Mẹ Già!
Nhắc đến Mẹ Việt Nam trong thơ nhạc, luôn là hình ảnh người phụ nữ nghèo và già, ý của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, khi ông giới thiệu chương trình đại nhạc hội mùa Vu Lan tuần vừa qua.
“Mẹ Việt Nam không son không phấn, Mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn, Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm, Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sòng.” Trường Ca Mẹ Việt Nam nhạc sĩ Phạm Duy đã bắt đầu như thế,
Phần tôi, khi nói đến Mẹ, tôi nghĩ đến người phụ nữ qua hết xuân thì, tàn ngày thiếu phụ, chập chờn tháng bất lụn, leo lét năm cạn đời. Những người phụ nữ đã qua một thời xuân sắc, một thời ngùn ngụt lửa thương yêu và rồi cũng đến lúc da nhăn tình cạn, thân xác rã rượi trên chăn gối nhà thương, bên còn bên mất, đụng bên phải dây truyền nước biển, đụng bên trái dây đo mạch, đo tim, nửa tiếng đo nhiệt độ, vài giờ lấy máu thử, gương lược chẳng màng, phấn son chẳng đụng. Những tiếng ồn ào, không rõ rệt âm thanh, tiếng chân bước khe khẽ, tiếng kim khí đụng nhè nhẹ, cắt - dán - lê, tiếng người cố gắng hạ giọng nói, tiếng máy móc ì è, bíp bíp. Khối âm thanh trầm thiếu bổng, như giàn nhạc giao hưởng bị niểng về một bên, giàn nhạc có âm sắc màu đen và lưỡi hái.
Không cần biết người phụ nữ nằm trên giường bệnh da màu gì, nỗi thống khổ của họ giống y như nhau là sự đợi chờ. Đợi chờ giờ chấm hết, đợi chờ người thân thuộc bên giường, đợi chờ lời xin lỗi, đợi chờ lời thương yêu, đợi chờ điều mong ước được thực hiện, và đợi chờ phép lạ cho mình trở lại thuở tóc biếc da thơm.
Nếu so sánh giữa hai phái tính, nam và nữ ai phải vào nằm nhà thương nhiều hơn thì chắc chẳng ai thèm dành “tôi nhiều hơn” vì không ai muốn nằm nhà thương cả. Trong tương lai có thể khác vì một gia đình chỉ có một hay hai con, nhưng với các cụ khoảng tuổi 70 trở lên, phần đông phụ nữ phải vào nhà thương nhiều hơn nam giới. Nhà thương đây cũng có nghĩa là quân y viện, trạm ý tế v.v, nơi nào có y tá có cái giường cao cao, và có cả bà mụ đỡ đẻ. Nếu ở nhà quê, thì sanh nở tại gia, có khi bà mụ đến tận nhà, hay chính ông chồng sẽ là bà mụ, tôi đã nghe ông chú rể kể: “Đỡ đẻ cho người cũng như khi đỡ đẻ cho heo.” Bà cô của tôi sinh 15 lần, nuôi được 13 người con.
Nói thế có nghĩa là đàn bà nằm nhà thương nhiều lần vì sanh nở nhiều, chẳng có gì phải thắc mắc, nên khi cuối đời cổng nhà thương là sự sợ hãi kinh khủng của phụ nữ. Phần các ông khi được vào nhà thương đã biết chắc, người phụ nữ bên cạnh sẽ lại cung cúc cháo cơm, bới xách mang vào, cho dù nhà thương đã nấu đủ cả ba bữa cho ăn.
Nhớ lại chuyện kể về bà hoàng ngày xưa khi đau bệnh, không cho vua vào thăm, vì bà muốn ông chỉ lưu giữ hình ảnh đẹp của bà trong tâm trí, tôi nghĩ bà ấy hoàn toàn đúng, khi đàn bà đau bệnh nhìn buồn lắm, giữ gìn cách mấy vẫn thấy thương tâm, nụ cười thật tươi cũng không thể cứu vãn chi được cả. Dưới tấm khăn trải giường trắng, dưới tấm mền xanh không là nhễu nhão thịt da cũng khô khốc bộ xương cách trí. Áo nhà thương bắt phải mặc là bộ áo thật tiện lợi cho y tá, bác sĩ khám bệnh, nhưng lại phá bỏ tính cách e ấp dịu dàng của phụ nữ. Đau bệnh mà còn đòi e ấp được nữa sao?
Suy nghĩ của người bệnh thế nào, có lẽ hai mươi bốn tiếng trong nhà thương bằng “thiên thu tại ngoại” chập chờn trong cơn say thuốc, ngồi kề bên giường bệnh nghe mẹ già kể chuyện, những chuyện từ lúc bắt đầu thời con gái, những chuyện cãi bà ngoại đi lấy chồng, đến chuyện ăn năn đã bất hiếu yêu chồng hơn yêu mẹ, để cuối đời đang nằm “đây” đớn đau thân xác chờ ngày tận tiệt. Câu chuyện giống như triệu triệu câu chuyện của những người phụ nữ khác trên toàn thế giới, khi nằm trên giường bệnh viện đoạn gần cuối cuộc đời. Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh có thể là những lời thật nhất, cũng có thể là những lời hoang tưởng về yêu thương ghét hận, buộc cởi trong phút giây, câu đầu vừa trì chiết, câu sau đã yêu chiều, trên hết là về người bạn đường người phối ngẫu, sau đó mới đến con.
Nỗi cô đơn thuở: “đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình” lập lại với phụ nữ Việt Nam lần nữa khi nằm nhà thương xứ lạ, tiếng xì xào lạ tai, ngôn ngữ dị biệt, có bao nhiêu phần trăm phụ nữ cao niên Việt Nam thông thạo ngôn ngữ Mỹ Pháp?
Người đàn bà da trắng nằm bên cạnh lâu lâu lại nạt nộ cô y tá: “Tại sao cô không gọi con tôi vào đây với tôi? Đẻ nó ra tôi đã đau bụng hơn hai ngày.”
Nếu tôi là con bà, có lẽ tôi sẽ khổ tâm ghê lắm khi nghe kể lể như thế, nhưng người con da trắng có thể trả lời:
“Con có muốn thế đâu? Mẹ sanh ra con chi để lại tiếp nối chuyện theo chồng, bất hiếu cùng mẹ, cuối đời nằm trên giường bệnh lại tiếp tục kể lể, trách móc chịu đựng khóc than!”
Người phụ nữ Việt Nam không thể nạt nộ y tá, không biết chuyển biến chung quanh, chỉ biết sợ hãi đợi chờ, câu chuyện về các bà mẹ già Việt Nam đau khổ trong nhà thương sẽ là chuyện dài được nhắc nhở mãi trong các bài viết, có lẽ cũng đánh dấu được một đoạn lịch sử sau chiến tranh 1975.
Và trên hết:
“Hãy làm tất cả điều gì có thể được, để trấn át cơn sợ hãi của Mẹ Việt Nam trong nhà thương xứ người, cho dù bác sĩ y tá rất giỏi, họ chăm sóc rất hay, nhưng họ không biết nói câu – ‘Mẹ đừng lo mẹ nhé, có con đây’ bằng tiếng Việt”