← Quay lại trang sách

Lạc Lối

Hai hôm nay bồn chồn lo lắng cùng cư dân vùng Sacramento, dọc theo nhánh sông Delta vì hai con cá voi bơi lạc vào đấy, khổ thân chúng, biển mênh mông đẹp đẽ như thế không ở, lại chạy chi vào nhánh sông hẹp vầy nè, không biết sông có sâu đủ cho hai mẹ con nó không? Vết chém chân vịt của tầu thủy làm chúng sợ hãi bỏ biển vào sông chăng? Giòng sông đục ngầu sau bao cơn mưa xuân, nước từ kinh lạch đổ vào.

Ngày cuối tuần trời thật đẹp, dân chúng đến xem thật đông, họ mang theo các cô các cậu be bé, khoảng sáu bảy tuổi hay lớn hơn nữa, độ tuổi này các bé sẽ nhớ mãi trong đời, các hình ảnh mình đã thấy. Chiếc đuôi cá đập nước, lườn cá rẽ mặt nước vun vút, điều cảm động là chú cá con bơi sát bên cạnh mẹ, khoảng cách thật gần, cá mẹ hình như lúc nào cũng bảo bọc cho con. Điều bất thường xảy ra, luôn là đề tài cho loài người sung sướng bày tỏ lòng thương, lòng trắc ẩn và “nói như thánh” về sự việc đã xảy ra.

Truyền hình thông báo từng chút, hình ảnh hai mẹ con cá voi bơi trên dòng nước, người ta đo vận tốc, người ta dùng đủ cách để mong hướng hai mẹ con cá voi về lại biển, họ vui mừng khi hai mẹ con bơi sáu dặm một giờ, vào đúng hướng họ muốn, rồi họ buồn lo khi hai mẹ con bơi ngược hướng đứng ỳ, chung quanh hai con cá là thuyền máy nhỏ to, máy quay phim, người chụp ảnh, máy bay là đà trên không cùng bao nhiêu nhân viên tuần phòng khu vực bờ biển (coastguard).

Tôi lại lẩn thẩn nghĩ về đi lạc, sự sợ hãi làm mẹ dẫn con đi lạc, đi lạc rồi biết bao giờ mới tìm được lối để ra? Người ta có thể giải thích về duyên về nghiệp, về hạn xấu, vận tốt “con quan rồi lại làm quan, con sãi ở chùa lại quét lá đa” chăng?

Càng nghĩ càng rối, chẳng nghĩ gì mọi chuyện trở thành không. “Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi – Khó đi mẹ dắt con đi, con thi trường học mẹ thi trường đời.” Câu ru ngọt lừ lòng mẹ, ai cũng đã một lần nghe, một lần ru con như thế, nhấp nhô cùng hình ảnh cá voi con bơi sát theo mẹ.

Người bạn tôi biết, một mẹ một con, nay thêm một cháu, không có đàn ông bên cạnh. Gia đình bình an, mẹ không có chồng, con không có cha, nay con gái có mang, mẹ cùng con chăm sóc cháu, chẳng phàn nàn thắc mắc, chẳng cần che chắn đậy đặm, chẳng sợ mang tiếng mang tai, miễn sao sống không phiền đến ai. Chắc không ít người tỏ thái độ “là lạ” khi biết thế, ngay cả phán xét lung tung cả lên, dù chẳng bà con họ hàng, dù chẳng dính líu chút gì máu mủ, nhưng đàn bà không chồng có con là cả một sự bất thường trong xã hội Việt Nam, dù cho đã có câu vè “Không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường” phản kháng lề thói đã có từ lâu. Sự gần gũi ràng buộc làng xóm láng giềng, góp phần vào không biết bao nhiêu câu chuyện thương tâm nếu chẳng may người đàn bà “bất thường không chồng mà chửa.”

Ngay cả bây giờ, vẫn còn nhiều câu thắc mắc ngây ngô xoi mói, dù đã sống trong thế kỷ hai mươi mốt, thế kỷ mà người ta nghĩ đến việc, cho phép người đồng tính nhận con nuôi. Có lẽ vì con số vài tỉ người lúc nhúc trên toàn cõi địa cầu.

Có lẽ xã hội nhân bản Mỹ cho tôi cái nhìn khác ngày xưa, không đóng khung cứng ngắt trong Khổng, Nho, gia giáo, ai không muốn hạnh phúc, ai không mong duyên lành thanh thỏa, ai muốn lựa đoạn trường mà đi kia chứ. Tôi yêu hình ảnh người mẹ có mang, tôi quí hình ảnh mẹ con quấn quít, đàn gà con ríu rít theo gà mẹ, con chim bồ câu chăm chỉ ấp con, hai con cá voi sít sao bơi lội, cùng chia hoạn nạn, cùng gánh gập gềnh, sự sống vươn lên từ khó khăn không bình thường có đôi có cặp, không thanh thỏa có sự nâng đỡ từ người phối ngẫu là điều đáng được yêu thương gấp hai gấp ba. Tuổi trẻ bây giờ không như xưa “nam nữ thọ thọ bất thân”, tuổi trẻ bây giờ nhìn đời sống tự nhiên như cỏ cây hoa lá, xã hội yêu quí súc vật, chó mèo chim muông, bỗng dưng con người nhỏ bé lạ thường.

Thế giới vẫn còn điều gì đó không cân bằng, bên Nhật người ta lùng giết cá voi để lấy vi, để lấy thịt, bên Mỹ người ta huy động bao nhiêu thứ để giữ cứu mạng sống cá voi. Một quốc gia nào đó ném đá đến chết người con gái họ cho là “làm xấu gia phong”, phía quốc gia kia sống là cho hết buông hết chẳng cần giữ gìn làm gì, nên cha mẹ đành nhận cháu về nhà nuôi chung cùng con. Thế giới đổi thay, không cân đối, duyên nghiệp chồng chéo mang mang, phụ nữ vẫn chịu đựng điều gì đó không nói ra được rõ ràng, hai ba luồng nước văn hóa: mặn, ngọt, lờ lợ dễ lạc lối không tìm được ngõ ra, lạc một mình còn dễ dàng xoay trở, lạc cùng con biết nẻo nào về! Nhưng biết đâu nhỉ hai con cá voi đang vui vẻ trong khi đi lạc, sông khác biển bao nhiêu điều, sống mãi ở biển cũng nhàm chăng? Nhìn thiên hạ lo toan cho mình, các cháu bé reo hò nhìn ngắm đời bỗng nhiên vui cá voi nhỉ? Không là cá làm sao biết cá muốn gì, tôi cũng muốn nói thánh: “Hai con cá voi bướng bỉnh thích về sống ở sông, đừng đuổi nó đi.”