Chương 72
“Barry.” Rhyme đang ở trong phòng khách, nghe điện thoại qua loa.
“Lincoln. Tôi bực anh lắm đấy, anh biết không.”
“Thế à? Vì sao?”
“Tôi đang ở đáy của đáy. Anh đã biến tôi thành một loại scotch thực thụ đấy. Món đắt tiền ấy. Thực ra, Joan cáu anh lắm. Tôi thì không nhiều.”
Anh hơi ngập ngừng.
Rồi Rhyme nói, “Chúng tôi buộc tội được hắn rồi, Barry. Hắn sẽ ngồi tù mãi mãi. El Halcón.”
“Chúa ơi. Tôi tưởng vụ án còn chưa biết thế nào.”
“Nó đã thành chắc chắn.”
“Và chúng tôi tóm được cả đồng bọn của hắn. Gã người Mỹ.”
“Anh có làm gì liên quan đến việc đó không thế?”
“Không nhiều. Một chút thôi.”
Sales cười lớn. “Vớ vẩn. Tôi chẳng tin.”
“À, thì cứ tin những gì cậu muốn.”
“Đó là Lincoln Rhyme tôi biết và yêu quý.” Rồi để lảng tránh chủ đề ủy mị, Sales nói, “Này. Tôi đã nói chuyện với chị gái tôi rồi? Chị ấy có một ý tưởng. Tôi sẽ có một cái tay giả tạm thời. Chỉ có móc thôi, anh biết đấy. Chị ấy sẽ mang bọn trẻ đến và đoán xem? Chúng tôi sẽ chơi trò Wolverine. Chúng sẽ vui lắm.”
“Cái gì kia?”
“Phim ấy. Anh biết mà.”
“Có cả phim về chồn gu-lô* ấy hả?”
Wolverine trong tiếng Anh-Mỹ còn có nghĩa là chồn gu-lô.
“Anh không đi chơi nhiều cho lắm nhỉ, Lincoln?”
“Chà, tôi mừng vì việc đó có ích.”
“Chúng ta sẽ gặp nhau sớm thôi. Tôi sẽ mua whiskey.”
Họ cúp máy và Rhyme đưa xe lăn quay lại bàn vật chứng trong lúc điện thoại di động của anh lại rung lên với một cuộc gọi đến.
Anh bấm Trả lời.
“Lincoln,” giọng nói trên điện thoại vang lên, bị tạp âm từ ghi-ta điện chặn mất.
Rhyme quát lại, “Rodney, vì Chúa. Bật nhỏ nhạc xuống.”
“Anh biết đó là Jimmy Page không.”
Anh thở dài. Dù chuyên gia Tội phạm máy tính không thể nghe được, do những đềxiben kia.
“Được rồi. Chỉ nói thế thôi. Anh có biết Led Zeppelin giữ vị trí số hai trong những album bán chạy nhất ở Mỹ không?” Szamek vặn nhỏ tiếng. Một chút ít. Bạn sẽ trông đợi anh ta có mái tóc xoăn dài ngang vai, da tô kẻ đậm và cơ thể đầy lỗ khuyên, mặc áo sơ mi hở đến tận rốn - nếu ngày nay các tay ghi-ta của ban nhạc rock heavymetal vẫn còn trông giống như thế. Mặc dù vậy, thực tế trông anh ta hoàn toàn phù hợp với hình ảnh của một con mọt máy tính.
Amelia Sachs đi vào phòng khách, cúi xuống hôn Rhyme.
Szamek nói, “Tìm được vài thứ mà anh sẽ quan tâm về vụ Kimberlite này.”
“Anh gọi nó là thế đấy à?” Sachs hỏi. Giọng cô có vẻ buồn cười.
“Tôi khá thích cái tên đó. Cô không thích à? Nghe hay mà. K, chuyện tôi định nói là thế này. Cô đã gửi cho tôi số điện thoại ẩn danh của tay luật sư Carreras-López ấy? Tôi kiểm tra danh sách cuộc gọi rồi. Rất nhiều cuộc gọi đến lũ người đã bị bắt ở tòa án và bãi đỗ trực thăng ở trong khám.”
“Cái gì cơ?”
“Nhà tù ấy. Giống các bộ phim Viễn tây thời xưa. Trại.”
“Rodney. Vào đề đi.”
“Nhưng cái này thú vị này. Hầu hết cuộc gọi và tin nhắn là trao đổi với một ai đó ở Paris. Trong Arrondissement số Sáu. Tức là ‘quận’ đấy.”
“Tôi biết rồi,” Sachs nói.
“Bên trong và xung quanh Jardin du Luxembourg. Đó là một khu vườn. Nhưng chắc cô cũng biết rồi.”
“Cái đó thì tôi không biết.”
Szamek nói thêm, “Dù đó là ai, tay luật sư cũng đã gọi và nhắn tin cho ông ta hay bà ta rất nhiều lần trong vài tuần qua. Gần như là báo cáo vậy.”
“Có thể là một cố vấn,” Sachs nói, đi đến chồng hộp bằng chứng trên bàn kiểm tra. “Anh đã nghĩ luật sư là ông Y, kẻ lên kế hoạch tất cả chuyện này. Cũng có thể là người này.”
“Có thể.”
“Rhyme,” Sachs nói và cầm một túi bằng chứng lên. Đó là cuốn sổ kế hoạch của Carreras-López. Dán bên trong trang bìa là một tờ giấy nhớ có tên Francois Letemps. Một loạt số bên cạnh nó. Có thể là số tài khoản.
Tên người Pháp. Có phải đó là người đàn ông phía bên kia đường dây ở Paris không?
Szamek nói, “Nào, phần kỳ lạ đây này.”
Trong một vụ án vốn đã kỳ lạ rồi ư.
“Các tin nhắn này được mã hóa bằng đúng thuật toán mà hôm nọ anh hỏi tôi. Hệ thập nhị phân. Dùng các số từ 0 đến 9 cộng với số hai và số ba ngược. Chuyện xấu luôn đến cùng với nhau.”
Chúa ơi. Mắt Rhyme từ từ chuyển sang bảng vật chứng.
“Và không cách nào bẻ khóa được nó?”
“Cũng tương đương với khả năng tôi xuất hiện trên chương trình Nhảy cùng Ngôi sao.”
“Cái quái quỷ gì đấy?”
“Tức là bất khả thi ấy.”
“Tôi có việc bận, thế nhé.” Rhyme cúp máy và hét lên với Mel Cooper, “Cái gói chúng ta nhận được từ Cục tình báo thay thế? Gói chuyển hàng quốc tế ấy? Nó đâu rồi?”
Nó đã đến từ đêm qua nhưng Rhyme quá bận rộn với vụ án nên chưa xem được.
Cooper mở cái hộp. Trong đó không có thư, chỉ có một lời nhắn của Daryl Mulbry.
Đây nhé. Ý tưởng nào cũng có ích.
Cooper cầm phong bì đựng vật chứng nhỏ lên. Bên trong là một miếng kim loại nhỏ hình bán nguyệt đã xác định bị nhiễm phóng xạ, dù không phải liều lượng gây nguy hiểm. Rhyme quan sát nó.
Anh nhớ lại Mulbry đã lo ngại bộ phận kim loại co giãn này có thể là chốt hẹn giờ của một quả bom bẩn thỉu - một phần của kíp nổ cơ học, hòng tránh các biện pháp can thiệp để đánh bại kíp nổ điện tử.
Bây giờ thì Rhyme đã biết là điều đó không chính xác.
Nhưng sự thật đằng sau mẩu kim loại này thậm chí còn đáng lo ngại hơn.
Rhyme gọi ngay cho Mulbry.
“Lincoln! Anh khỏe không?”
“Không còn nhiều thời gian. Có thể có một tình huống đấy. Mẩu kim loại anh gửi cho tôi ấy?”
“Vâng.” Giọng người đàn ông nghiêm trọng ngay.
“Cho tôi hỏi mấy câu nhé.”
“Tất nhiên rồi.”
“Anh có tìm được gì thêm về nghi phạm, kẻ đã làm rơi cái này không?”
“Cuối cùng chúng tôi đã tìm được quán cà phê mà hắn ngồi trong lúc gọi nhiều cuộc điện thoại. Nó ở…”
“Gần Jardin du Luxembourg.”
“Mon dieu, Lincoln. Đúng. Làm sao…”
“Và đội EVIDINT tìm được gì?”
“Không có gì. Không dấu vân tay, không có manh mối nào hữu dụng, không ADN. Chỉ có mô tả nhân dạng thôi.”
“Là?”
“Đàn ông da trắng, khoảng bốn mươi, năm mươi tuổi. Nói tiếng Pháp hoàn hảo nhưng có thể lẫn cả giọng Mỹ.”
Đầu Rhyme ngửa ra sau tấm đỡ lưng bằng da. Ý nghĩ quay cuồng. “Nó không phải bom, Daryl. Không có vấn đề khủng bố gì cả.”
“Không à?”
“Anh không phải lo về nó.” Anh ngừng lời. “Tôi mới phải lo.”
“Anh á? Nghe bí ẩn quá.”
“Tôi sẽ gửi anh bản báo cáo chi tiết sau,” Rhyme bảo ông ta. Họ cúp máy.
Giờ anh lại nhìn lên biểu đồ. Không thể nào. Nhưng mặt khác…
“Rhyme, có chuyện gì?” Sachs hỏi. Cô đã để ý cái cau mày.
Anh không trả lời mà gọi lại cho Rodney Szamek và hỏi số điện thoại mà Carreras-López liên tục gọi đến ở Paris.
“Nó là một số ẩn danh đã chết, Lincoln. Chúng tôi đã định vị nó cả tá lần rồi.”
“Chỉ cần số thôi, được không.”
Rodney đọc cho anh.
“Cảm ơn,” Rhyme lẩm bẩm và nhìn vào các con số trong lúc cúp máy.
Anh đọc lệnh cho điện thoại gửi một tin nhắn đến số điện thoại ở Pháp. Đó là một tin nhắn rất đơn giản:
“Nhắn tin hoặc gọi số này. - Lincoln Rhyme.”
Sau khi ngắt kết nối, anh nói với Sachs, “Chẳng phải chúng ta đã nói toàn bộ âm mưu này quá phức tạp ư?”
“Vâng.”
“Và em có nhớ các tính năng cộng thêm của một cái đồng hồ được gọi là gì không? Như là ngày tháng, chu kỳ mặt trăng, thủy triều, các múi giờ khác nhau.”
“Chúng ta gọi chúng là complication*. Chuyện này là sao?”
Nguyên nghĩa là “sự phức tạp”. Trong đồng hồ, nó dành để chỉ các chức năng khác ngoài xem giờ.
“Gói mã hóa mà nghi phạm của Mulbry ở Paris đang dùng - và cả Carreras-López cùng đầu mối liên lạc của lão nữa - chúng được viết dựa trên hệ thập nhị phân. Giống như số giờ trên một cái đồng hồ.”
Anh hất cằm về phía mảnh kim loại. “Nó không phải là kíp nổ. Nó là lò xo đồng hồ. Và phóng xạ không tới từ một quả bom bẩn. Nó là radium trên một mặt đồng hồ hoặc đồng hồ đeo tay. Kẻ mà AIS nghi ngờ… và gã được thuê để lên kế hoạch đào tẩu cho El Halcón là một. Và hắn có một sở thích. Lắp đồng hồ.”
“Rhyme, không!”
Nhưng câu trả lời là có, anh tin là như vậy.
Kẻ nằm trong diện tình nghi không ai khác chính là Charles Vespasian Hale, mặc dù hắn thường dùng một tên giả được yêu thích là Richard Logan, nếu hắn không muốn bị quấy rầy nhiều. Tuy nhiên, Rhyme chỉ nghĩ về hắn với biệt danh Thợ đồng hồ.
Rhyme khẽ nhắm mắt lại, nhớ đến chuyện vừa ngày hôm trước anh đã nghĩ đến Thợ đồng hồ, và suy ngẫm rằng âm mưu của Nghi phạm 47, dù thông minh, nhưng vẫn chưa đạt tới đẳng cấp của Hale. Mặc dù bây giờ, khi đã biết rằng Krueger chỉ là một con rối, anh có thể nói rằng trong kế hoạch này, dấu tích của một thiên tài đã lộ rõ.
“Rhyme,” Sachs nói. “Letemps. Tiếng Pháp nghĩa là ‘thời gian’.”
Anh bật cười. “Hắn có liên hệ với người Mexico. Nhớ vụ mấy năm trước không? Thợ đồng hồ được một trong số những các-ten thuê ấy. Đó là một vụ ám sát, nếu anh nhớ đúng. Chắc là Carreras-López đã nghe về hắn và thuê hắn để giúp thân chủ lão ta đào tẩu.”
Sachs hỏi, “Anh có nghĩ anh sẽ nghe được gì từ hắn không? Ngay khi hắn biết chiến dịch đã thất bại, em nghĩ hắn sẽ vứt cái điện thoại ấy xuống sông Seine.”
Nhưng Rhyme biết điện thoại vẫn còn và dùng tốt. Thợ đồng hồ sẽ giữ lại nó chỉ vì một lí do duy nhất mà thôi.
Không đầy mười phút sau điện thoại di động của Rhyme kêu - mấy lần liền - với một loạt tin nhắn.
“Xin chào, Lincoln. Đã lâu rồi nhỉ. Anh vẫn khoẻ, từ những gì tôi nghe được. Trời, tôi đã lo ngại chuyện này có thể xảy ra. Tôi đã cố thiết kế vụ trốn tù của El Halcón ở nơi khác ngoài New York, vì lo ngại anh sẽ nhảy vào vụ việc. Buồn một nỗi chẳng có chỗ nào khác - cả cho El Halcón lẫn kế hoạch của tôi. Brooklyn là mắt xích an ninh yếu kém duy nhất.”
“Và thế là tôi đã vẽ ra một kế hoạch thông minh nhất có thể, để lừa anh, nhưng chúng ta đã thấy việc gì xảy ra rồi. Tôi đã nhận khoản trả trước nhưng anh làm tôi mất toi ba triệu đô-la phần phí còn lại đấy nhé. Cái đó tôi không quan tâm lắm. Điều làm tôi bực mình là thiệt hại với danh tiếng của tôi kìa. Rồi tin đồn sẽ bay xa và người ta có thể nghĩ: Có lẽ những chiếc đồng hồ của hắn không còn điểm chính xác như trong quá khứ. Rốt cuộc, một chiếc đồng hồ dù mất chỉ một phần ngàn giây trong một năm vẫn là đồng hồ lỗi. Thời gian là tuyệt đối.”
“Điều này không thể xảy ra lần nữa. Lần tiếp theo chúng ta gặp nhau - và chúng ta sẽ gặp lại, tôi hứa với anh - sẽ là lần cuối. Giờ thì, tạm biệt, Lincoln. Tôi sẽ để cho anh một câu nói này, câu mà tôi hi vọng sẽ làm anh thao thức suốt những đêm dài mất ngủ: Quidam hostibus potest neglecta; aliis hostibus mori debent.
Thân ái, Charles Vespasian Hale.”
Rhyme không phải một học giả cổ điển nhưng anh vẫn dịch đúng dòng chữ đó:
Vài đối thủ có thể bị bỏ qua; những kẻ khác phải chết.
Anh đọc tin nhắn lần nữa - để xem trong đó có dấu vết nào về nơi chốn Thợ đồng hồ đã gửi tin đi hoặc hắn định đi về đâu hay không. Không có gì. Thực tế đến lúc này thì chiếc điện thoại đã bị huỷ thật. Anh bảo Cooper tắt nguồn điện thoại của mình, gỡ pin và ném nó ra ngoài. Rồi gọi cho nhà mạng và huỷ luôn số đó.
Rồi anh chuyển sang máy bàn và nói vào chiếc micrô gắn kèm.
“Gọi Daryl Mulbry. AIS.”
Các con số hiện lên nhanh chóng khi bàn phím tự chạy.
Hai hồi chuông vang lên. Giọng một phụ nữ nghiêm trang trả lời: “Vâng?”
“Xin gặp Daryl Mulbry.”
“Tôi xin lỗi. Giờ ông ấy không ở đây.”
“Chuyện này quan trọng.”
“Tôi đảm bảo ông ấy sẽ nhận được lời nhắn. Nếu anh..
“Làm ơn nói với ông ấy là Lincoln Rhyme đang gọi.”
Một phút ngập ngừng. “Xin đợi một phút, thưa anh. Tôi sẽ gọi ông ấy.”
LỜI CẢM ƠN
Vô vàn lời cảm tạ dành cho toàn đội: Will và Tina Anderson, Cicely Aspinall, Sophie Baker, Felicity Blunt, Penelope Burns, Giovanna Canton, Francesca Cinelli, Luca Crovi, Jane Davis, Julie Deaver, Andy Dodd, Jenna Dolan, Cathy Gleason, Jamie Hodder-Williams, Kerry Hood, Emma Knight, Carolyn Mays, Meriam Metoui, Wes Miller, Claire Nozieres, Hazel Orme, Abby Parsons, Seba Pezzani, Michael Pietsch, Betsy Robbins, Katy Rouse, Lindsey Rose, Roberto và Cecilia Santachiara, Deborah Schneider, Vivienne Schuster, Kallie Shimek,
Louise Swannell, Ruth Tross, Madelyn Warcholik.
VỀ TÁC GIẢ
.
Từng là một nhà báo, ca sĩ nhạc đồng quê và luật sư, Jeffery Deaver là tác giả có sách bán chạy nhất trên trường quốc tế. Các tiểu thuyết của ông đã xuất hiện trong danh sách bán chạy trên khắp thế giới, bao gồm danh sách của New York Times, The Times của London, Corriere della Sera của Ý, tạp chí Sydney Morning Herald và tờ Los Angeles Times. Những cuốn sách của ông đã được bán ở 150 quốc gia và được dịch ra hai mươi lăm thứ tiếng.
Ông đã được bầu hai nhiệm kỳ làm chủ tịch của Hiệp hội các nhà văn trinh thám Mỹ trong hai nhiệm kỳ.
Là tác giả của bốn mươi tiểu thuyết, ba tập truyện ngắn và một cuốn sách luật phi hư cấu, người viết lời cho một album nhạc đồng quê miền tây, ông đã nhận được hay được đề cử cho hàng chục giải thưởng.
Cuốn The Bodies Left Behind (tạm dịch Những thi thể bỏ lại) của ông đã được vinh danh là Tiểu thuyết của năm do Hiệp hội các nhà văn trinh thám quốc tế bầu chọn, và tiểu thuyết về Lincoln Rhyme The Broken Window (tạm dịch Khung cửa sổ vỡ) cùng cuốn sách độc lập, Edge (tạm dịch: Bờ vực) cũng được đề cử cho giải thưởng đó, đồng thời với một truyện ngắn mới xuất bản gần đây. Ông đã được trao giải Steel Dagger và the Short Story Dagger của Hiệp hội các nhà văn viết truyện Hình sự của nước Anh và giải Nero, ông cũng là người ba lần nhận giải Ellery Queen Readers Award cho Truyện ngắn hay nhất Năm và một lần chiến thắng giải British Thumping Good Read Award. Solitude Creek (Tạm dịch: Rạch đơn côi) và The Cold Moon (Tạm dịch: Trăng lạnh) đều được xếp hạng nhất của Kono Misurteri Ga Sugoi tại Nhật Bản.Trăng lạnh cũng được vinh danh là Cuốn sách của Năm do Hiệp hội các nhà văn Trinh thám Nhật Bản trao tặng. Thêm vào đó, Hiệp hội tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm của Nhật Bản trao tặng Trăng lạnh và Carte Blanche (tạm dịch: Toàn quyền hành động) giải Grand Prix thường niên của họ. Cuốn sách The Kill Room (tạm dịch: Phòng chết chóc) của ông đã được trao giải Trinh thám chính trị của Năm do Killer Nashville công bố. Và tập truyện ngắn, Trouble in Mind (tạm dịch: Tâm trí vướng bận) cũng được đề cử giải hợp tuyển hay nhất của tổ chức này.
Deaver đã vinh dự nhận được giải Cống hiến trọn đời của Hiệp hội trinh thám thế giới Bouchercon và giải Thành tựu trọn đời Raymond Chandler ở Ý. Tờ Strand Magazine cũng trao ông một giải Thành tựu trọn đời.
Deaver đã được đề cử bảy giải Edgar Awards Hiệp hội các nhà văn trinh thám Mỹ, một giải Anthony, một giải Shamus và một giải Gumshoe. Ông đã được đề cử vào vòng trong của giải trinh thám hình sự TTV3 dành cho Tác giả nước ngoài xuất sắc nhất. Thánh giá ven đường đã vào vòng trong giải Prix Polar International 2013. Ông cũng được đề cử cho một giải Shamus. Cuốn The Starling Project (tạm dịch: Dự án kinh ngạc), được đọc bởi Alfred Molina do Audible.com sản xuất, đã giành giải Audie Award dành cho cuốn sách nói gốc của năm trong năm 2015. Một seri tiểu thuyết do ông sáng tạo và có đóng góp, The Chopin Manuscript (tạm dịch: Bản thảo Chopin) cũng đã giành được vinh dự này.
Ông đã đóng góp vào tuyển tập In the Company of Sherlock and Books to Die For (tạm dịch: Đồng hành cùng Sherlock và Những cuốn sách đáng đánh đổi mạng sống), đã giành giải Anthony. Những cuốn sách đáng đánh đổi mạng sống gần đây còn giành giải Agatha.
Những cuốn tiểu thuyết gần nhất của ông là The Burial Hour (tạm dịch: Giờ chôn) và The Steel Kiss (tạm dịch: Nụ hôn thép), cả hai đều là sách về Lincoln Rhyme; Rạch đơn côi, tiểu thuyết trinh thám về Kathryn Dance; và The October List (tạm dịch: Danh sách tháng Mười), một tiểu thuyết trinh thám kể ngược. Dành cho tiểu thuyết về Dance, XO Deaver đã viết một album nhạc đồng quê miền tây, có sẵn trên iTunes và dạng CD; trước đó ông viết Toàn quyền hành động, một tiểu thuyết tiếp nối về James Bond, cuốn sách bán chạy nhất trên trường quốc tế.
Cuốn sách A Maiden’s Grave (tạm dịch: Ngôi mộ thiếu nữ) của ông đã được dựng thành phim trên HBO do James Gamer và Marlee Matlin đóng, và tiểu thuyết Kẻ tầm xương là một bộ phim nổi bật của Universal Pictures, do Denzel Washington và Angelina Jolie đóng. Lifetime đã phát sóng một biến thể từ Giọt lệ quỷ của ông. Và lời đồn quả đúng sự thật: Ông đã xuất hiện trong vai một phóng viên biến chất trong kịch truyền hình yêu thích của ông, As the World Turns (tạm dịch: Khi thế giới xoay). Ông được sinh ra ở ngoại ô Chicago và có bằng cử nhân báo chí của trường Đại học Missouri và bằng luật của trường Đại học Fordham.
Độc giả có thể ghé thăm website của ông tại www.jefferydeaver. com hoặc qua Facebook và Twitter.
HẾT