Chương V Suzanne muốn… và không muốn
° ° °
- Phải, tuy tôi có lang Tây nhưng mà tôi không hi vọng lấy chồng Tây. Hoặc lấy Tây là bần cùng. Vì rằng từ bé đến nhớn, mà tôi lấy bốn đời chồng sau khi ba tôi về Pháp, thì cả hai chân tướng cuộc đời ra sao, tôi đã nhiều lần nom thấy rõ. Cảnh ngộ tôi thật khó nghĩ. Lấy Tây ngộ nhỡ phải theo chồng về bên... mẫu quốc thì để rồi mẹ già chết đói bên này hay sao? - Lấy một người chồng An-nam... - Cũng khó lắm. Hạng người dám có gan hỏi tôi chẳng hạn thì không chắc đã được gia đình công nhận hẳn cho cái việc người ta làm. Nếu còn bị điều nọ tiếng kia thì khó chịu lắm. Vả lại chỉ say mê cái sắc đẹp một lúc, có khi rồi họ bỏ mình. Ấy là noi những người gan nhất thì như thế. Còn những người sống theo cuộc đời nề nếp thì làm gì có can đảm hỏi một người lai? Là một người lai là một cái khổ. Người Tây đã không hẳn quý trọng mình, mà người Nam cũng không yêu thương hẳn mình. Ở cái xã hội quý phái Âu Tây, một ít máu An-nam trong huyết quản là một cái nhục. Ở cái xã hội quý phái người Nam, một ít máu Pháp trong huyết quản cũng chẳng là sự vinh. Giời ơi! Thì ra tôi không có Tổ quốc! Suzanne cúi đầu, bất giác nức nở... Tôi chỉ còn kịp kéo tay cô ta về mình, và muốn tỏ sự cảm xúc bằng một cái hôn. Song le, nghĩ rồi lại thôi. Không nên chơi với lửa. Suzanne lại nói một cách chua chát: - Oui, je suis sans patrie! Tôi khẽ nói: - Lấy một người chồng lai... Nén cơn đau, Suzanne lại bình tĩnh thêm rằng: - Ông nói phải lắm. Tôi đã nghĩ thế. Một người chồng lai, cũng có Pháp tịch, mà không thể nào khinh được tôi. Nếu chồng phong lưu, tôi sẽ mặc đầm. Nếu chồng nghèo, chỉ là lính tráng chẳng hạn, thì tôi sẽ chỉ cứ ăn mặc ta. Tôi đã học hành mãi ở trường trẻ con lai vô thừa nhận. Giá như ai, không nghĩ đến mẹ, tôi đã sang Pháp năm ngoái rồi. Mà giá muốn lấy chồng xi-vin như ai, tôi cứ ở Hà Nội, tìm một chân bán hàng mỗi tháng kiếm vài chục bạc may mặc, có lẽ tôi cũng đã có một vị hôn phu rồi. Nhưng mà thà về với một người mẹ khổ sở, cùng mẹ ăn cơm ngô, cơm khoai. Thế là Suzanne hết đau đớn. Lòng hiếu đã làm cho cô ta trở nên... anh hùng! Vì rằng Suzanne kể thêm: - Ừ, mà tội gì lại phải đau xót vì không có tổ quốc nhỉ? Nói xong cô ta đứng lên quay ra bốn phương, nhìn... Suzanne không muốn lấy chồng Pháp. Suzanne chẳng đau khổ vì không có tổ quốc mà thờ. Suzanne cũng chẳng muốn lấy chồng An-nam. Ồ, nếu thế thì còn thú gì nữa! Có thể như thế được chăng? Tôi làm ra lần thần: - Theo ý tôi, dù sao nữa, lấy một người chồng An-nam vẫn hơn... Suzanne lườm tôi mỉm cười. Trong cái lườm ấy, trách là trách yêu. - Ấy má tôi vẫn nghĩ như thế. Vẫn bảo tôi đại khái rằng: tao chỉ muốn có một người chàng rể An-nam để sau này chôn cất cho tao. Bao giờ cũng thế, má tôi chỉ lo chết hơn lo sống. May quá! Tôi chẳng để lỡ một cơ hội tốt: - Chứ gì! Bà cụ lo thế là phải lắm chứ. Suzanne nên lấy chồng ta, xem người nào xoàng xĩnh, quân tử, có óc mới... không chịu luỵ về những cái thành kiến cổ hủ, chỉ biết có ái tình. Suzanne nhoẻn cười: - Như ông có phải không? Rõ khéo chỉ được cái giọng kẻ Bưởi! Tôi cũng cả cười. Nhưng Suzanne đã nghiêm nét mặt: - Không! Không thể được. Bao giờ lúc đầu người ta cũng mơ màng sự đời là tốt đẹp lắm. Cái khốn nạn nó không đi ngay với cái tốt đẹp bao giờ. Nó chỉ chùn lại để đi sau mà thôi. Thí dụ như ông chàng rể bà Đồng Đền ở Phủ Lạng! Chuyện này cũng thuộc về cái đề, “kỹ nghệ lấy Tây” song... người thợ lại thuộc về giống đực. Anh đàn ông coi cô vợ đầm lai như cái mỏ vàng. Suzanne thuật chuyện trong ba phút, nhưng tôi phải viết đến ba mươi dòng mới đủ nghe. Cách đây độ tám năm, một viên giáo học bị cữu, kết duyên loan phụng với cô đầm lai, con một bà Đồng Đền. Cả tỉnh ồn ào chê anh chàng tham của. Bà đồng này có tới bạc vạn và đã hết lòng sửa lại cái điện thờ ở chợ Bắc môn. - Không biết đã làm gì mà giàu? - Hay đã buôn thuốc phiện lậu? - Không phải, của mấy ông chồng để lại cho đấy! - Nói khoác, xấu như ma lại đòi làm giàu về nghề lấy Tây! - Cứ gì xấu hay đẹp... ở đời này có số chứ! Đó là những điều “ngồi lê đôi mách” của các me, mỗi khi muốn ghen với cái lá số của bà Đồng Đền. Mà cái lịch sử li kì của bà kể cũng đáng làm rỏ dãi các me. Khi còn cái tên Tư Bạc, nghĩa là giữa lúc “mơn mởn đào tơ” thì bà ta vì cái nhan sắc mẫu dạ xoa, chỉ thèm làm bạn... dăm năm với một ngài săng đá, một người mà quan niệm về mĩ thuật chưa phát triển mạnh. Do đó, đẻ được một mụn con gái... Rồi thì, một hôm bà Tư Bạc ngán ngẩm cuộc đời mà than rằng: “Mặt sông nước chảy lờ đờ, ông về bên ấy bao giờ ông sang!” Một vài năm qua... Sự túng thiếu... sự khổ nhục. Hết các kế, bà ta phải lấy bốn chữ “lá gió cành chim” ra làm một nghề. Một đêm, một quan tư thầy thuốc sai bồi đi gọi bà ta. Tháng sau, bà ta thành vợ quan tư thầy thuốc! Sự thương hại hay ái tình? Nào ai hiểu nổi sự rộng lượng của người đàn ông. Cứ cho là tại duyên số. Sau vài năm, ông quan tư ấy về rồi không sang. Năm sau lại một ông quan tư khác đến kế chân ấy. Rồi được ít lâu, ông cũng về. Ông nào về cũng để lại cho vợ nào nhà gạch đầy rẫy, nào bạc đầy rương. Giàu có rồi, bà Tư lần này đành... thủ tiết. Chỉ có một con gái, bà Tư muốn được một quý tế An-nam mai sau chôn cất cho mình. Viên giáo học ấy đã đến nói với con bà: “Tôi lấy mình vì tình chứ chẳng vì tiền đâu”. Được dăm năm, chàng rể quý ngày đêm cứ cầu trời khấn Phật vật chết mẹ vợ! Duy-ly – tên người vợ – đã cau mặt: - Đồ khốn nạn, mày chỉ vì tiền mà thôi! Thì ông chồng cười gằn: - Mang trên trán cái nhục là chồng mày, là con rể một kẻ như mẹ mày, mà không nói đến chuyện tiền thì thiên hạ nó cũng chửi! Những câu ấy chẳng phải không đến tai bà Đồng Đền. Nhưng mà bà cần gì! Đêm ngày bà ta cứ “tấu lạy Vua mẫu” xin ban ơn cho nhân gian, múa vung khói nhang mà hé hé hé! - Không! Dù nghèo hay giàu tôi cũng chẳng lấy chồng An-nam! Suzanne đã thở dài mà nói thế. Tôi, tôi cũng đã thở dài.
° ° °
- Vâng, tôi cũng phải đi ngay. Bà Kiểm lâm gọi tôi có việc cần. - Nhưng trước khi về Hà Nội, ông có quay lại đây nữa không? - Không biết thế nào mà dám nói trước. Xin kính chào bà và cô. Nói xong tôi với lấy mũ ra đi, Suzanne chạy theo tôi mười bước. - Này ông. -?... - Thế chuỗi hạt này ngụ những ý gì? Suzanne hỏi tôi một cách đứng đắn lắm. Chuỗi hạt pha lê ấy, khi từ đồi về đi qua phố Chính, tôi đã vào một hiệu khách mua nó và chờ về đến nhà mới rón rén đeo vào cổ Suzanne. Bà Ách nghèo nhưng trong khi tiếp đãi tôi, đã chịu thiệt. Lúc ấy tôi đã phải nói liều: - Để làm một kỉ vật đau đớn. Những dòng này, tôi mong sẽ có ngày ở dưới mắt Suzanne.