Trung Hòa, chiến tranh du kích chống phát xít Đức ở Pháp, ở Nga trong chiến tranh thế giới thứ hai. Bác đã dành thời gian soạn thành mấy tập sách nhỏ về “ Chiến thuật du kích”. Trong cuốn đầu tiên, in năm 1942 ở khu căn cứ, Bác không nêu lên định nghĩ về chiến tranh du kích. Cuốn thứ hai, hiện nay chưa tìm thấy. Cuốn sách thứ ba “Chiến thuật du kích”, (xuất bản tháng 5 năm 1944), đã được Bác chỉnh sửa, mở đầu có đoạn định nghĩa “ Du kích là gì ?” (Chương 1). Bác viết :
“Du kích là đánh úp hay đánh lén, đúng lúc kẻ thù không ngờ, không phòng. Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Đế quốc có khí giới tốt, có quân đội đàng hoàng; quân du kích không có khí giới tốt, chưa thành quân đội đàng hoàng, nhưng quân du kích được dân chúng ủng hộ, thuộc địa hình, địa thế, khéo lợi dụng đêm tối, mưa nắng, khéo xếp đặt kế hoạch, nên quân du kích vẫn có thể đánh được đế quốc. Chuyến này, chúng ta vũ trang khởi nghĩa đánh Tây, Nhật, chính là dùng lối đánh du kích mà đánh. Biết đánh du kích thế nào cũng thắng lợi.”
Trong định nghĩa này, cũng như trong toàn bộ các cuốn sách Bác đã viết về chiến thuật du kích, Bác hoàn toàn không đề cập tới nhu cầu “không gian rộng lớn cho chiến tranh du kích”, không nói du kích là “đi để mà đánh”, nhất là phải đi thật xa, và tuyệt nhiên không nói đến du kích là “lấy số đông đánh số ít”. Bác chắn đã tìm hiểu rất kỹ về loại hình chiến thuật này qua các nhà lý luận bậc thầy. Nhưng rõ ràng là Người nghiên cứu một cách có chọn lọc, và khi về nước, người đã bỏ ra nhiều công sức vận dụng nó vào chiến tranh Việt Nam, và chỉ nói khi cần thiết, tức là khi bắt tay vào làm.
Một yếu tố dẫn tới thành công này, là những chủ trương này được đưa ra rất đúng lúc. Bác chỉ nói tới cuộc kháng chiến toàn dân, khi trên cả nước, từ Bắc chí Nam, người dân đã được tập hợp dưới cờ Việt Minh, sẵn sàng lên đường đòi nợ nước, trả thù nhà. Hơn thế, nhân dân ta đã trải qua những thời kỳ tập dượt, trong khởi nghĩ Nam Kì, khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Ba Tơ và một thời gian dài tập dượt tại núi rừng Việt Bắc và tiếp đó là một năm kháng chiến tại miền Nam.
Và những đường lối kháng chiến khi vận dụng vào thực tiễn chiến đấu ngay từ đầu đã chứng minh tính chính xác, tính hiệu quả của nó.
Nếu trên đây có nói những chủ trương về kháng chiến của ta vào thời đó có thể gây ra những điều tranh cãi về mặt lý luận, nhưng trong thực tiễn, nó đã được toàn dân tiếp thụ ngay từ đầu như một chân lý, và cùng với thời gian, chân lý đó ngày càng được khẳng định.
Vì thấm nhuần ý thức với những tư tưởng cơ bản của cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng Tổ Quốc, nên chúng ta đã chiến thắng trong cuộc tổng giao chiến đầu tiên với quân Pháp tại khắp các thành phố. Mặc dầu, chúng ta chưa tìm ra những phương thức cụ thể để phát động một cuộc chiến tranh toàn dân, nhưng mọi người dân đều có ý thức với kháng chiến. Tất cả nhân dân Liên khu 1 giữa vòng vây đều tình nguyện trở thành “chiến sĩ quyết tử”. Nhiều thành phố có quân địch chỉ còn lại những ngôi nhà, đường phố trống vắng khi bộ đội ta rút đi. Không đầy một năm sau ngày kháng chiến toàn quốc, cuộc tiến công chiến lược của quân Pháp vào căn cứ địa Việt Bắc nhằm kết thúc chiến tranh đã bắt đầu, nhưng cũng chính lúc này chiến lược chiến tranh nhân dân đã hình thành, một mặt trận chiến tranh toàn dân bắt đầu được triển khai, không chỉ làm thất bại về cơ bản cuộc tiến công chiến lược của kẻ thù mà còn làm thất bại vĩnh viễn chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của chúng.
Sau chiến dịch Việt Bắc, mặc dù địch đã chiếm đóng hầu hết những thành phố, thị xã trên đất nước ta, lực lượng vũ trang và nhân dân ta gặp rất nhiều khó khăn vì những cuộc càn quét và chính sách bao vây kinh tế của địch, nhưng lại là lúc chúng ta thấy dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, nhưng nhất định nhân dân ta sẽ chiến thắng.
Mặt trận chiến tranh toàn dân đã làm thay đổi tất cả. Nó đã làm cho thay đổi về cơ bản chiến tranh du kích cổ điển vốn cần có không gian rộng lớn để hoạt động, nó cho phép ta thành lập những vùng sau lực địch với những phương thức khác nhau, những khu du kích, khu căn cứ du kích, những làng kháng chiến, những “làng tề cứu quốc”, những căn cứ bí mật… nó cho phép các chiến sĩ du kích của ta “xoay vần với địch” chiến đấu ngay trên quê hương mình. Với tinh thần chiến tranh toàn dân, cách đánh địch của ta trở nên muôn hình vạn trạng, có tiếng súng và không có tiếng súng. Có thể đọc một trang nhật ký của một sĩ quan ngụy viết về một trận đi càn của mình ở vùng hậu dịch.
“…12-12-1953.
Mình lại qua một Thu Đông thứ hai tại cái đất chết tiệt này!
Từng làng, từng làng san sát. Khó khăn cho những thằng “buôn máu”, “bán xác” là các làng ấy đều bao bọc bằng đồng chiêm. Tất cả bọn người địa phương không thể tin một đứa nào, dù già , trẻ ,toét, ốm… Đúng mùa lúa con gái đang trỗi dậy, hãy coi chừng trên khoảng ruộng xanh rì ấy… Thằng bé con đang nhặt cỏ, đúng là tên cảnh giới đang làm nhiệm vụ viễn tiêu. Dù chỉ một câu nói bâng quơ “ Trâu ai ăn lúa nhà tôi thế này?” cũng chớ có bỏ qua. Cẩn thận ! Có thể là một ám hiệu, một cách báo tin để chuẩn bị… Thấy nơi nào bề ngoài ngoan ngoãn nhất là nơi ấy có một cuộc hò hẹn của “đổ máu” và “giết chóc”.
Tiến quân vào giữa lúc oi ả, đừng nên chọn nơi râm mát, và nếu có thể nên đi trà trộn vào bọn tù.
Gặp địch, hò hét nhiều là vũ khí ít, đánh rụt rè, dành đường ta tiến, ấy là lực lượng của chúng có thừa, sắp nuốt chửng mình.
Đứng trước bọn cuồng tín, tham chết hơn đầu hàng (theo lời đại tá Nemo) phương châm chính của ta là dùng “tư tưởng chiến thuật” hơn “hỏa lực chiến thuật”.
Những ao rau muống sát lũy tre nếu cho lính xuống khua… rất có thể ở giữa có một cái ống lớn như ống cống ở Hà Nội, chui vào cái ống đó lặn chừng ba bốn mét sẽ lọt thỏm vào một gốc tre, đấy là hầm chiến đấu theo từng tổ tam tam chế.
Phải chú ý nghiên cứu cái chiến thuật phục kích “cắt ngang khóa đít”, chiến thuật mới nhất của “Vẹm” mới được… (1) ”.
Mặt trận chiến tranh toàn dân đã biến cuộc kháng chiến hữu hình thành vô hình, một cuộc chiến tranh như người Pháp gọi là “không có mặt trận”. Những anh vệ quốc quân đã bỏ bộ quân phục màu xanh chuyển sang những bộ tiện y màu đen, màu nâu hòa vào với nông dân ở từng vùng. Quân địch có thể chiếm được những vùng đất đai rộng lớn, với cả một số dân chúng, nhưng chúng không tin những người xuất hiện trước mũi súng là những người chúng đã kiểm soát.
Chiến tranh toàn dân hầu như đã bớt cho ta một giai đoạn phòng ngự gay gắt trong chiến lược chiến tranh lâu dài. Chúng ta đã không phải tiến hành một cuộc rút lui chiến lược, vì thực ra ta cũng không còn đất để rút, đại bản doanh của ta và của địch suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, chỉ cách nhau 100 kilomet.
Chúng ta có thể hiểu vì sao để chọn người chỉ huy đội quân đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đã không tìm ai khác, mà chọn chính người đã được Bác đào tạo trực tiếp cho nhiệm vụ quan trọng này. Ngay từ khi mới gặp Võ Nguyên Giáp ở Vân Nam, Trung Quốc , người đã có ý định đưa anh lên Diên An học tập quân sự. Nhưng rồi Người thay đổi ý kiến, đưa anh sớm trở về nước để trực tiếp rèn luyện ngay trong thực tế chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Anh là một cán bộ xuất sắc trong xây dựng cơ sở cách mạng ở Cao Bắc Lạng, một người đã gắn bó với nhân dân trong cuộc đấu tranh chống khủng bố trắng của kẻ thù, anh là người đã xây dựng con đường Nam tiến nối liền Cao Bắc Lạng với vùng xuôi, và anh chính là người phụ trách đội quân bé nhỏ đầu tiên, đội quân đàn anh, mà Bác mong sao sẽ có những đội quân đàn em khác. Trong khi đi tìm đường cứu nước, Bác đã thấy những người hiểu mình nhất chính là những người cùng cảnh ngộ với mình, những con người không bị ràng buộc bởi những giáo lý của quá khứ, họ sẽ là người sẽ cùng mình vừa khai phá ra con đường giành lại đất nước , vừa thực hiện một cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn để giành lại đất nước mà tất cả những đáp số còn ở cả phía trước. “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”, “Bao nhiêu sức mạnh là ở dân”, “Có dân thì có tất cả”… Ở trường hợp này, người viết muốn bạn đọc nhớ lại lời Lão Tử :
“Cái ngay thẳng tối cao giống như quanh co.
Cái khéo léo tối cao giống như vụng về.
Sự hùng biện tối cao giống như ngọng nghịu”.
❖ 3 ❖
Quân đội ta ngay từ khi xuất hiện trong những trận đánh những trận đầu tiên ở Cao Bằng thời kỳ tiền khởi nghĩa tại Cao Bằng sau ngày thành lập 22 tháng 12 năm 1944, đã được nhà sử học Pháp Philippe Devillers nhận xét như sau trong cuốn “Lịch sử Việt Nam”: “Trong khoảng thời gian tháng 11 (2) , những trận đánh mới của Việt Minh vào các đồn binh Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu, Quảng Uyên. Những trận đánh này nhằm mục đích thu vũ khí và tác động đến tinh thần dân chúng, nhưng theo một báo cáo của Pháp, đã được thực thi ‘với một kỹ thuật hoàn hảo, bình tĩnh và có phương pháp’, ‘bộ đội Việt Minh đã được điều khiển bằng những chỉ huy hiểu biết nghiêm túc về chiến tranh du kích, và người thừa hành được giáo dục tốt, có kỷ luật và rất gan góc’ (3) ”.
Bigeard, chỉ huy Tiểu đoàn Dù 6 lê dương, Phó chỉ huy Trung tâm của tập đoàn cứ điểm, được coi là một nhân vật huyền thoại trong hàng ngũ lê dương Pháp, sau khi bi bắt ở Điện Biên Phủ về, trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Pháp. Trong chiến dịch, Bigeard đã trực tiếp chiến đấu rất quyết liệt với ta trên đồi C1, trên cánh đồng phía tây và trên sân bay. Khi được nhà sử học người Anh Peter Macdonald đề nghị đánh giá về bộ đội Việt Nam, Bigeard đã nhận xét : “Họ can đảm, thẳng thắn, thông minh, chăm chỉ.” Ông ta nói thêm với một sự xúc động chân thành: “Người Việt Nam yêu chúng tôi và chúng tôi, những người Pháp, yêu họ. Một ngày nào đó, chúng tôi sẽ cưới nhau”.
Với phương Tây, sau cuộc chiến, sự đánh giá cho từng bên tham chiến thường tập trung vào người chỉ huy cao nhất của đôi bên. Chúng ta hãy xem lại sự đánh giá của một số nhà sử học nước ngoài, đa số là quân nhân, đối với Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh của hai cuộc chiến tranh và chỉ huy trưởng của quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Peter Macdonald, một người Anh, đã phục vụ trong quân đội Anh 32 năm, tác giả nhiều cuốn sách về chiến tranh, viết:
“…Võ Nguyên Giáp đã có ba mươi năm làm tổng tư lệnh quân đội và gần năm mươi năm tham gia vào những suy tính chính trị ở cấp cao nhất: đó là hai sự kiện chưa từng có trong lịch sử. Vả lại, khó so sánh ông với những tướng lĩnh khác, sự kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy ở một trình độ như vậy trước đây cũng chưa từng có.
Giáp đã chứng tỏ những phẩm chất hiếm có trong tất cả những lĩnh vực chủ yếu về chiến tranh. Về mặt chiến lược, ông có cách nhìn sâu sắc những biến cố và biết nắm bắt những vấn đề cốt lõi…
Về chiến thuật, ông Giáp đã trở thành bậc thầy về chiến tranh du kích; về mặt đó, ông là nhà chỉ huy lớn nhất của mọi thời đại. Trong lĩnh vực chiến tranh quy ước, ông đã biết đổi mới, thí dụ như ở Điện Biên Phủ, ông đã biết sử dụng những chiến hào tiếp cận làm hao mòn hoàn toàn lực lượng phòng ngự, tiêu diệt từ cứ điểm phòng ngự này đến cứ điểm phòng ngự khác trước khi tràn ngập những cứ điểm còn lại. Hơn ai hết, ông biết cho những chiến sĩ của mình hiểu sự cần thiết và những nguyên tắc lựa chọn thời cơ thật đúng lúc, hiệu quả của bất ngờ, ngụy trang và nghi binh…
Cuối cùng, về địa hạt hậu cần, ông đã tỏ ra xuất sắc trong tất cả quá trình chiến tranh Đông Dương; nếu không làm chủ hoàn toàn về hậu cần, đã không thể có trận đánh Điện Biên Phủ. Cũng như vậy, trong chiến tranh Việt Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã cho phép tiếp tế vừa cho Quân đội nhân dân Việt Nam vừa cho Việt Cộng trong nhiều năm ròng… (5)
Trong tác phẩm của mình, Peter Macdonald, còn đề nghị đại tướng Marcel Bigeard, nguyên chỉ huy phó phân khu Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, sau này trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, bình luận về khả năng quân sự của Tướng Giáp. Bigread trả lời ông ta rất ngưỡng mộ Tướng Giáp, và nhận xét:
“Ông rút ra bài học từ những sai lầm của mình và không lặp lại chúng. Ông đã chỉ huy bộ đội giành chiến thắng trong một thời gian đặc biệt dài, đạt được điều này trong ba mươi năm là một kỳ tích chưa từng có”… (6)
Cecil B.Curry, nhà sử học Mỹ, đã dành nhiều công phu tìm hiểu về Tướng Giáp viết:
“…Ông [Võ Nguyên Giáp] không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ sẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất duy nhất của thế kỷ 20 và một trong những thiên tài lớn nhất của tất cả các thời đại… Giáp là vị tưởng duy nhất trong lịch sử hiện đại tiến hành chiến đấu chống kẻ thù từ thế vô cùng yếu, thiếu trang bị, thiếu nguồn tài chính… mà vẫn liên tiếp đánh bại tàn quân của đế chế Nhật Bản, quân đội Pháp (một đế chế thực dân số 2) và Mỹ (một trong hai siêu cường thế giới) dù Mỹ đã ném vào đó những nguồn nhân vật lực và kỹ thuật to lớn trong thời gian dài… Trong hơn ba mươi năm, từ con số không ông đã xây dựng một bộ máy chiến tranh nông dân bách thắng và ông đã làm điều đó ở một nước nghèo… Ông là động lực đằng sau mọi thắng lợi, thành tích của ông là vô song và kết quả ông thu được là phi thường. Đó chính là thiên tài quân sự…
Đối với ông không có trường sĩ quan cơ bản hoặc nâng cao, không có học viện chiến tranh mà cũng không có những “giải pháp trường lớp” mà các sinh viên quân sự thường sốt sắng tìm kiếm để họ có được sự phân công “đúng đắn”. Giáp đã giải quyết các bài toán nhưng không gặp những khó khăn mà các sĩ quan đào tạo chính thức thường gặp. Trong những năm đầu tiên, ông đã có cách giải quyết rất linh hoạt. Mỗi bài toán đều cần những đáp án mới mẻ mà có thời ông đã bảo đảm được. Trong những năm đánh Mỹ, cách giải quyết phi giáo điều của ông đã cô đúc thành một lý luận chính thức và tự nó đã tranh thủ được sự ủng hộ. Ở một khía cạnh nào đó, cái mà thoạt đầu là sự sáng tạo cao độ đã trở thành học thuyết. Khi cuộc chiến tranh và lực lượng của ông phát triển lên, Giáp đã phải huấn thị những cụm quân lớn hơn ở những cự ly lớn hơn bao giờ hết…
Giáp là bậc thầy trong việc vận dụng tính né tránh của người châu Á và hiểu rõ cách dùng các yếu tố thời gian và không gian để đối phó với phản ứng mạnh mẽ và công nghệ tiên tiến của phương Tây. Ông đã thắng. Trong lịch sử, ít người có những thành đạt quân sự sánh kịp ông (7) ”.
Trên đây toàn là những lời đánh giá tốt đẹp về đồng chí Tổng tư lệnh của ba mươi năm chiến tranh.
Nhưng vì sao cho đến nay, còn có nhiều người đã bỏ công phu nghiên cứu tìm hiểu cuộc chiến tranh này, nói là mình chưa hiểu vì sao nước Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ ?
Có thể vì người ta chưa chú ý đến những cái gọi là : “Chiến tranh toàn dân”, “Chiến tranh lâu dài”, “Cách đánh du kích (tại chỗ)”, “Du kích vận động chiến”, “du kích trận địa chiến”, “ba thứ quân”, “tìm chỗ yếu của địch mà đánh”… Đây lại là những điều mang tính quyết định trong chiến tranh vì nó là cách đánh, là biện pháp chiến tranh mà đôi bên đã lựa chọn, những điều mà Lão Tử nhận xét : “ giống như quanh co”, “giống như vụng về”, “giống như ngọng nghịu”.
Dù muốn hay không, cũng phải thừa nhận cuộc chiến này có quá nhiều đặc thù, không thể đo đếm nó bằng những thước đo cũ, càng không thể đánh giá nó theo nguyên lý thông thường. Nếu theo một nguyên lý cơ bản của chiến tranh hiện đại: chỉ cần xem so sánh lực lượng của đôi bên tham chiến, có thể biết ngay bên nào thắng bên nào bại, thì sẽ không thể có một cuộc chiến giữa Việt Nam với Pháp rồi với Mỹ. Nhưng trong thực tế, nó đã diễn ra, không phải như một biến cố tình cờ, mà như một sự kiện lịch sử trọng đại đã được các cường quốc, những bộ óc thông minh nhất của thế giới hiện đại căng óc đi tìm lời giải trong suốt ba mươi năm chiến tranh, với kết quả cuối cùng đầy nghịch lý: kẻ chiến thắng là kẻ yếu từ đầu đến cuối !
Nhưng điều Bác nói từ năm 1923 không hề chỉ là ước mơ, những việc mà có lúc Người đã ví như một trò chơi trẻ con, việc làm của những người không tưởng, chính là những gì đã được tính toán kỹ với một tư duy tự do và hoàn toàn sáng tạo, một sự tự tin và bản lĩnh phi thường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hay nhắc đến hai câu thơ của Lỗ Tấn:
Ngước mắt coi khinh ngàn lực sĩ
Cúi đầu làm ngựa bé nhi đồng.
Chú thích:
1. Nhật ký của Phong Ba, một sĩ quan ngụy. Tài liệu của tác giả.
2. Tác giả lầm. Đây là tháng 12 năm 1944. (Chú thích của người viết).
3. “Histoire du Viet Nam”. Philippe Devillers. Editions du Seuil. Paris. 1952.
4. GIAP, les deux guerres d’Indochine. Peter Macdonald. Xuất bản tại Pháp năm 1992. Trích chương: Bản Tổng kết.
5. GIAP, les deux guerres d’Indochine. SĐD. Trích chương: Bản Tổng kết.
6. Peter Macdonald, SĐD. Tr.
7. The Victory at any cost, Cecil B. Curry, NXB Brassey’S.INC, xuất bản tại Mỹ năm 1997. Trích chương “Đánh giá”.