← Quay lại trang sách

QUẺ LÔI SƠN TIỂU QUÁ

Chấn trên; Cấn dưới

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Quẻ Tiểu Quá, Tự Quái nói rằng: Có sự tin ắt đi, cho nên tiếp đến là quẻ Tiểu Quá [341] . Người ta đã tin thì ắt đi, đi thì ắt phải qua, vì vậy quẻ Tiểu Quá mới nối tiếp quẻ Trung Phu. Nó là quẻ trên núi có sấm, sấm vang ở chỗ cao, tiếng nó quá mực thường cho nên là việc vượt quá nhỏ. Lại, hào Âm ở ngôi tôn, hào Dương mất ngôi mà không được giữa, tức là kẻ nhỏ vượt quá mực thường. Nghĩa là kẻ vượt quá mực thường nhỏ, lại là là việc vượt quá mực thường nhỏ, lại là lỗi nhỏ.

- LỜI KINH -

小過, 亨, 利貞.

Dịch âm. Tiểu Quá, hanh, lợi trinh.

Dịch nghĩa. Quẻ Tiểu Quá hanh, lợi về chính bền.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Quá là vượt quá mực thường. Nếu uốn cong là quá cái thẳng, sự quá đó cốt để nhắm tới sự chính vậy, việc cũng có khi nên thế, phải đợi quá đi mới hanh được, cho nên quẻ Tiểu Quá tự nó đã nghĩa hanh. Lợi trinh nghĩa là đạo quá lợi về chính bền. Chẳng lỗi với lẽ nên phải ở đương thời thì gọi là chính.

- LỜI KINH -

可小事, 不可大事, 飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉.

Dịch âm. Khả tiểu sự, bất khả đại sự, phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ đại cát.

Dịch nghĩa. Khá việc nhỏ, chẳng khá việc lớn, chim bay để chưng tiếng, chẳng nên lên, nên xuống, cả tốt.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Quá là để cầu tới mực giữa. Cái quá là việc nhỏ, việc lớn há lại quá được? Nghĩa đó ở quẻ Đại Quá nói đã rõ rồi. Chim bay để chưng tiếng, tức là sự quá chẳng xa vậy. Chẳng nên lên, nên xuống, nghĩa là nên thuận vậy, thuận thì cả tốt, quá để mà tới, tức là thuận lẽ, quá mà thuận lẽ, sự tốt ắt lớn.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Chữ “nhỏ” chỉ về Âm, quẻ này là quẻ bốn hào Âm ở ngoài hai hào Dương ở trong. Âm nhiều hơn Dương, tức là cái nhỏ thì được quá. Đã quá với Dương thì có thể hanh. Nhưng ắt lợi về giữ đường chính đính, việc đó lại không thể không răn. Hào Hai, hào Năm trong quẻ đều lấy chất mềm được chỗ giữa nên có thể làm việc nhỏ; hào Ba hào Tư đều là chất cứng mà mất ngôi không được giữa cho nên không thể làm việc lớn. Thể quẻ trong thực, ngoài hư, như con chim bay, tiếng nó xuống mà không lên, cho nên hễ đem đến được sự ứng nghiệm của con chim bay để tiếng thì nên trở xuống mà cả tốt. Cũng là việc không thể làm lớn vậy.

- LỜI KINH -

過以利貞, 與時行也.

Dịch âm. Quá dĩ lợi trinh, dữ thì hành dã.

Dịch nghĩa. Quá để lợi về chính bền, cùng đi với thời vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Quá mà lợi về chính bền, tức là cùng với thời mà đi. Thời nên quá thì quá, không phải quá thì nên vậy, thế mới là chính.

- LỜI KINH -

柔得中, 是以小事吉也.

Dịch âm. Nhu đắc trung, thị dĩ tiểu sự cát dã.

Dịch nghĩa. Mềm được giữa, cho nên việc nhỏ tốt vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Đây lấy hào Hai, hào Năm mà nói.

- LỜI KINH -

剛失位而不中, 是以不可大事也.

Dịch âm . Cương thất vị nhi bất đắc trung, thị dĩ bất khả đại sự dã.

Dịch nghĩa . Cứng mà mất ngôi ở giữa cho nên chẵng khá vậy.

GIẢI NGHĨA

Bản Nghĩa của Chu Hy. Đây là lấy hào Ba, hào Tư mà nói.

- LỜI KINH -

有飛鳥之象焉. 飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉, 上逆而下順也.

Dịch âm. Hữu phi điểu chi tượng yên. Phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đạt cát, thượng nghịch nhi hạ thuận dã.

Dịch nghĩa. Có tượng chim bay vậy. Chim bay để chưng tiếng, chẳng nên lên, nên xuống, cả tốt, lên nghịch mà xuống thuận vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Cái đạo vượt quá nhỏ: với việc nhỏ có khi quá được thì tốt. Mềm được giữa: chỉ hào Hai, hào Năm ở giữa. Âm mềm được ngôi, có thể làm cho việc nhỏ tốt lành mà thôi, không thể làm việc lớn. Cứng mất ngôi mà không giữa cho nên không làm được việc lớn. Thời vượt quá nhỏ vẫn là không thể làm việc lớn, mà tài quẻ này lại không kham nổi việc lớn, tức là hợp với thời vậy. Câu “có tượng chim bay vậy” không giống thể Thoán. Đó là lời của kẻ giải lầm vào lời Thoán. Trong cứng ngoài mềm là tượng chim bay, cho nên mới dùng “chim bay” làm nghĩa. Việc cũng có khi nên quá để theo với lẽ nên phải, nhưng mà há nên quá lắm? Như quá cung kính, quá thương xót, quá tằn tiện, v.v. [thì được], quá lớn thì không nên. Vì vậy ở thời nhỏ quá, cái quá nên như chim bay để tiếng mà lại thôi. Chim bay nhanh chóng, tiếng phát ra thì thân đã qua rồi, song mà há đi xa được? Việc nên quá thì như thế. Thân không thể xa hơn tiếng nhiều, việc không thể quá mực thường xa, cốt ở đúng mực vừa phải mà thôi. Không nên lên, nên xuống, là theo tiếng chim bay, lấy nghĩa nên thuận. Đạo “quá” nên như chim bay để tiếng; ôi tiếng, ngược mà đi lên thì khó, thuận mà đi xuống thì dễ, cho nên nó ở chỗ cao thì lớn, vì thế trên núi có sấm mới là quá. Đạo quá đi thuận thì tốt, như chim bay lên để tiếng, là nên thuận vậy. Sở dĩ phải quá là để cho thuận với lẽ nên phải. Thuận được với lẽ nên phải, cho nên cả tốt.

- LỜI KINH -

象曰: 山上有雷, 小過. 君子以行過乎恭, 喪過乎哀, 用過乎儉.

Dịch âm. Tượng viết: Sơn thượng hữu lôi, Tiểu Quá. Quân tử dĩ hạnh quá hồ cung, tang quá hồ ai, dụng quá hồ kiệm.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Trên núi có sấm là quẻ Tiểu Quá. Đấng quân tử coi đó mà nên nết quá chưng kính, tang quá chưng thương, dùng quá chưng kiệm.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Sấm vang trên núi, tiếng nó vượt quá mực thường, cho nên là sự vượt quá nhỏ. Việc trong thiên hạ có khi nên quá nhưng không thể quá lắm, cho nên là vượt quá nhỏ. Đấng quân tử coi tượng vượt quá nhỏ đó mà việc gì nên quá thì cố gắng, như là nết quá chưng kính, tang quá chưng thương, dùng quá chưng kiệm. Đáng quá mà quá tức là nên phải; chẳng đáng quá mà quá thì là quá rồi.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Trên núi có sấm, tiếng vượt quá nhỏ [342] . Sự quá của ba điều trên [343] đều là sự quá của những việc nhỏ. Có thể quá việc nhỏ mà không thể quá việc lớn, có thể vượt quá nhỏ mà không thể vượt quá lớn. Đó cũng là như lời Thoán nói “khá việc nhỏ” và “nên xuống” vậy.

- LỜI KINH -

初六: 飛鳥以凶.

Dịch âm. Sơ Lục: Phi điểu dĩ hung.

Dịch nghĩa. Hào Sáu Đầu: Chim bay là hung.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Sáu Đầu, Âm mềm ở dưới, là tượng tiểu nhân, phía trên nó ứng với hào Tư, hào Tư lại là thể động, kẻ tiểu nhân nóng nảy, khinh dị mà bên trên đó kẻ ứng giúp, với việc nên quá tất nhiên nó sẽ quá lắm, huống chi việc không nên quá mà quá? Sự quá của nó nhanh như chim bay, vì vậy mới hung; nóng kịp như thế cho nên nó đã quá nhanh lại xa, cứu ngăn không kịp.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Hào Sáu Đầu là chất Âm mềm, phía trên ứng nhau với hào Chín Tư lại ở thời quá, tức là kẻ lên mà chẳng xuống. Chim bay để tiếng, không nên lên, nên xuống, cho nên tượng, chiêm của nó như thế. Sách Đông Lâm của Quách Phác nói rằng: "Xem được hào này, hoặc giả gặp phải tai vạ của loài có cánh”.

- LỜI KINH -

象曰: 飛鳥以凶. 不可如何也.

Dịch âm. Tượng viết: Phi điểu dĩ hung, bất khả như hà dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Chim bay là hung, chẳng thể như vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Sự quá của nó chóng như thể chim bay, há cứu ngăn được? Hung là đáng lắm! Chẳng thể như vậy, nghĩa là không thể dùng sức được nữa.

- LỜI KINH -

六二: 過其祖, 遇其妣; 不及其君, 遇其臣, 無咎.

Dịch âm. Lục Nhị: Quá kỳ tổ, ngộ kỳ tỷ, bất cập kỳ quân, ngộ kỳ thần, vô cữu.

Dịch nghĩa. Hào Sáu Hai: Quá thửa ông, gặp thửa bà; chẳng kịp thửa vua, gặp thửa bề tôi, không lỗi.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Dương ở trên là tượng cha, cao hơn cả là tượng ông. Hào Tư ở trên hào Ba cho nên là ông. Hào Hai với hào Năm ở chỗ ứng nhau, cùng có đức mềm giữa, chí nó không theo hào Ba, hào Tư, cho nên qua hào Tư mà gặp hào Năm, ấy là qua thửa ông, Hào Năm chất Âm mà cao, là tượng bà nội, nó với hào Hai cùng ứng nhau. Ở quẻ khác thì Âm, Dương tìm nhau thì “quá” ắt qua mực thường, cho nên khác hẳn, không có sự gì không quá, cho nên hào Hai với hào Năm cũng răn nó về sự quá. "Chẳng kịp thửa vua, gặp thửa bầy tôi" nghĩa là tiến lên mà không lấn tới vua, vừa đúng với đạo bề tôi thì không có lỗi; “gặp” nghĩa là đáng. Quá phận bề tôi, đủ biết là lỗi.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Hào Sáu Hai mềm thuận giữa chính tiến lên thì qua hào Ba, hào Tư mà gặp hào Sáu Năm, ấy là qua Dương mà lại gặp Âm. Như thế thì chẳng kịp hào Sáu Năm mà tự được phần mình, ấy là không kịp vua mà gặp bề tôi. Điều đó có cái ý quá mà chẳng quá, giữ chính được giữa, tức là cách không có lỗi đó, cho nên tượng, chiêm của nó như thế.

- LỜI KINH -

象曰: 不及其君, 臣不可過也.

Dịch âm. Tượng viết: Bất cập kỳ quân, thần bất khả dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Chẳng kịp thửa vua, bề tôi không thể quá vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Trong thời “quá”, việc gì cũng quá mực thường, cho nên với việc tiến lên thì răn đừng kịp thửa vua, là vì bề tôi không thể quá phận bề tôi vậy.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Sở dĩ chẳng kịp vua lại gặp bề tôi, là vì bề tôi không thể quá.

- LỜI KINH -

九三: 弗過防之, 從或戕之, 凶.

Dịch âm. Cửu Tam: Phất quá phòng chi, tòng hoặc tường chi, hung.

Dịch nghĩa. Hào Chín Ba: Chẳng quá ngừa đó, theo hoặc hại đó, hung.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Quẻ Tiểu Quá là lúc Âm quá, Dương mất ngôi, hào Ba riêng ở chỗ chính nhưng ở dưới, không thể làm gì, mà lại bị các hào Âm ghen ghét, cho nên cũng phải có việc nên quá, tức là quá ngừa kẻ tiểu nhân. Nếu không quá ngừa chúng thì hoặc có khi chúng sẽ theo mà làm hại mình, như thế thì hung.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Trong thời Tiểu Quá, các việc thường nên quá đi, rồi mới được giữa. Hào Chín Ba lấy chất cứng ở chỗ chính, là kẻ bị các hào Âm muốn hại, mà nó tự cậy mình cứng, chẳng chịu ngừa trước, cho nên chiêm của nó như thế. Kẻ xem nếu biết quá, ngừa thì có thể khỏi.

LỜI KINH象曰: 從或戕之, 凶如何也.

Dịch âm. Tượng viết: Tòng hoặc tường chi, hung như hà dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Theo hoặc hại đấy, hung dường như thế.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Trong thời Âm quá, ắt phải hại Dương, đạo kẻ tiểu nhân thịnh, ắt hại đến người quân tử, nên quá ngừa đó. Ngừa nó không đến cùng tột thì bị nó hại, cho nên nói rằng “hung dường như thế” nghĩa là tệ lắm vậy.

- LỜI KINH -

九四: 無咎, 弗過遇之, 往厲, 必戒, 勿用永貞.

Dịch âm. Cửu Tứ: Vô Cữu, phất quá ngộ chi, vãng lệ, tất giới, vật dụng vĩnh trinh.

Dịch nghĩa. Hào Chín Tự: Không lỗi chẳng quá gặp đấy, đi nguy, ắt răn, chớ dùng dài lâu chính bền.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Tư đương thời nhỏ quá, lấy chất cứng ở chỗ mềm, tức là sự cứng không quá, cho nên không lỗi. Đã không quá thì là hợp mực vừa phải, cho khen nói rằng “gặp đấy” nghĩa là đúng đạo vậy. Nếu đi thì có sự nguy, ắt nên răn sợ, vì đi là bỏ chỗ mềm dùng tinh cứng mà tiến lên. Chớ dùng dài lâu sự chính bền vì tinh Dương răn cứng, cho nên răn phải tùy lẽ nên phải, không thể cố chấp.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Đường thời quá, lấy chất cứng ở ngôi mềm; tức là quá về cung kính, ấy là đạo không lỗi đó. “Chẳng quá gặp đấy” ý nói không quá về cứng mà vừa đúng với sự nên phải vậy. Đi thời quá rồi, cho nên có nguy mà nên răn. Tính Dương rắn cứng, cho nên lại răn rằng “chớ dùng dài lâu sự chính bền” ý nên theo với lẽ nên phải ở từng thời, không nên cố giữ một mực. Có người nói rằng: Câu “chẳng quá gặp đấy” nếu theo lệ hào Sáu Hai thì nên giải như thế, nếu theo lệ hào Chín Ba thì chữ “quá gặp” nên như nghĩa chữ “quá ngừa”. Chưa rõ thế nào là phải. Hãy chừa lại đó để đợi kẻ biết.

- LỜI KINH -

象曰: 弗過, 遇之, 位不當也; 往厲, 必戒, 終不可長也.

Dịch âm. Tượng viết: Phất quá, ngộ chi, vị bất đáng dã; vãng lệ, tất giới, chung bất khả trưởng dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Chẳng quá, gặp đấy, ngôi chẳng đáng vậy; đi nguy, ắt răn, trọn chẳng khá lớn vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Ngôi chẳng đáng chỉ về chỗ mềm. Hào Tư đương thời quá, chẳng quá cứng mà lại ở chỗ mềm, ấy là đúng mực vừa phải, cho nên nói là “gặp đấy”, nghĩa là gặp chỗ vừa phải vậy. Lấy hào Chín ở dưới ngôi Tư là ngôi không đáng; ở chỗ mềm là gặp chỗ vừa phải. Đương thời Âm quá, Dương phải lui, nhụt tự giữ lấy mình, cũng là đủ rồi, há lại lớn mà thịnh được? Cho nên: Đi thì có nguy, ắt nên răn vậy.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Nghĩa hào chưa rõ, chỗ này cũng nên chừa lại.

- LỜI KINH -

六五: 密云不雨, 自我西郊, 公弋取彼, 在穴.

Dịch âm. Lục Ngũ: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao, công dặc thủ bỉ, tại huyệt.

Dịch nghĩa. Hào Sáu Năm: Mây dầy chẳng mưa, ở cõi Tây lại, ông bắn lấy nó ở hang.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Năm lấy chất âm mềm ở ngôi tôn, tuy muốn quá làm, há nên công được? Cũng như mây dầy mà không thành mưa mà thôi. Sở dĩ không thành mưa, là vì tự ở cõi Tây. Khí Âm không thể thành mưa, ở quẻ Tiểu Súc đã giải rồi. "Ông bắn lấy nó ở hang" là sao? Hang là chỗ trống trong núi, giữa rỗng tức là cái hang, ở hang là chỉ về hào Sáu Hai, hào Năm với hào Hai vốn là không ứng nhau, chỉ là bắn mà lấy nó, hào Năm đáng ngôi, cho nên nói “ông”, tức là đấng công thượng vậy. Cùng loại lấy nhau tuy rằng được đó, nhưng hai khí âm không thể làm nên được việc lớn, cũng như mây dầy không thể thành mưa.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Lấy chất Âm ở ngôi tôn, lại nhắm vào thời Âm quá, không thể làm việc mà lấy hào Sáu Hai để làm giúp cho mình, cho nên có tượng ấy. Ở hang là vật về Âm, hai khí gặp nhau, đủ biết không thể làm nên việc lớn.

- LỜI KINH -

象曰: 密云不雨, 已上也.

Dịch âm. Tượng viết: Mật vân bất vũ, dĩ thượng dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: mây dầy chẳng mưa, đã lên vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Dương lên Âm xuống, hợp nhau thì hòa nhau mà thành mưa, Âm đã ở trên, mây tuy dầy há nên được mưa? Đó là nghĩa âm quá không thể thành mưa.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Đã trên tức là quá cao.

- LỜI KINH -

上六: 弗遇過之, 飛鳥離之, 凶, 是謂災眚.

Dịch âm. Thượng Lục: Phất ngộ quá chi, phi điểu ly chi, hung, thị vị tai sảnh.

Dịch nghĩa. Hào Sáu Trên: Chẳng gặp, quá đấy, chim bay lìa đấy, hung, ấy rằng vạ tội.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Hào Sáu chất Âm, thể động, ở chỗ cùng cực thì quá chẳng gặp với lẽ, làm gì cũng quá, sự trái lẽ quá mực thừa của nó như thể con chim bay nhanh, vì vậy mới hung. Lìa là quá đi xa lắm. Như thế thì có vạ tội, vạ là cái hại của trời làm ra, tội là việc của người làm ra. Đã quá đến cùng cực, há chỉ tội người mà thôi, vạ trời cũng kéo đến nữa, đủ biết là hung.

Bản Nghĩa của Chu Hy. Hào Sáu lấy chất Âm ở trên thể động đứng chỗ cùng tột Âm quá, tức là kẻ quá đi đã cao mà rất xa, cho nên tượng, chiêm của nó như thế. Có người nói rằng hai chữ 遇 過 (ngộ quá) nên đổi làm 過遇 (quá ngộ), nghĩa giống như hào Chín Tư, chưa biết phải không.

- LỜI KINH -

象曰: 弗遇過之, 已亢也.

Dịch âm. Tượng viết: Phất ngộ quá chi, dĩ kháng dã.

Dịch nghĩa. Lời Tượng nói rằng: Chẳng gặp quá đấy, đã quá cực vậy.

- GIẢI NGHĨA -

Truyện của Trình Di. Ở chót cuộc quá, chẳng gặp với lẽ mà quá đó, quá đã quá cực, hung là đáng vậy.