← Quay lại trang sách

Chương 8

Trong căn phòng vốn là của Arlena Marshall, hai cửa rộng dẫn ra bao lơn, từ đó nhìn xuống bãi tắm chính, và xa xa là biển cả.

Ánh sáng tràn ngập, chiếu lên chiếc bàn trang điểm đầy những lọ mỹ phẩm. Ba người xem xét từng ly từng tí.

Thanh tra Colgate mở các ngăn kéo, ồ lên một tiếng vì vừa phát hiện một tập thư, và cùng với đại tá Weston giở ra xem xét.

Phần Hercule Poirot, ông mở tủ áo và đứng trước một rừng váy áo sang trọng. Có đủ thứ: áo thường, áo lễ hội, áo tắm. Một ngăn chuyên để mũ, chiếc vàng, chiếc đỏ, có cả mũ rơm rộng vành kiểu Hawai, vân vân.

Poirot điểm từng thứ, lẩm bẩm:

- Ôi, phụ nữ!

Đại tá Weston xếp tập thư lại, nói:

- Ba bức của anh chàng Redfern si tình. A la la! Đàn bà thề sống thề chết là sẽ đốt thư của

người tình, nhưng rồi vẫn cứ giữ. Lại một lá thư cùng loại nữa, ông cầm lấy mà xem.

Poirot đọc:

Arlena yêu quý

Anh buồn đến chết. Phải đi Trung Quốc, có thể hàng năm trời nữa không gặp em... Anh yêu em như điên như dại, không tưởng tượng có ai lại yêu như thế. Cám ơn về tấm ngân phiếu. Thế là không còn chuyện truy tố gì nữa. Tất cả chỉ vì anh muốn kiếm thật nhiều tiền vì em. Tha lỗi cho anh nhé! Anh muốn phủ đầy kim cương lên người em, khoác lên cổ em những chuỗi ngọc đẹp nhất trên đời... Nhớ anh nhé, chớ quên anh, chúng ta là của nhau mãi mãi.

Vĩnh biệt, vĩnh biệt. J. N.

- Cũng nên xem tay J.N này có đi Trung Quốc thật hay không - Colgate nói. Nếu không, có thể chính hắn đấy. Yêu đến bò xuống sát đất, mà một hôm bỗng nhận ra người đẹp lại đi với người khác! Giống như cô Brewster đã nói. Tôi có cảm tưởng từ lá thư này có thể rút ra một cái gì.

Poirot gật đầu:

- Đúng. Lá thư này rất quan trọng.

Họ đi sang phòng bên, phòng của Ken Marshall.

Hai phòng không thông nhau. Phòng đại uý nhỏ hơn phòng của vợ, không có bao lơn, nhưng cùng nhìn ra một hướng. Giữa hai cửa sổ treo tấm gương lớn. Ở góc phía phải có một bàn trang điểm để đặt bàn chải, một lọ mỹ phẩm đàn ông. Góc phía trái kê bàn, trên đặt máy chữ và một chồng giấy.

Colgate liếc xem qua, nói:

- Mọi thứ có vẻ bình thường. A, đây là lá thư Marshall nói sáng nay. Đề ngày 24, tức là hôm qua, phong bì đóng dấu bưu điện Leather sáng nay. Hoàn toàn hợp lẽ. Để xem ông ta có thảo sẵn thư trả lời từ trước không.

Nói rồi, Colgate ngồi xuống. Weston nói:

- Trong khi đó, ta hãy đi xem các phòng khác. Tôi đã cho cấm đi lại từ đầu hành lang, nhưng khách đang kêu ca lắm rồi.

Đại tá và Poirot đi vào phòng của Linda. Phòng hướng đông, nhìn ra những tảng đá dốc thẳng xuống biển. Weston liếc nhìn một vòng:

- Trong này, có lẽ chẳng có gì đáng kể. Tất nhiên, Marshall có thể giấu cái gì ở đây, mà hắn không muốn ta tìm thấy, song không chắc. Vả lại, trong vụ này không có hung khí gì phải giấu.

Ông đi ra.

Tuy nhiên Poirot vẫn nán lại. Ông chú ý cái lò sưởi. Có ai vừa đốt gì đó. Ông quỳ xuống và cời ra từ trong đống tro một số thứ, bày ra trên một mảnh giấy. Một khối nến méo mó bị chảy, những mẩu giấy hoặc bìa màu xanh lục có vẻ như từ một tờ lịch bóc hàng ngày, vì trên một mảnh cháy dở còn một con số "5" to, trên một mẩu giấy khác có vài chữ in nhỏ. Ngoài ra còn có một đinh gim thường và một mớ bùng nhùng như là tóc cháy xém.

Poirot sắp xếp mọi thứ ngay ngắn, rồi ngắm nghía. Mấy chữ này đọc rõ "... làm việc tốt..." Thế là gì nhỉ? Khó hiểu!

Rồi ông cầm chiếc đinh ghim, mắt ánh lên sáng quắc:

- Trời! Chả lẽ lại thế?

Ông đứng lên, nhìn xung quanh với một nét mặt mới. Nghiêm trang, khe khắt.

Bên trái lò sưởi, có một cái giá xếp một hàng sách. Ông lại gần, đọc các đầu đề: một cuốn Kinh Thánh, một cuốn kịch của Shakespeare, Đám cưới William Ashe của nữ tác giả Humphry Wars, Bà mẹ kế trẻ của Charlote Yonge, Án mạng trong nhà thờ của Eliot, Thánh Jeanne của Bernard Shaw, Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell...

Ông rút ra hai quyển, Bà mẹ kế trẻ và Đám cưới..., xem dấu đóng mờ mờ ở trang đầu. Lúc đặt lại chỗ, ông thấy một cuốn sách mỏng đóng bìa nâu, giấu phía sau. Ông cầm lấy, mở ra.

- Vậy là mình đoán đúng - ông gật đầu tự khen. Phải, mình đoán đúng. Nhưng còn người kia... chả lẽ? Không, không thể, trừ phi...

Ông đứng nguyên tại chỗ, đưa tay vuốt ria, suy nghĩ rất lung.

- Trừ phi... ông lầm rầm nhắc lại.

     

* * * * *

Weston ló đầu vào:

- Ông Poirot, vẫn trong ấy à?

- Vâng, tôi ra, tôi ra.

Poirot vội theo đại tá vào phòng vợ chồng Redfern.

Nhìn thoáng, ông đã thấy dấu hiệu của hai tính cách khác hẳn nhau. Một bên là tính ngăn nắp, hẳn là của Christine, một bên là sự bừa bộn đặc trưng của Patrick. Ngoài ý nghĩa ấy, Poirot thấy không có gì khác đáng chú ý.

Ở phòng tiếp theo, của Rosamond Darnley, trái lại, ông vui mừng đứng ngắm hồi lâu. ông ghi nhận những cuốn sách đặt trên bàn, những đồ trang điểm đơn giản nhưng sang trọng. Và mùi hương tinh tế, đắt tiền toả ra khắp phòng.

Ở đầu hành lang, sau phòng của Rosamond, có một cửa - đồng thời là cửa sổ - mở ra bao lơn, và có một cầu thang bên ngoài trèo xuống núi đá. Weston nói:

- Những khách đi tắm sớm thường xuống bằng cầu thang này. Ít nhất là những ai không ngại leo trèo qua những tảng đá.

Poirot bỗng chú ý, ghé nhìn qua bao lơn, thấy một con đường mòn dẫn đến bậc khấp khểnh đẽo trong đá đi xuống biển. Một đường mòn khác quành qua khách sạn từ phía trái. Ông nhận xét:

- Có thể xuống lối này, quành sau khách sạn, ra đập tràn.

- Cũng có thể băng qua đảo mà không cần ra khách sạn- Weston nói thêm... Nhưng dù sao vẫn dễ bị người nào đứng ở cửa sổ trông xuống.

- Cửa sổ nào?

- Hai buồng tắm chung nhìn ra phía đó - phía bắc - và cả buồng tắm của nhân viên, và phòng thay quần áo ở tầng trệt. Cả phòng chơi bi-a nữa.

Poirot gật đầu:

- Nhưng trừ phòng bi-a, các cửa kia đều lắp kính mờ. Mà sáng trời đẹp, không ai chơi bi-a.

- Đúng.

- Nếu hung thủ là hắn, hắn sẽ theo lối ấy - Weston tiếp.

- Ông muốn nói đại uý Marshall?

- Phải, hăm doạ hay không, theo tôi, đích thị là hắn. Và thái độ của hắn... là khá bất lợi.

- Đành vậy - Poirot châm chọc - nhưng ông xét thái độ mà nhìn ra hung thủ từ bao giờ thế?

- Vậy theo ông, hắn vô can?

Poirot lắc đầu:

- Không, tôi không khẳng định như thế.

- Để sau khi Colgate kiểm tra, xem cái bằng chứng ngoại phạm của hắn giá trị đến đâu. Trong khi chờ, tôi phải thẩm vấn cô hầu phòng của tầng này.

Gladys Narracott, trạc ba mươi, nhanh nhẹn và hoạt bát, trả lời các câu hỏi một cách vững vàng.

Đại uý Marshall lên phòng sau 10 giờ 30 một chút. Cô ta sắp dọn phòng xong, ông ấy yêu cầu làm nhanh lên. Sau đó cô không trông thấy ông trở lại, nhưng nghe tiếng máy chữ lách cách vào lúc độ 11 kém 5, là cô ấy đoán chừng thế. Lúc bấy giờ cô đang ở trong phòng vợ chồng Redfern. Tiếp đó, dọn phòng cô Darnley ở đầu hành lang.

Từ chỗ ấy, không thể nghe tiếng máy chữ. Lúc đó là 11 giờ, vì khi vào phòng, cô nghe thấy tiếng chuông nhà thờ Leather. Đến 11 giờ 15, cô trở về phòng trực để ăn uống tí chút. Rồi cô lại tiếp tục công việc ở cánh bên kia toà nhà.

Tóm lại, cô khai đã dọn phòng theo thứ tự sau: phòng Linda trước, hai buồng tắm chung, phòng bà Marshall, ông Marshall, phòng ông bà Redfern, phòng cô Darnley. Tất cả đều có buồng tắm riêng, trừ các phòng ông Marshall và cô con gái.

Không, lúc ở trong phòng cô Damley, cô không nghe tiếng ai đi ngoài hành lang hoặc trèo cầu thang ngoài, nhưng nếu người đó đi rón rén bằng đầu ngón chân thì chắc không thể nghe thấy được.

Weston hỏi tiếp về bà Marshall.

Không, bà Marshall không hay dậy sớm, vì vậy Gladys Narracott rất ngạc nhiên thấy phòng bà không có ai lúc 10 giờ. Thật khác thường.

- Bà Marshall bao giờ cũng dùng điểm tâm trong phòng?

- Vâng, bao giờ cũng vậy. Và bà ăn rất ít. Một chén trà, chút nước cam, lát bánh mì nướng. Để giữ eo, như nhiều quý bà.

Không, lúc bưng khay lên, cô không nhận thấy gì đặc biệt trong thái độ bà Marshall. Hoàn toàn bình thường.

- Cô nghĩ thế nào về bà Marshall? Poirot hỏi.

Gladys tỏ vẻ kinh ngạc:

- Ô, không, tôi là ai mà dám có ý kiến...

- Không, cô cứ nói. Chúng tôi rất muốn biết ý kiến của cô.

Gladys đưa mắt cầu cứu đại tá, ông này có hơi lúng túng về phương pháp của người đồng nghiệp nước ngoài, vẫn phải vỗ về, động viên:

- Được... được, cô cứ nói.

Gladys Narracott lúc này mất hẳn bình tĩnh, vân vê chiếc váy hoa:

- Dạ, dạ, bà Marshall... không giống như một quý bà. Có lẽ bà ấy là nghệ sĩ.

- Thì bà ấy đúng là nghệ sĩ - đại tá cười.

- Vâng, vâng, tôi nghĩ như thế. Bà ấy không cần mọi người nghĩ gì, nói gì. Lắm lúc bà ấy chẳng giữ ý gì cả, nhẹ nhàng đấy, rồi lại gắt um lên. Không tìm thấy cái gì, hay bấm chuông mà tôi chậm tới, quần áo không giặt kịp là bà ấy mắng như tát nước, không coi ai ra gì. Phải nói rằng chúng tôi không ưa lắm. Nhưng bà ấy có quần áo rất sang, và bà ấy rất đẹp! Nên bà được nhiều người ngưỡng mộ.

Đại tá nói:

- Rất phiền phải hỏi cô câu này, nhưng đây là điểm mấu chốt. Cô có thể cho biết quan hệ giữa bà ấy với chồng ra sao?

- Ông... Chẳng lẽ... Cảc ông cho rằng chính... ông ta? Gladys sửng dốt.

- Còn cô nghĩ sao? - Poirot hỏi trở lại.

- Ôi, không thể thế! Đại uý Marshall là một quý ông đàng hoàng. Ông ấy không thể làm chuyện ấy. Nhất định không. Chả lẽ..

- Nghe giọng cô thì chưa hoàn toàn chắc chắn...

Gladys miễn cưỡng công nhận:

- Báo chí viết lắm chuyện. Khi máu ghen nổi lên... Nếu những điều người ta đồn về bà ấy và ông Redfern là thật... Mà bà Redfern thì hiền và dễ thương thế! Thật đáng xấu hổ! Ông Redfern cũng là người đàng hoàng đấy chứ, thế mà... Đúng là đàn ông không cưỡng nổi với một người như bà Marshall - bà ấy đã quen muốn gì được nấy rồi. Đã là vợ, thì phải biết liệu chừng chứ... Nếu ông đại uý mà biết...

- Thì sao? - Weston dồn.

- Tôi có cảm giác là bà Marshall sợ chồng biết sự thật.

- Cái gì làm cô nghĩ vậy?

- Chẳng gì cụ thể. Chỉ là cảm giác của tôi... bà ấy sợ chồng. Ông ấy luôn hoà nhã và tốt, nhưng cũng... không dễ đâu.

- Cô vẫn chưa kể gì cụ thể hơn... cô nghe thấy họ nói với nhau những gì, chẳng hạn?

Gladys thong thả lắc đầu. Weston thở dài:

- Thôi được. Bây giờ nói đến những thư từ ông Marshall nhận được sáng nay. Cô biết gì không?

- Có độ sáu, bảy cái

- Chính cô mang lên cho ông?

- Vâng. Dưới văn phòng đưa lên cho tôi và tôi đặt lên khay điểm tâm mang vào cho ông.

- Loại thư từ gì, cô nhớ không?

- Không có gì đặc biệt. Có những hoá đơn, cả tờ tiếp thị. Tôi thấy mấy cái bị xé, vẫn để ở khay.

- Và cô làm gì với chúng?

- Vứt vào sọt rác. Có một ông cảnh sát đang lục lại.

- Thế còn bồ giấy, đâu rồi?

- Cũng bỏ vào sọt rác.

- Hừm. Có lẽ thế là đủ - Weston đưa mắt nhìn Poirot, kết luận. Poirot ngả người về phía Gladys:

- Sáng nay lúc dọn phòng cô Linda, cô có quét lò sưởi?

- Chả có gì mà quét dọn. Không nhóm lửa.

- Không có tro than?

- Không có, hoàn toàn sạch sẽ.

- Cô dọn phòng ấy lúc mấy giờ?

- Khoảng 9 giờ 15, lúc cô ấy xuống điểm tâm.

- Sau đó cô Linda có trở về phòng nữa không?

- Có, lúc 10 giờ kém 15.

- Và Linda ở lâu trong phòng?

- Hình như thế. Phải sắp 10 giờ 30 cô mới ra. Có vẻ vội.

- Cô không vào lại phòng ấy nữa?

- Không, vì tôi đã dọn rồi.

Poirot gật đầu, hòi tiếp:

- Có một điều nữa tôi muốn biết. Sáng nay, những ai đi tắm từ trước bữa điểm tâm?

- Ở tầng trên và cánh bên kia thì không biết, tôi chỉ biết cánh bên này.

- Cô cứ nói.

- Có ông Marshall, ông Redfern. Sáng nào họ cũng đi tắm.

- Cô có trông thấy hai ông đi xuống?

- Không, nhưng đồ tắm của họ phơi trên ban công như mọi ngày.

- Còn cô Linda? Cô ấy không đi tắm?

- Không, tất cả áo tắm của cô ấy đều khô.

- À, đó chính là điều tôi muốn biết.

- Nhưng mọi sáng cô ấy vẫn đi tắm – Gladys chủ động nói rõ.

- Còn ba phụ nữ kia? Cô Darnley, bà Redfern và bà Marshall?

- Bà Marshall, không bao giờ. Cô Darnley, một hoặc hai lần. Còn bà Redfern, rất hiếm khi tắm trước bữa điểm tâm, trừ khi trời thật nóng, nhưng sáng nay thì không.

Poirot lại gật đầu:

- Cô có thấy trong một phòng của cánh bên này, thiếu một cái chai gì đó không?

- Chai? Chai gì cơ, thưa ông?

- Tiếc thay, tôi cũng không biết. Nhưng nếu thiếu một cái chai hay lọ cũng được - liệu cô có nhận thấy không?

- Nếu là ở phòng bà Marshall thì khó biết, vì trong ấy có rất nhiều chai lọ.

- Còn ở phòng khác?

- Phòng cô Darnley, tôi không chắc lắm, vì cũng có không ít chai và lọ. Còn ở các phòng khác, tôi có thể nhận ra. Miễn là phải chú ý, tất nhiên. Có nghĩa là: nếu cố tình xem kỹ.

- Và cô không thấy gì?

- Không, nhưng là tại tôi không để ý, thế thôi.

- Hay là, bây giờ cô có thể đi soát một lượt xem.

- Vâng, tôi đi ngay.

Cô vừa ra khỏi, Weston hỏi Poirot:

- Như thế là thế nào?

- Đó là bộ óc trật tự của tôi - Poirot nói nhỏ, cứ hay chú ý những thứ vặt vãnh. Sáng nay, cô Brewster tắm ở dưới, gần núi đá, nói suýt bị một cái chai ném từ cửa sổ rơi vào đầu. Tôi chỉ muốn biết ai đã ném cái chai đó, và tại sao ném.

- Ô ông bạn, ai ném mà chả được!

- Không! Trước hết, chỉ có thể ném từ một cửa sổ mặt tiền, tức là từ một trong các phòng ta vừa vào. Giờ tôi thử hỏi các ông: nếu ông có một chai hay lọ dùng hết rồi trên bàn trang điểm hay buồng tắm, ông làm gì? ông vứt nó vào bồ rác. Không hơi đâu lại đi ra ban công mà vứt xuống biển. Trước hết, có thể rơi vào đầu người ta, sau nữa là mất sức vô ích. Trừ khi ông muốn không ai vớ được cái chai đó.

Weston đăm đăm nhìn Poirot:

- Ông thanh tra Japp, mà tôi cùng cộng tác trong một vụ việc gần đây, có nói đến đầu óc oái oăm của ông. Nghe ông nói, cứ như là bà Arlena Marshall không bị bóp cổ, mà bị đầu độc bằng một chất bí ẩn lấy từ một cái chai bí ẩn nào.

- Không, không, tôi không có ý nghi là có thuốc độc trong cái chai đó.

- Thế thì là cái gì?

- Không biết. Vì thế tôi mới phải để ý.

Gladys Narracott đã trở lại, miệng thở hơi mạnh:

- Rất tiếc, tôi không thấy thiếu cái gì. Trong các phòng đại uý Marshall, cô Linda và ông bà Redfern, rõ ràng mọi thứ vẫn đủ. Phòng cô Darnley cũng không thấy thiếu gì. Nhưng còn phòng bà Marshall thì không dám chắc, vì như tôi nói, nhiều chai lọ quá.

Poirot nhún vai:

- Không sao. Thôi, bỏ qua việc này.

- Vậy còn gì nữa không ạ? - Gladys hỏi, mắt nhìn hết người này sang người khác.

- Có lẽ không. Xin cảm ơn. Weston nói.

- Tôi cũng xin cảm ơn - Poirot nói. Chắc chắn cô không quên gì chứ?

- Về bà Marshall ấy ạ?

- Về tất cả mọi thứ. Bất cứ điều gì bất thường, lạ lẫm, khó hiểu, kỳ cục - tóm lại bất kỳ điều gì khiến cô phải nghĩ hoặc nói với bạn bè: "Lạ thật..."

- Lạ thật... nhưng không phải là về những gì ông nghĩ - Gladys đáp, vẻ phân vân.

- Tôi nghĩ gì, không quan trọng! Nào cô biết tôi nghĩ gì. Vậy đúng là có một lúc nào đó, hôm nay, cô đã nghĩ "Lạ thật", có phải không?

- Thực ra, chỉ là chuyện vặt. Có nước rút ục ục ở một bồn tắm. Và về đến phòng trực, tôi đã nói với Elsie: Lạ thật, giữa trưa mà lại có người tắm trong phòng.

- Bồn tắm nào? Ai tắm?

- Điều đó, tôi không thể nói. Chỉ nghe tiếng nước rút ục ục ở một bồn tắm, thế thôi.

- Cô chắc chắn là bồn tắm, chứ không phải chậu rửa mặt?

- Không, lầm thế nào được ạ.

Poirot không còn gì để hỏi. Gladys Narracott được phép rút.

- Chả nhẽ ông cho việc cái bền tắm là qưan trọng, ông Poirot? Tôi thấy nó không dính dáng đến vụ án. Làm gì có vết máu để phải chùi rửa...

Đó chính là...

Weston chưa nói hết, thì Poirot tiếp:

- Lợi thế của bóp cổ, phải không? Không vết máu, không hung khí, không có gì phải giấu, phải huỷ. Tất cả, chỉ cần sức lực, và một tâm địa sát thủ.

Trong nhận xét của Poirot, sục sôi một niềm căm giận khiến Weston không khỏi giật mình. Hercule vội cười xoà, như để xin lỗi:

- Dù sao, cũng không quan trọng. Ai tắm giữa trưa chẳng được. Có thể là bà Redfern trước khi đi chơi ten-nít, hoặc ông Marshall, cô Darnley, bất kỳ ai. Chẳng có gì ám muội.

Có tiếng gõ cửa, một cảnh sát ló đầu vào:

- Thưa sếp, cô Darnley muốn gặp. Cô gì quên lúc nãy chưa kịp nói.

- Chúng tôi xuống ngay - Weston đáp.

     

* * * * *

Dưới nhà, họ chạm trán Colgate với vẻ mặt không vui.

- Xin sếp một phút.

Hai người theo ông ta vào văn phòng bà Castle. Colgate nói:

- Tôi đã cùng Heald kiểm tra chuyện cái máy chữ. Rõ ràng là muốn đánh số thư từ ấy, ít nhất phải mất một tiếng. Nếu vừa đánh vừa ngừng để nghĩ, thì phải hơn. Theo tôi, vấn đề đó đã xong. Còn cái này nữa.

Ông đưa ra một lá thư:

Ông Marahall thân mến

Rất tiếc phiền ông trong lúc đang nghỉ hè, nhưng chúng ta có chuyện bất ưng với các hợp đồng Bunley Tender...

- Vân vân,vân vân... Đề ngày 24, tức hôm qua. Phong bì đóng dấu tối qua ở London và sáng nay ở Leather. Thư và phong bì đều đánh cùng một máy chữ, và xét về nội dung, hoàn toàn Marshall không thể chuẩn bị sẵn thư phúc đáp từ trước.

- Hừm, Weston tỏ ra thất vọng. Như vậy có thể coi Marshall là vô can. Vậy phải tìm sang hướng khác. Được rồi. Có cô Damley đang chờ, cô muốn nói điều gì.

Rosamond Darnley có vẻ băn khoăn, cười gượng:

- Rất tiếc, lại làm phiền ông. Có thể là không quan trọng. Nhưng nhiều khi hay quên...

- Không sao, cô Darnley? Weston đưa ghế, mời ngồi.

Cô từ chối, lắc đầu khiến mớ tóc nâu sóng sánh:

- Ồ, không cần ngồi, tôi chỉ nói một câu thôi. Tôi đã nói là buổi sáng tôi ngồi ỏ hốc Mặt trời. Nói vậy không hoàn toàn đúng. Tôi quên là có một lúc tôi đã quay về khách sạn, rồi lại đi ra.

- Lúc đó là mấy giờ?

- Khoảng 11 giờ 15.

- Vậy là lúc đó, cô đã quay về khách sạn?

- Vâng. Tôi để quên đôi kính râm. Mới đầu nghĩ là không sao, nhưng sau chói mắt quá, nên tôi quay về lấy.

- Cô về rồi lại đi?

- Vâng. Lúc đi, tôi ngó qua phòng Ken... đại uý Marshall. Tôi nghe tiếng anh ta đánh máy chữ, tôi thấy trời đẹp mà giam mình trong phòng là dại, nên định bảo anh ấy ra mà tắm nắng.

- Và ông ấy nói sao?

Rosamond mỉm một nụ cười ngỡ ngàng rất duyên dáng:

- Nhưng khi tôi mở cửa, thấy anh làm việc chăm chú quá, nên tôi lại rón rén bỏ đi. Có lẽ anh ấy cũng không biết.

- Và lúc ấy là... mấy giờ cô Darnley?

- 11 giờ 20. Lúc ra, tôi có nhìn đồng hồ.

     

* * * * *

Colgate nói:

- Thế là xong một chuyện. Gladys Narracott đã nghe tiếng Marshall đánh máy tới 11 giờ kém 5, cô Darnley trông thấy ông ta lúc 11 giờ 20, Arlena chết vào khoảng 12 giờ kém 15. Marshall khai ở trong phòng đánh máy khoảrig một tiếng, và có vẻ như vậy là đúng. Ta có thể quên Marshall và...

Ông bỗng ngừng bặt, chăm chú nhìn Poirot:

- Ông Poirot bỗng có vẻ đăm chiêu. Có gì không ổn?

- Tôi đang tự hòi bỗng dưng tại sao cô Damley lại thấy cần cung cấp cho ta thêm bằng chứng phụ này,- Poirot đáp.

- Ông thấy chuyện đó là đáng ngờ à? Nhớ nhớ quên quên, là thường.

Colgate ra chiều ngẫm nghĩ, rồi thong thả nói:

- Bây giờ ta xem xét vấn đề thế này nhé? Giả thử cô Darnley sáng nay bịa ra chuyện đi hốc Mặt trời, nay phải nói lại, có lẽ vì cô phát hiện có người đã gặp cô ở nơi khác, hoặc có ai đã ra hốc Mặt trời nay nói là không thấy cô. Lập tức, cô bịa ra một chuyện khác rồi đến nói với ta, để chặn đứng rắc rối. Cô ta cẩn thận nói rằng ông Marshall không biết cô quay trở lại, các ông để ý?

- Có, tôi có để ý điều đó - Poirot lầm bầm.

- Và ông đang nghĩ là cô Darnley có dính dáng thế nào đó? - Weston hỏi. Vô lý. Tôi không tin. Lý do gì cô phải làm như thế?

Colgate khẽ ho:

- Ông có nhớ bà người Mỹ, bà Gardener, nói gì không? Cô Darnley này có ý mê đại uý Marshall. Đó là một động cơ, thưa các ngài.

Đại tá sốt ruột:

- Người giết Arlena Marshall không phải là đàn bà! người ta cần tìm là đàn ông, vậy xin giới hạn ở đàn ông.

Colgate thở dài:

- Vâng, ông nói phải. Chỉ có cách vậy thôi.

- Ta thử tính giờ các quãng đường xem sao. Ông hãy cử một nhân viên làm việc này. Đi từ khách sạn đến đầu thang, hết bao nhiêu, nếu vừa đi vừa chạy. Rồi trèo thang xuống hết bao nhiêu. Kiểm tra cả thời gian đi canô từ bãi tắm đến vụng Yêu tinh là bao nhiêu.

- Chuyện đó đã làm rồi ạ - Colgate vội đáp.

- Tốt. Có lẽ tôi sẽ đi ra vụng bây giờ, xem cậu Philips làm đến đâu rồi. Lại còn cái động nữa. Kiểm tra xem trong ấy có dấu tích người nào vào không, Poirot, ông thấy thế nào?

- Tán thành. Hoàn toàn nên làm.

- Nếu có kẻ từ ngoài lẻn vào đảo, thì đó là chỗ ẩn nấp lý tưởng. Tất nhiên, với điều kiện là hắn phải biết cái động đó. Dân địa phương có biết không nhỉ?

- Lớp trẻ thì không biết - Colgate đáp. Từ khi có khách sạn, thì các vụng quanh đảo trở thành sở hữu tư nhân. Không ai được đến câu cá hoặt cắm trại ở đó. Các nhân viên khách sạn không phải là người bản địa. Ngay bà Castle là người London.

- Chúng ta có thể đưa Redfern đi theo - Weston nói. Chính ông ta nói có cái động ấy Poirot, ông có đi không?

Poirot lưỡng lự:

- Vì tôi giống cô Brewster và bà Redfern nên rất sợ phải leo xuống bằng thang thẳng đứng.

- Thế thì ông đi bằng thuyền - Weston gợi ý.

Poirot lại than thở:

- Khốn nỗi tôi sợ say sóng.

- Nào, nào, dũng cảm lên chứ! Trời yên. Biển lặng. Chẳng lẽ ông lại bỏ rơi chúng tôi?

Hercule Poirot không có vẻ gì xiêu lòng trước lời động viên ấy. Vừa lúc đó bà Castle ló mặt vào:

- Tôi không làm phiền các ông chứ, nhưng cha Lane vừa về. Tôi thấy cần báo các ông biết.

- Rất tốt. Chúng tôi sẽ gặp ông ấy ngay.

Bà Castle tiến thêm một bước:

- Không biết có nên nói không, nhưng hình như các ông bảo không được bỏ qua chi tiết nào, dù rất nhỏ..

- Vâng? - Weston sốt ruột ngắt lời.

- Lúc 1 giờ, có 1 ông và 1 bà tới đây. Họ từ Leather đến, định ăn trưa. Nhưng vì đang có việc bất thường, nên chúng tôi bảo vớỉ họ là chúng tôi không phục vụ.

- Liệu bà có biết họ là ai?

- Tôi không biết. Họ tỏ vẻ thất vọng và có ý muốn biết sự việc bất thường là gì, nhưng tất nhiên chúng tôi thấy không cần phải nói. Theo tôi, đây là một cặp vợ chồng thuộc loại sang trọng, đi du lịch...

- Cảm ơn bà đã báo - Weston nói. Chẳng quan trọng lắm, nhưng bà đã chú ý thông báo, thế là tốt.

- Tôi chỉ làm phận sự của mình — bà Castle hãnh diện.

- Tốt, tốt. Bác mời giúp cha Lane tới đây.

     

* * * * *

Stephen Lane mạnh mẽ bước vàọ phòng. Weston tự giới thiệu:

- Ông Lane, tôi là quận trưởng cảnh sát địa phương. Tôi đoán, ông đã biết chuyện?

- Có... có... ngay lúc về tới đây. Thật kinh hoàng... kinh hoàng.

Thân hình khẳng khiu của ông run lên bần bật. Giọng nói ồm ồm hơn mọi khi:

- Ngay từ hôm đầu tiên... tôi đã cảm thấy... cảm thấy rất sâu sắc rằng cái ác đang có mặt. Nó ở... rất gần.

Đôi mắt như loé lửa, nhìn vào Poirot:

- Ông Poirot, ông nhớ không? Chúng ta nói chuyện với nhau cách đây mấy hôm? Về sự hiện hữu của cái ác?

Weston quan sát cái bóng người khắc khổ của ông cha, lòng đầy phân vân. Khó mà hiểu nổi ông thầy tu này. Lane nhìn thẳng vào đại tá, nói:

- Tôi nói điều này chắc ông cho là ngoa ngữ. Thời nay không còn ai tin có cái ác. Không còn biết gì về Lửa Hoả ngục! Coi Quỷ là trò cười! Trong khi Xa tăng và tay sai không lúc nào hoạt động dữ bằng lúc này!

- Vâng, vâng, có thể là vậy - Weston hầm hừ. Đó là thuộc lĩnh vực của cha. Lĩnh vực của tôi thực tế hơn: tôi đang điều tra vụ giết người.

- Giết người! - Stephen Lane kêu lên. Một cụm từ khủng khiếp! Đó là tội lỗi đầu tiên của con người trên trái đất - máu người anh em đổ một cách vô vọng...

Đôi mắt cha nhắm lại như để nhìn vào cõi hư không. Rồi lấy giọng bình thường, cha hỏi:

- Tôi có thể giúp ích được gì?

- Trước tiên, hãy kể sáng nay cha làm gì.

- Tôi dậy sớm để đi dạo. Tôi thích đi bộ. Tôi đã thăm thú khắp các vùng xung quanh. Hôm nay, tôi đến tận st Petrock, cách đây chừng mười cây - đường đi ngoắt ngoéo rất thú vị trên đồi. Tôi mang theo thức ăn khô, ăn dưới bụi cây. Rồi tôi vào thăm nhà thờ bên trong có cửa kính màu và một bức tranh rất đẹp.

- Cha có gặp người nào trên đường?

- Gặp, nhưng không chuyện trò với ai. Một xe bò kéo, hai cậu bé đi xe đạp, vài con bò. Nhưng, nếu các ông cần bằng chứng, tôi có ghi tên tôi lên sổ của nhà thờ.

- Ông không gặp ai trong nhà thờ? Cha xứ? Ông bõ?

Lane lắc đầu.

- Không, chẳng có ai. St Petrock là nơi hẻo lánh. Làng mạc ở cách đó gần một cây số.

Weston dàn hoà:

- Cha đừng lo. Chúng tôi chỉ kiểm tra theo thủ tục. Không có cách nào khác.

- Tôi hiểu.

- Bây giờ, Cha có biết gì hơn nữa không? Chung quanh nạn nhân? Một chi tiết gì đáng chú ý? Một điều gì cha trông thấy, nghe thấy?

- Không, không. Điều tôi muốn nói, chỉ là như sau: ngay khi nhác thấy Arlena Marshall, tôi biết ngay bà này mang điều ác trong người. Bà ta là hiện thân cái ác. Đàn bà có thể là cứu cánh của đàn ông, nhưng cũng đồng thời là tai hoạ. Có thể hạ đàn ông xuống hàng con vật. Cái bà chết là người như thế đó. Thị kéo đàn ông vào vũng bùn ti tiện, như Jézabel và Aholibah. Và bây giờ... bị trời đánh chết vì sự đồi trụy của mình.

- Không phải bị đánh chết, mà bị...bóp cổ chết - Poirot nói. Bóp cổ, cha biết không, bị hai bàn tay người bóp cổ!

Hai bàn tay ông cha run run, ngón tay quắp lại rồi duỗi ra.

- Kinh hoàng... kinh hoàng... - ông than thở.

- Đó chỉ là sự thật. Những bàn tay ấy, liệu cha có biết tay ai?

Vị linh mục hốt hoảng lắc đầu:

- Tôi không biết... không biết...

- Thôi được - Weston đứng dậy, đưa mắt nhìn Colgate - Bây giờ ta ra vụng.

- Vậy là chuyện xảy ra... ở đó?

Weston gật đầu.

- Tôi có thể đi cùng các ông?

Đại tá định nói không, thì Poirot đã cướp lời:

- Được, được chứ. Cha đi thuyền với tôi. Ngay bây giờ.

† † † †