← Quay lại trang sách

⚝ III ⚝ SỰ KIỆN TRỌNG ĐẠI ĐÃ ĐƯỢC BẮT ĐẦU NHƯ THẾ NÀO

Vào khoảng tháng Chín của năm 1974, những chiến sĩ của chiến trường Tây Nguyên đã trực tiếp bắt tay vào những công việc chuẩn bị cho một tương lai gần, cho cái đích trước mắt. Nói cho rõ hơn là chuẩn bị cho một trận đánh lớn có thể xảy ra mà cũng có thể không xảy ra vào mùa xuân năm tới. Nếu không xảy ra thì lại phải làm lại, cũng vẫn những công việc ấy nhưng là ở một hướng khác. Hành quân, đào hầm, lấy gạo, làm hết sức chuẩn bị cho một trận đánh, rồi lại có lệnh rút, lại hành quân, lại đào hầm, lại lấy gạo, lại làm lại từ đầu những việc đã làm, đó là công việc quen thuộc của người cầm súng.

Mời các bạn hãy giở bản đồ vùng cao nguyên miền Trung và hãy soi tìm một chấm đen ở phía tây-nam, đó, Gia Nghĩa đó, tỉnh ly của tỉnh Quảng Đức. Nhìn trên bản đồ mà cũng cảm thấy xa xôi, heo hút và hiểm trở. Nhưng cái chấm đen ấy lại là mục tiêu của mọi hoạt động: phải làm đường tới, nhiều đường, đường chính và đường phụ; phải tải gạo tới; phải tải súng và đạn và xăng tới; phải đưa những đơn vị có nhiệm vụ tác chiến tới. Viết thì dễ, nhưng làm đâu có dễ như viết, như nói. Phải có những phân đội đi trước, và những người đi trước bao giờ cũng là công binh, là hậu cần, là trinh sát và tham mưu. Hễ nói tới công binh trong lòng lại bồi hồi những thương nhớ, những kính phục nhiều đơn vị công binh đã từng đi với nhau một đoạn đường, ăn ở với nhau một ít ngày và được tận mắt nhìn một số việc. Đơn vị bạn chưa đánh thì mình đã đến rồi, đến trước cả năm, anh em rút, mình vẫn còn ở lại. Mùa nổ súng tất nhiên là rất vất vả, nhưng sang mùa mưa, thời gian im tiếng súng vẫn cứ vất vả vì lại phải bắt tay chuẩn bị cho những trận đánh vào mùa nổ súng năm sau. Lính công binh là lính mở đường. Đã là người mở đường bao giờ cũng phải gánh chịu mọi nỗi gian nan trong sự lặng lẽ hoàn toàn, với tinh thần hy sinh hoàn toàn. Ví như những việc đã làm của trung đoàn 7 công binh trong năm 1973, năm 1974, tới đầu năm 1975 tại khu vực đông- bắc Công Tum. Không phải việc thường mà là việc hết sức hệ trọng. Mở một con đường dài trên trăm cây số chạy dọc theo dãy Cu-prê-mông, độ cao từ tám trăm đến một nghìn mét so với mặt biển, tạo một thế đứng lâu dài cho mọi hoạt động quân sự của ta ở phía đông đường 14. Tháng Bảy năm 1973, trung đoàn 7 nhận lệnh mở đường 220, con đường xuyên về phía đông. Nhận lệnh mở đường vào đầu mùa mưa! Một nửa quân số làm đường còn một nửa gùi gạo, gùi đạn, gùi mìn và bộc phá. Cái số nửa được làm đường lại phải dành ra một phần người làm nhiệm vụ bảo vệ con đường. Đào khoét ầm ầm đêm ngày ngay trên chóp đỉnh thị xã Công Tum, kẻ địch ngồi im sao được. Từng trung đoàn lính bảo an và biệt động cùng với pháo và bom thay phiên nhau phá đường, bắn người, cuối cùng là phá máy. Mà cũng chỉ có mỗi cái máy húc lấy được của địch từ trận Đắc Tô, Tân Cảnh năm 1972. Tháng Hai năm 1974, đường đã mở được đến cây số 36. Tháng Tư năm 1974, mở tiếp đến cây số 41, vượt sông Đắc-bla. Đường đã qua được sông là thằng địch bị khốn khó rồi, con đường 19 bị uy hiếp trực tiếp rồi. Con đường mới tới cây số 47, chỉ trong có mười đêm, cơ quan hậu cần của quân khu đã chuyển cho trung đoàn 95A(hoạt động ở đông đường 14) hai nghìn tấn đạn, gạo đảm bảo chiến đấu tới hết năm 1974. Mùa xuân năm 1975, trung đoàn anh hùng này cùng với sư đoàn 3 của quân khu 5 đã khóa chặt con đường chiến lược 19, buộc địch phải rút chạy bằng một con đường khác, đường 7, một nấm mồ kéo dài suốt mấy chục cây số. Không có con đường xuyên đông được bắt đầu từ mùa mưa năm 1973, sẽ không có cách gì khóa chặn được đường 19, địch ở Công Tum và Plây Cu có thể rút chạy khỏi Tây Nguyên bằng nhiều ngả, có thể chúng không bị tiêu diệt một cách thê thảm như đã xảy ra, có thể các tỉnh dọc ven biển còn cố thủ được ít ngày, có thể cuộc tiến quân của chúng ta sẽ bị chậm đi, có thể mọi diễn biến sẽ không hoàn toàn giống như chúng ta đã được biết...

Tháng giêng năm 1975, một trăm lẻ tám cây số đường 220 đã làm xong. Nhưng từ tháng Mười năm 1974 nhiều đơn vị công binh đã được lệnh lần lượt lên đường làm nhiệm vụ mới. Lại thồ trên lưng mười lăm ngày gạo, một tháng muối và thực phẩm khô, rồi cuốc xẻng, rồi bộc phá, rồi súng đạn, rồi quần áo, võng bạt và lên đường. Từ đông- bắc Công Tum xuyên rừng, vượt núi, qua Gia Lai, qua Đắc Lắc xuống Quảng Đức, tỉnh phía nam của cao nguyên trung phần. Là bao nhiêu cây số? Là ba trăm, là năm trăm, hay còn dài hơn nữa? Cán bộ đến trước chụm đầu trên mảnh bản đồ đã sờn rách, vạch một đường thẳng từ A đến B, từ B đến C, rồi từ A lớn sang a nhỏ, từ B lớn sang b nhỏ, nét chì đỏ nằm đè lên rừng, lên núi, lên suối lên sông. Thiên nhiên uốn éo, lưỡng lự, lập lờ nhưng con đường cho pháo đi, cho xe đi, cho tăng đi là phải thẳng, càng thẳng được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Bộ đội đến sau nhằm vào cái vệt chì đã vạch, xoa bàn tay dày cộm những chai sạn, những sẹo sứt lên cán cuốc, mím môi lại, bổ những nhát cuốc đầu tiên. Cứ thế, cứ thế, ngày qua đêm, đêm sang ngày, phá rừng, đục núi, bạt thác, đóng phà, xếp ngầm, một cây số, mười cây số... những đoạn đường đất đỏ mọc dài mãi ra nhằm theo cái mục tiêu đã được xác định mà vươn tới, mà bao tròn.

Tháng Mười hành quân. Tháng Một bổ xuống những nhát cuốc đầu tiên lên vùng đất mới. Ngày 6 tháng Chạp mạng đường bao quanh chi khu Đức Lập gồm ba mươi trục dọc và bốn trục ngang đã hoàn thành, chiều dài cộng lại là một trăm sáu mươi tư cây số. Mà địch không thể biết, không được cho chúng biết. Ngày 7 tháng Chạp họ lại lên đường đi sâu xuống nữa, xuống phía Gia Nghĩa, cùng với những đơn vị đã tới trước làm tiếp một mạng đường khác bọc quanh cái tỉnh ly đó. Cũng chỉ được trong tháng Chạp thôi. Sang tháng Giêng năm 1975, toàn bộ quân số của trung đoàn 7 công binh đã phải trở lại những khu vực tập kết quanh thị xã Buôn Mê Thuột. Họ còn một tháng Giêng, một tháng Hai, sang tháng Ba mặt trận đã phát lệnh nổ súng tấn công rồi. Hai tháng trời, sáu chục ngày, kể cả đêm nữa cho là một trăm hai chục ngày. Nhưng tính chi li hơn nữa thì vẫn là sáu chục ngày vì còn dành ra một phần quân số làm nhiệm vụ bảo đảm. Sáu chục ngày, làm vài mạng đường ở những khu vực cách xa nhau! Mỗi mạng đường lại gồm nhiều trục dọc và trục ngang, cộng lại cũng phải trên trăm cây số. Mà phải giữ được bí mật, giữ được cái thế bất ngờ cho trận đánh mở đầu. Bao nhiêu là lo lắng, là khó nhọc, là cơ mưu để loạt súng đầu tiên được nổ thật giòn giã, thật hào hứng, thật là dẹp. Chuyện ấy sẽ được thuật ở phần sau, khi kế hoạch hành động của cả mặt trận đã được chọn lựa, được quyết định, được tiến hành với nhịp điệu khẩn cấp nhất.

⚝ ⚝ ⚝

Tôi xin thuật sang một số công việc của ngành hậu cần trong những ngày mà các phương án tác chiến mới chỉ đang hình thành, đang được chọn lựa. ý định của cấp trên tuy đã rõ, nhưng những mục tiêu cụ thể thì còn có thể thay đổi. Dầu sẽ còn thay đổi nhưng vẫn phải chuẩn bị, chuẩn bị trong một kế hoạch còn có thể phải thay đổi. Mà cũng có thể là không thay đổi. Đánh địch tức là có ta và có địch. Ta thì như vậy, nhưng còn địch? Hôm nay nó là thế này, nhưng tuần sau, tháng sau có thể nó sẽ là thế khác. Cái gian nan của sự chuẩn bị cho một chiến trường còn là như vậy.

Bạn đọc thì muốn được biết ngay những trận đánh vang dội trên chiến trường Tây Nguyên trong tháng Ba, mà người thuật chuyện hình như cố ý nói lảng sang những chuyện khác, những chuyện của sự chuẩn bị, của sự bắt đầu. Quả tình tôi chỉ muốn thuật lại có sự chuẩn bị, sự chuẩn bị của nhiều cơ quan, của nhiều cán bộ có trách nhiệm trước giờ nổ súng. Và tôi sẽ không kể gì nhiều về những trận đánh mà bạn đọc đang mong chờ. Theo tôi, sự chuẩn bị, những công việc của giai đoạn chuẩn bị là quan trọng nhất, là đáng kể nhất. Nếu nói rằng ba mươi năm đánh giặc ở miền Nam chỉ là một giai đoạn chuẩn bị dài dằng dặc cho đại thắng mùa Xuân 1975, cũng không sợ là ngoa, là sai. Chính thực là như thế. Viết về một công trình tức là viết về sự chuẩn bị cho một công trình. Ngay như một đời người, cái phần hứng thú nhất, có nhiều kinh nghiệm bổ ích nhất vẫn là những năm dài chuẩn bị.

Tôi được làm quen với anh Khoát, Cục phó Cục hậu cần của Quân đoàn 3(trước là chiến trường Tây Nguyên) trong một buổi tối ngồi nói chuyện với anh Vũ Lăng, Tư Lệnh trưởng quân đoàn. Anh Khoát là một mẫu người rất tiêu biểu cho “ngành nghề” mà anh đã phục vụ ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Còn là một mẫu người dễ "gợi cảm", dễ "kích thích" sức tưởng tượng của người cầm bút nữa. Anh biết nói những chuyện cần phải nói, biết gọi đích danh cái tên việc cần phải gọi, nói về người khác đã hay, mà nói về chính mình cũng rất thật thà, thật thà và táo bạo. Thật thà có nghĩa là dám nói về mình, về sự cống hiến của mình, về tài cán của mình, và rất hãnh diện có được một năng lực xoay chuyển tình thế trong nhiều trường hợp rất phức tạp. Đó là lòng tự tin. Nói chuyện với người đầy lòng tự tin chính mình cũng cảm thấy khỏe khoắn hơn, tự tin ở mình hơn. Những người đầy lòng tự tin là những người đáng yêu nhất, vì ở họ có sức cổ vũ có sức thuyết phục, có cái khả năng cải tạo tình hình. Anh Khoát thuộc loại người như thế. Khi anh Lăng giới thiệu anh với chúng tôi bằng những lời lẽ tin cẩn, bạn bè, anh Khoát liền đưa mắt nhìn cả mấy người, cười rất hóm hỉnh: “Bây giờ Tư lệnh nói năng dịu dàng thế, chứ suốt mấy tháng đánh nhau ông ấy cứ nhè cái đầu tôi mà dọa chém thôi. Cũng là may, chiến tranh kết thúc rồi, đưa tay sờ đầu thấy vẫn còn gân nguyên trên cổ”. Hôm sau tôi gặp anh Khoát để bàn một kế hoạch làm việc, anh tỏ ra hết sức băn khoăn: “Làm thì nhiều, nhiều việc lắm, nhưng gọi là có một câu chuyện cho thật hay thì hình như không có". Tôi cười: "Thì anh kể cho tôi nghe những chuyện mà anh cho là chưa hay vậy”. Anh vẫn lúng túng: "Tính toán số liệu, rồi lại tính toán, rồi hò hét, rồi quát gắt, chỉ những lo là lo đến lúc hết lo là lập tức nằm lăn ra ngủ. Nghiệp dĩ đã là thế thì thuật kể ra làm sao?". Anh kể ướm thử một việc, rồi một việc nữa, rồi lại việc khác nữa Anh cứ kể, còn tôi thì gập người trên bàn ghi ghi chép chép, hầu như không phải hỏi lại một lần nào. Một buổi, rồi một buổi nữa, thêm cả ngày chủ nhật mà vẫn chưa hết những chuyện cần phải nói.

"Tại sao các đồng chí trong Bộ tư lệnh rất thích làm việc với chúng tôi? Các ông ấy thảo ra các phương án tác chiến nhưng phương án hay đến mấy mà gạo đạn thiếu, xe xăng thiếu cũng coi như bỏ cuộc. Nên phải bàn, nên phải đêm ngày gọi bọn tôi lên mà tính toán, mà chọn lựa. Có điều không một vị nào nỡ gắt với bọn này cả. Vào họp vui vẻ, họp ra cũng rất vui vẻ. Có bí quyết đấy! Muốn làm cấp trên vui vẻ thật không khó, chỉ cần rán sức mà gánh lấy cái phần việc của mình, đừng dựa dẫm, đừng ỷ lại, cứ chạy trước, trên muốn có năm, mình phải tạo điều kiện cho trên có thể muốn thành bảy, thành tám, thành mười. Ví như, tư lệnh trưởng hỏi: "Đạn Đ.74 trên Bộ cho ta được bao nhiêu trong chiến dịch này?". Tôi đáp: "Hai ngàn viên". Ông ấy thở dài sườn sượt: "Nếu được ba ngàn thì hay quá". Thế là mình lập tức phải trả lời: “Thêm một ngàn viên thì được, tôi đã có cách rồi”. Mắt tư lệnh trưởng sáng lên, nhưng còn hoài nghi: "Lấy đâu ra thế? Có "lương khô" hả?". "Tất nhiên là có?". “À, cái thằng này ranh thật, hồi tao ở Cục tác chiến cũng chưa nghĩ ra cái mẹo giữ đạn của bọn mày”. Tôi phải thú thật: "Đã làm cái thằng hậu cần, không có đứa nào không dự trữ đạn riêng. Báo cáo lên trên thì đưa đạn vào số tròn, cái số lẻ ra phải giữ lại làm lương khô chứ. Mỗi chốc cần đến lại ngửa tay xin trên sao? Mà vận chuyển đi về đâu có dễ". "À, ra thế! ra thế! Thôi, đạn nào thì cũng đổ xuống đầu thằng địch cả". Người chỉ huy nào cũng ao ước không phải bận tâm nhiều về đạn gạo, xe xăng trong quá trình chiến đấu. Đánh vài trận, cấp dưới đã kêu thiếu đạn, đánh thêm ít ngày nữa lại thiếu cả gạo, mà khả năng phát triển lại đang thuận thì có thể uất lên mà chết được. Phải hiểu cái nỗi khổ tâm ấy, cái uất ức ấy mà lo lắng, mà chạy vạy, mà xục xạo đêm ngày. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tư lệnh quân đoàn cho gọi tôi lên hỏi: "Đạn lựu pháo 155 và 105 còn bao nhiêu?". Tôi đáp: "Hiện có hai vạn hai ngàn". Tư lệnh trưởng nói rất gọn: "Tôi cần ba vạn viên, có không?". Trời đất! Lấy đâu ra tám ngàn viên đạn? Còn chưa kịp trình bày cái sự khó tìm của số đạn còn thiếu, thì tư lệnh trưởng đã hạ lệnh: "Tôi hẹn cho anh trước ngày nổ súng phải trao tận tay tôi ba vạn viên đạn. Không có, anh mất đầu, hiểu chưa?". Bữa ấy đã là ngày 17 tháng Tư. Ngày N có thể là mai? là kia? Là tuần sau? Có điều chắc chắn bộ đội đã nằm sẵn ở các khu vực tập kết rồi, các cụm pháo chiến dịch đã bày biện đâu đấy cả rồi, chỉ còn chờ lệnh tấn công trên toàn mặt trận. Ngay trong đêm, chúng tôi làm một kế hoạch gồm hai điểm: thứ nhất, cho người đi sục sạo các căn cứ dịch vừa bị ta tiêu diệt hoặc bỏ chạy trên tuyến đường 13, thu đạn 155 và 105. Tin chắc là còn nhiều, có bị hủy hoại cũng vẫn còn. Thứ hai, lệnh cho hậu cứ của quân đoàn ở Buôn Mê Thuột tập trung toàn bộ xe cộ có trong tay, mượn cả xe của các cơ quan, xe tư nhân, thiếu lái xe thì lấy tù binh biết lái bổ sung, chạy một mạch đến những địa điểm có đạn, bốc lên xe đưa thẳng về các khu vực đã được chỉ định. Ba ngày sau, tức là tối ngày 20 tháng Tư tôi đã có thể đến báo cáo với đồng chí tư lệnh trưởng rằng, số đạn đồng chí cần hiện đã có đủ. Anh Lăng hỏi tôi: "Đúng ba vạn viên chứ?". Tôi trả lời: "Thưa đồng chí, đúng bốn vạn viên".

"Đầu tháng Mười năm 1974 đã có hàng ngàn quân nhận lệnh đi chuẩn bị chiến trường. Từ chỗ họ đi tới chỗ họ đến cách nhau bốn, năm trăm cây số. Lương ăn mang theo nhiều lắm cũng chỉ được hai chục ngày, đến nơi lấy gì mà ăn? Chân gạo ở một đầu, chiến trường phải chuẩn bị ở một đầu. Trời vẫn còn mưa, đường đang nhão ướt, sông suối nước đầy, mặc anh! Anh muốn làm sao thì làm! Nếu bộ đội đói ăn thì anh mất đầu. Cũng đã có trù liệu từ trước, nhưng tính chưa xiết nên anh em vẫn bị đói. Bộ đội được lệnh hành quân bọn tôi đã gửi điện vào Miền, hỏi vay một trăm tấn gạo. Các anh trong ấy đồng ý ngay. Chính tôi cũng không ngờ chỗ vướng víu nhất lại được giải quyết chóng vánh đến thế. Ngoài này cứ việc chuẩn bị thật chu đáo dứt cơn mưa là xe đạn, xe gạo sẽ lập tức lên đường. Vậy là yên tâm chứ gì. Chỉ vì quá yên tâm nên mới sinh ra lắm chuyện rắc rối. Vừa vặn được một tháng thì Bộ tư lệnh cho gọi sang, hỏi: "Gạo ăn ở trong ấy ra sao?". Tôi trả lời rất đàng hoàng: “Đã chuẩn bị đẩy đủ”. "Tại sao họ lại kêu đói, đói đến mức không thể làm đường được". Chính tôi cũng ngạc nhiên: "Đói thế nào, vừa ăn vừa đổ cũng không thể hết một trăm tấn gạo?". "Đói đấy, đói một tuần nay rồi, các anh kiểm tra lại xem". Về hỏi han lại, quả nhiên bộ đội bị đói thật. Kho gạo của Miền ở Bu-prăng, phía nam Ngã ba biên giới. Từ chỗ bộ đội đứng trụ tới chỗ lấy gạo vừa vặn một trăm cây số, tức thị là sáu ngày đường cả đi lẫn về. Có gạo mà đói vì đường vận chuyển xa quá. Lại mưa, lại lũ, qua suối, qua sông. Đi chuyển gạo mà gặp lũ lớn thì gạo mang chỉ vừa đủ để ăn rải dọc đường. Cái tai hại của việc tính toán từ xa là thế. Phải đi thôi! Phải đến tận nơi mà quyết định tại chỗ mọi việc. Tôi đưa theo một tiểu đoàn xe ba cầu, có cả xe tời, chở gạo luôn vào tạo một chân gạo cho bộ đội. Nơi xuất phát là Ngã ba 90, bắc Công Tum, qua sông Pa-kô, qua đường 19, qua các con sông Ya-đrăng, Ya-lốp, Ya-súp, Sê-rê-pốc, ấy là chưa kể cả trăm con suối, tính trên bản đồ cũng đã là bốn trăm cây số. Đến binh trạm 5, tức Đức Cơ, nước sông Ya-đrăng lên cao quá. Mùa khô xắn quần lội qua được. Gặp cơn lũ mặt sông trắng đục, mênh mông, nhìn cũng đủ khiếp. Làm sao đây? Chờ nước rút thì không chờ được. Không chờ được vậy sang sông bằng cách nào? Công binh báo rằng sâu tới bảy, tám mét nước. Nhìn nước chảy xem chừng cũng sâu. Tôi hỏi cậu tiểu đoàn phó phụ trách đoàn xe: “Liệu vượt qua được không?”. Cậu ta ngần ngừ một lúc rồi trả lời: "Công binh họ đã nói thế thì mình nên ở lại một ngày mai". Dầu sao cũng không thể quyết định đi hay ở chỉ bằng con mắt nhìn hay bằng lời khuyên của người khác. Tôi chọn hai cậu bơi thật giỏi cho qua trước, đèn pin chiếu theo vừa soi sáng mặt sông, vừa định hướng cho người bơi. Cả trăm người đứng ở bờ sông hồi hộp theo dõi, người đồng tình thì ít, kẻ phản đối có nhiều. Vì họ đã mệt. rồi, lại không muốn lao đầu vào một cuộc mạo hiểm xét ra cũng chưa thật là cần thiết. Nhanh chậm gì mươi tiếng đồng hồ nằm lại, mà an toàn hơn, đỡ phiền phức hơn. Nhưng kìa, cả hai người chỉ mới lội chứ chưa phải bơi, cứ lội mãi, lội mãi, nước chấm đến ngang mông rồi lại rút dần xuống, cho tới sang bờ bên kia. Tôi quay lại hỏi cậu tiểu đoàn phó: "Thế nào?". Cậu ta mỉm cười, đáp khẽ: "Vâng, sang được". Cho một xe qua trước, nước chỉ vừa ngập hết bánh, nhưng sang được, cũng nhẹ nhõm, cũng dễ dàng. Từ cái đứng nhìn, dầu là đã đứng ở bờ sông mà nhìn, đến cái cởi quần lội qua khác nhau là thế.

"Tôi lại xin kể anh nghe câu chuyện làm kho của chúng tôi trong chiến dịch vừa rồi. Có ba vùng kho cơ bản: Kho xăng dầu, kho quân nhu, quân giới và kho quân y. Mỗi cụm kho phải chứa được thường xuyên từ năm ngàn đến một vạn tấn hàng. Mỗi đêm ra vào hàng trăm xe, mà không được chờ nhau, xe dệ đít vào, đổ hàng xuống là ra được luôn Rồi làm những cụm kho đó ở đâu? Làm kho đang còn mùa mưa, nhưng rồi đây sang hẳn mùa khô, sông suối sẽ cạn, lá cây sẽ rụng, người thiếu nước, kho lộ thiên chẳng lẽ lại di chuyển một lần nữa. Địa điểm tốt nhất là ven sông Đắc-đam, nhưng quanh đó đã có lực lượng của Bộ rồi. Làm nơi khác thì nước đâu? Đường vận chuyển đâu? Từ đó đến hướng đánh chính có xa không? Chiến trường Tây Nguyên đã được cấp trên đặc biệt chú ý trong năm 1975, điều ấy là chắc. Vì hàng của Bộ giao xuống nhiều hơn cả mọi năm, khoảng ba vạn tấn hàng. Nhưng sẽ đánh ở hướng bắc hay hướng nam. Ở đông hay ở tây? Có khu vực tác chiến chủ yếu, có khu vực tác chiến quan trọng, rồi hướng phát triển, hướng phối hợp, hướng nghi binh, hướng nào hậu cần cũng phải vươn tay tới. Mà xe có hạn, xăng dầu có hạn. Kho đặt không khéo, vận chuyển rối mù, tình hình phát triển ngoài dự kiến là rồi lại được nghe: Chém đầu! Chém đầu! Sở dĩ chúng tôi phải lo lắng nhiều khâu làm kho, khâu vận chuyển vì bấy giờ là đánh lớn, đánh hợp đồng nhiều binh chủng, cùng một thời gian đánh địch ở nhiều điểm, nhiều hướng. Có trận đánh phải kéo dài, có trận đánh chỉ được diễn ra trong vài tiếng, đánh thật nhanh nhưng uy lực phải thật mạnh. Nhà văn các anh được viết một câu cho khoái, cho hay, thì bọn này phải nằm bò ra trên các con tính cả tuần. Xin giới thiệu với anh vài con số, để anh khỏi nghĩ là chúng tôi cũng mắc phải cái tật thích nói quá đi công việc của mình. Chỉ tính cái số đạn phải dùng trong các trận đánh là như sau: Đánh Buôn Mê Thuột: 330 tấn; Đánh Đức Lập: 109 tấn; đánh Thuần Mẫn: 25 tấn; đánh truy kích trên đường 7: 38 tấn; đánh cắt giao thông trên hai con đường 19 và 21: 58 tấn. Trong ba chục ngày chiến đấu từ ngày 4 tháng Ba đến ngày 3 tháng Tư mỗi ngày tiêu đi khoảng 23 tấn đạn. Ai bảo chúng ta không phải đánh, vì địch nó chạy ào ào, còn ai mà đánh? Không đánh mà phải chi dùng cả ngàn tấn đạn chẳng lẽ bọn hậu cần chúng tôi chia nhau nuốt chửng trừ cơm.

"Một ngàn thứ việc phải chuẩn bị cho một chiến dịch mà việc nào cũng phải tính đến chi ly. Chẳng hạn cách thức làm nhà kho. Có thể anh đã tính được mọi nhẽ nhưng lại quên đi hoặc không chú ý làm đến đường vào của xe, cái cách xe sẽ đổ hàng xuống và số phút bốc dỡ của mỗi xe là rồi anh sẽ chết. Vì cách tổ chức mà thiếu chính xác, lập tức xe sẽ bị ùn lại, hàng dỡ xuống không kịp, chuyển vào kho càng không kịp. Chỉ cần xe bị ùn một đêm là kế hoạch vận chuyển của một đợt bị vỡ. Đùng một cái, Bộ tư lệnh yêu cầu vài chục xe chở bộ đội, thì anh chỉ còn có giựt tóc kêu trời! Mà là do anh thôi, do anh tính toán không xiết, do anh dám coi thường những chi tiết vụn vặt, do anh có thói quen bàn mưu lược từ xa. Cho nên bọn tôi mới phải chia nhau xuống tận các đội làm kho, bày cách và đôn đốc làm đường xương cá, tức là nhà kho phải vuông góc với đường vào của xe. Lại phải nghiên cứu phần việc của các bộ phận thông tin, công binh, vận tải, cốt sao xe đến đúng giờ, đúng đường, nháy đèn đỏ chỉ một lần là dệ hẳn đít vào cửa kho, đổ hàng xuống, rồi lập tức phóng đi luôn. Trong vòng bốn, năm tiếng đồng hồ của mỗi đêm, hàng trăm xe phải trả đủ hàng và thoát nhanh ra khu vực được bảo vệ. Chậm trễ một chút, tức thị phải nằm lại, phải thổi nấu, phải tắm giặt, phơi phóng thế là vùng kho sẽ lộ, thế là biệt kích sẽ đến, pháo nó sẽ đến, bom nó sẽ đến, mọi chuyện không may đều có thể đến. Lại nới một chuyện nhỏ nhặt khác, chỉ vì không ai chú ý mà cả trăm xe chở hàng bị lạc trong rừng vừa đúng một ngày một đêm. Đó là cái biển chỉ lối rẽ vào các cụm kho. Cắm biển lúc còn sáng trời, cái biển bằng cái nong ai nhìn cũng thấy. Nhưng họ quên mất rằng đêm đến xe đi bằng đèn gầm, phàm vật gì cao trên bảy mươi phân là không thể nhìn thấy. Cắm biển là chuyện thật nhỏ, có thể giao cho bất cứ ai. Nhưng cả trăm xe bị mất tích một ngày một đêm lại là chuyện đau đầu cho cả Bộ tư lệnh.

“Nói thế, để khoe với anh rằng sự chuẩn bị về hậu cần trong trận đánh Buôn Mê Thuột đã đến mức chuẩn xác gần như hoàn toàn, có thể hài lòng hoàn toàn. Ấy vậy mà vẫn còn một chi tiết... suýt chết. Vẫn là một việc nhỏ nhặt, tuy không quên, nhưng đã chót lười nhác một chút, muốn ỷ lại vào cấp dưới một chút mà suýt nữa bị chém đầu. Lần này không phải do ông Lăng đòi chém, mà Chính ủy mặt trận đòi chém....”.

⚝ ⚝ ⚝

Từ nay người chiến sĩ của chiến trường Tây Nguyên sẽ đi mãi vào lãnh vực của cái phi thường, của truyền thuyết. Nhưng truyền thuyết nào mà chẳng được bắt đầu từ cái hàng ngày. Vả lại chính cái gốc gác, cái cội nguồn, cái duyên do, tức là những cái quen thuộc của hàng ngày mới thật là bổ ích cho sự hiểu biết. Tôi xin thuật lại lời kể của một chiến sĩ Tây Nguyên, vốn là người của Hà Nội, nhập ngũ năm 1970, là chiến sĩ của đoàn Thăng Long được thành lập từ năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Lai lịch một con người, truyền thống một đơn vị, năm tháng, thời gian, chỉ bấy nhiêu mối quan hệ cũng đã đủ để vẽ nên một giai đoạn của lịch sử. Anh tên là Bình, sinh tháng Giêng năm 1952, khi trung đoàn anh nổ súng công kích vào những đồn bốt giặc Pháp ở khu Phát Diệm. Hăm ba năm sau, anh sẽ cùng với trung đoàn đánh trận Đồng Dù ở cửa ngõ Sài Gòn, góp phần kết thúc cuộc chiến tranh yêu nước ba chục năm. Vì anh là người của Hà Nội nên hóm hỉnh và duyên dáng, có một cách nghĩ một cách nhìn gần gũi với những người làm nghệ thuật. Bình nói với tôi:

"Học sinh Hà Nội vào làm lính Tây Nguyên không phải là dễ dàng lắm đâu anh ơi! Hành quân đến Ngã ba 90, nhìn đồng chí cảnh vệ đứng gác ở lối rẽ vào Bộ tư lệnh mà kinh ngạc. Người gầy và xanh quá, quần áo rách quá, mũ không có, đi đôi giầy vải chỉ còn cái đế với cái cổ. Thiếu ăn, thiếu thuốc, thiếu quần áo mặc, vất vả gian truân hơn cả mọi chiến trường, chịu được không? Nghiến răng đáp: chịu được! Ấy vậy mà có lúc phải kêu lên: "Đời thằng lính sao mà cực!". Vẫn có một bộ quần áo tươm tất, nhưng không thể đem ra dầu dãi nắng mưa. Đi đâu cũng chỉ một cái quần cộc, một cái áo sơ-mi rách vá, và mảnh khăn tay trùm đầu. Năm 1971, đồn nhau trên đã đưa về hàng vạn bộ quần áo mới. Chưa kịp cười đã phải nhăn nhó rồi, vì toàn là quần áo nữ. Nhầm lẫn một chút thôi, nhưng anh em đành phải mặc quần áo khác giới vậy. Vì không thể gửi trả về, trả về thì dễ nhưng nhận lại rất khó, đến bao giờ mới được nhận lại. Đứa nào chịu ngắm thì hạ gấu, sửa khuy cài, còn mấy thằng lười cứ để nguyên vậy mà mặc. Anh cứ tưởng tượng xem, ống quần chấm khoeo, đùi mông chật cứng, nói anh bỏ lỗi, mỗi lần đi tiểu tiện lại ngồi thấp xuống y như các bà. Cười đến đứt ruột, nhưng làm sao được, toàn cánh ta cả, có ai lạc lõng vào đâu mà ngượng nghịu. Cái mặc thì thế nào cũng được, đi đánh giặc chứ đâu đi múa nhảy, miễn là đủ thay, miễn là sạch lành. Ăn hết nhiều, mặc hết mấy, phải không anh? Chỉ có cái chết mới lấn được cái đói. Không sợ chết nữa là cái đói lại hoành hành, đói đến cồn cào, đến đau đớn. Nếu để đói hẳn, thì chỉ phải chịu đựng có mấy ngày đầu, sau sẽ mệt dần, sẽ lả đi và rồi không cảm thấy đói nữa. Đằng này, ngày nào cũng được ăn, từ cán bộ trung đoàn đến người lính, bữa sáng một vắt cơm bằng quả cau điếc, chiều đến một lưng lõng bõng vừa nước, vừa gạo, vừa rau. Không đói hoàn toàn nhưng chưa bao giờ được lửng dạ, cứ như bị câu nhử, ăn vào tí chút cái đói càng vật vã, càng cồn cào. Các đơn vị đều có dành ra một số người làm rẫy, đơm tát, săn thú, cũng đủ cả. Một vạn người, một vạn cái tài khác nhau, chịu đói thế nào? Có điều, còn phải làm nhiều việc khác cấp thiết hơn là kiếm ăn, nên đành phải tùng tiệm trong cái số cân lạng còn ít ỏi.

"Anh xem tôi là người của Hà Nội, một học sinh của Hà Nội, nhập ngũ năm mười bảy tuổi, rời vú mẹ là đi chiến đấu luôn. Nấu cơm cho vài người ăn còn bữa sống bữa khê, huống hồ là những việc khác. Thế mà, chỉ hai năm làm lính của Tây Nguyên lập tức có trong tay đủ mọi cái tài. Tài câu tát thì khỏi nói. Khoảng thời gian chuyển mùa, từ khô sang mưa, từ mưa về khô, thôi thì hắm húi làm sa chắn đón cửa sông, thôi thì hè nhau đứng dọc suối đâm vụt cá theo nước lên đẻ, một đêm phải vứt lên bờ hàng tạ cá. Cũng chỉ dám ăn chút ít, còn lại phải sấy khô đóng bì gửi cho anh em đang làm nhiệm vụ ở xa. Nói chuyện cá lại nhớ đến một loại cá giống như chép, nhưng to hơn, bóng láng hơn, được gọi là cá say. Nhìn thì ngon, chặt ra từng khúc lại càng ngon, kho lên mùi thơm sực nức. Cắn một miếng như cắn miếng giò. Bụng đã mừng thầm. Trời đã sinh ra anh bộ đội Tây Nguyên nên cũng sinh luôn ra loại cá ngon lành này, đã ngon lại nhiều, sự trùng hợp tình cờ ấy đến là hiếm có. Bữa cơm còn ăn dở đã thấy nhâm nhẩm đau bụng, rồi cổ họng lờm lợm chỉ muốn nôn. Cái gì thế? Tại sao ai đau bụng, lại buồn nôn? Tại cá ư? Vô lý! Thịt cá thơm ngon thế!... Chỉ mới kịp nghĩ có vậy là đã nôn thốc ra tất cả. Sau một cơn nôn phải lử khử mất vài ngày, như người say. Có anh còn bày mẹo lấy độc trị độc tức là lấy lá cây săng lẻ nấu với cá say biết đâu lại chẳng ăn được, có khi còn ăn ngon. Đã có thứ độc tất phải có thứ giải độc, đó là quy luật của tự nhiên, lý lẽ với nhau thế. Nhưng, vẫn cứ say, lại càng say hơn, về sau đành phải bỏ hẳn cái ý định khắc phục tính độc của giống cá đến trêu người.

"Còn săn thú rừng thì lính ở chiến trường này đều là thiện xạ, bắt buộc phải là thiện xạ. Ví như bắn voi mà nhè vào mông nó thì phải đổ hàng thúng đạn, chưa chắc đã ăn mòng gì. Phải nhằm vào trán, vào tai. Nếu không chắc bắn trúng vào những chỗ hiểm của nó thì nên chạy. Mà chạy voi đâu có dễ. Nó đã khỏe, đã dữ, lại hết sức tinh khôn. Quăng cây, ném đá, vặn gốc là thuật hiếp người của nó. Sau này, có thể ngồi viết truyện thú rừng Tây Nguyên cũng rất hay. Thú đuổi người, người săn thú, mà cuộc săn đuổi này cũng hết sức ác liệt. Hổ vồ, gấu tát, voi giẫm, lợn đâm, cũng đã từng xảy ra bao nhiêu án mạng giữa chốn rừng xanh trước ngày bọn tôi vào. Lính mới ngồi nghe các ông lính cựu kể lại những bí mật của núi rừng, chuyện thực cũng có, mà chuyện bịa cũng có, chuyện bịa để dọa nhau có khi lại phần nhiều, vừa thích vừa sợ. Đêm mót đi tiểu đành chịu nằm chết cứng chứ không có đủ can đảm lách qua đồng đội để bò ra.

"Chuyện săn thú có thể viết sau, nhưng chuyện đốt rẫy làm nương thì nên viết ngay từ bây giờ vì nó rất là Tây Nguyên và rất là bộ đội. Cuối tháng Một đầu tháng Chạp dương lịch là thời kỳ thu hoạch lúa trên toàn Tây Nguyên. Nghỉ ngơi một tháng, sau tết bắt đầu đi phát rẫy. Phát cây con trước, hạ cây lớn sau, rồi băm, rồi chặt, rải phơi cho đến hết tháng Ba. Sang tháng Tư xem chiều trời sắp chuyển sang mưa là lập tức đốt rẫy, dọn rẫy, chọn giờ nóng nhất, vào ngày nóng nhất mà đốt. Sau những cơn mưa đầu mùa, đất đã hơi ẩm lại, bắt đầu trồng hoa mầu phụ: ngô, đỗ, lạc, vừng. Tháng Năm, tháng Sáu chọc lỗ trỉa lúa. Giữa tháng Sáu trở đi đất lạnh dần, có gieo gì cũng khó ăn vì đã quá thời vụ. Mỗi năm một vụ, cứ thế mà xoay vần. Như trung đoàn này, năm 1973 là năm nửa hòa bình, nửa chiến tranh làm được 400 héc-ta, trong đó có 200 héc-ta lúa, 70 héc-ta sắn, còn lại là ngô, là rau, là đậu. Ấy là tôi kể tóm lược về một vòng quay để anh dễ hình dung. Bây giờ, hãy nói chuyện phát rẫy. Những địa điểm đẹp thuận, cây nhỏ mà thưa, làm dễ, thì phải nhường cho dân. Rẫy của chúng ta phải là nơi sâu, cây to, rất khó làm. Công ít thì không thể làm được. Lại nói về cây. Cây nào vỏ mỏng, hơi sần sùi, lá nhỏ là sợ lắm. Lá càng nhỏ gỗ càng tốt như lim, gụ, mun, thớ gỗ cứ đỏ bầm. Cây mun đường kính sáu tấc, hai người hai rìu chặt hai ngày mà không ăn, rìu mẻ đến ba, bốn lưỡi, như chặt vào sắt, vào bê tông, hai bàn tay nhầy nhụa những máu là máu, quấn giẻ vào tay mà vung rìu, nghiến răng, trợn mắt mà chặt, chặt đến mẻ cây mới chịu. Cây kơ nia, lá quanh năm xanh, cành thu lên ngọn, bóng tán rất đẹp, nhìn cây mà run tay rìu. Cây tà boong, nhựa làm dầu đốt cũng rất dễ sợ. Rồi sến, rồi dẻ. Cây nào lá to, vỏ dầy là gỗ tạp, đường kính hàng thước vẫn chặt phăng phăng. Gặp cây có nhiều rễ phụ, đường kính tới năm, sáu mét, phải bắc giàn mà chặt đoạn trên cùng. Đã làm giàn chặt cây lại phải tìm hướng đổ cho đúng. Hướng đổ phía nào thì mở má cây phía ấy, mở rộng khoảng hai phần ba thân cây. Rồi quay rìu mổ vào lưng, mổ thật mạnh, thật nhanh, chừng mươi nhát là đổ. Cây đổ nhưng mình vẫn đứng vững trên giàn giáo, vì nó sẽ đổ xuôi theo hướng chặt. Thông thường là như vậy. Nhưng vẫn có những trường hợp bất thường. Chẳng hạn mở má phía trước, nhưng cây lại đổ ngược về sau. Vì lựa tâm rơi không đúng đó là một cái chết. Cành trên gài vào những cây khác, thân chặt được nửa chừng, sức kéo lại sau mạnh nên phải đổ ngược, cũng là một cái chết. Chặt cây nhỏ theo hướng cây to sẽ đổ xuống, nhưng chỉ chặt lửng, rồi đợi cây lớn đổ đè lên cây bé, nhưng tính toán chưa kỹ nên cây lớn chưa kịp bổ gáy đã bị cây con níu đổ rồi, người chạy không kịp, lại là một cái chết nữa. Chính mắt tôi đã được chứng kiến một tai nạn đổ cây theo cách vừa nói, một cậu bị dập đầu, một cô bị giập cả hai chân, cả hai đều là nhân viên của khoa 33 viện 211. Ăn thì đói, cây thì to, lại mỗi ngày một cơn sốt rét, dứt cơn sốt là cầm rìu ra rẫy chặt. Phát rẫy muộn thì sẽ đốt muộn, sẽ gieo trồng muộn, tiết trời thì cứ đúng ngày, đúng tháng mà nắng mà mưa, làm không kịp thời vụ cuối năm coi như tay trắng. Bộ đội tác chiến phải tự túc từ ba mươi đến bốn mươi phần trăm. Bộ đội phía sau là bảy mươi phần trăm. Bộ đội ở cơ quan, một nửa thời gian là đi sản xuất, anh em trên ấy đã gọi đùa nhau là trợ lý sản xuất. Cuộc chiến đấu đến là nghiêm khắc, về đủ mọi mặt. Chặt cây đã gian nan nhưng đốt rẫy lại còn gian nan hơn. Vì phải biết cách. Đốt giỏi thì cháy được khoảng chín chục phần trăm, chỉ có mười phần trăm công dọn, rất khỏe. Trước khi đốt phải dọn bìa rừng cho sạch để khỏi cháy lan. Phải chọn ngày, chọn giờ, chọn hướng gió. Đốt không khéo lửa cháy bùng một lúc cả bốn mặt thì coi như tự thiêu. Dân trên ấy khi đốt rẫy là phải cúng trời, vì đốt một cái rẫy mà chòm cháy chòm không là một sự trừng phạt hết sức nặng nề. Công dọn rẫy còn lâu hơn công phát một cái rẫy mới. Trời nắng tháng Tư, tháng Năm, cái nắng trên cao nguyên nhọn sắc như lưỡi lửa, mặt đất vừa bị đốt cháy cũng là lửa, lửa vừa tắt ngọn nhưng sức nóng vẫn còn nguyên. Trên lửa, dưới lửa, lính gọi đùa là "lửa tam muội", thân trần, quần cộc, mảnh khăn bịt đầu, vỏ cây quấn chân, cứ nhảy đại vào cái lò hấp thiên nhiên khuân vác mà lôi kéo những cây, những cành chưa cháy hết ấy mà vứt ra bìa rẫy. Rồi những cơn mưa đầu mùa ập tới, ở các lòng suối một mạch nước trong suốt, nhỏ tí len lỏi, rỉ rách qua các kẽ đá. Bữa cơm đã có trứng cá, từng nồi trứng cá kho với tiêu ớt. Trong các búi tre mũi măng đã đâm lên một lượt. Ngồi trong nhà rẫy nhìn ra đã mát mắt, đã hởi dạ, màu lúa xanh, màu ngô xanh, màu đỗ xanh. Một cái bãi xanh mông mênh là vậy, ngon lành là vậy canh giữ không khéo để thú rừng lọt vào, chỉ qua một đêm sáng sớm nhìn ra đã là một bãi chiến trường, và cũng có nhiều xác người, xác chúng tôi chứ còn ai, bao nhiêu công sức của non nửa năm bỗng chốc bị giày vò, bị giẫm đạp đến thảm thương, đến muốn khóc òa lên, thương thân mình, thương anh em, thương cả mọi người.

"Ngày 28 tháng Giêng năm 1973, hiệp định Pa-ri có hiệu lực nhưng từ 6 giờ đến 11 giờ cái ngày quan trọng ấy chúng tôi vẫn còn phải đánh bật nhiều đợt phản kích của địch ra chiếm lại đồn 30 và làng Zịt. Tháng Ba, tháng Tư vẫn tiếp tục đánh địch lấn chiếm lại khu vực này. Mà khó chịu, mà rầy rà quá thể. Ban ngày ngồi nói chuyện với nhau ở nhà hòa hợp, đêm đến nó đã nổ súng vào bộ đội mình rồi. Lúc hòa, lúc chiến, chẳng ra thế nào. Đồng chí phó chính ủy của chúng tôi đã làm hai câu thơ: “Nửa hòa bình, nửa chiến tranh. Chưa im tiếng súng sao lành vết thương”.

Tháng Tám năm 1973, trung đoàn chúng tôi được lệnh đánh căn cứ Chư Nghé, cách Plây Cu về phía tây bốn chục cây số tức là nằm rất sâu trong vùng ta kiểm soát nhưng địch buộc phải giữ vì nó là con mắt được đặt gần nhất trên tuyến đường vận chuyển chiến lược. Tháng Mười lại đánh tan một đợt tấn công lấn chiếm gồm ba trung đoàn bộ binh và hai tiểu đoàn biệt động. Tháng Giêng năm sau lại đánh tiếp một trận nữa, với một lực lượng địch còn lớn hơn, những hăm chín tiểu đoàn. Tức là đã đánh nhau rất to khi thư của gia đình gửi vào vẫn còn đang hân hoan vì chiến tranh đã kết thúc, vợ chồng, con cái, anh em vẫn còn nguyên vẹn, rồi hẹn ngày đoàn tụ, rồi bàn tính tương lai. Nó trái cảnh là thế.

"Tháng Tám năm 1974, trời mưa tầm tã đã mấy tháng. Đơn vị chứng tôi vẫn còn vây hãm Plâyme, đánh tan tác hai tiểu đoàn địch và xóa sổ một tiểu đoàn. Sang đầu tháng chín mới kéo nhau về hậu cứ. Sẽ chẳng bao giờ tôi quên được lần hành quân chiến thắng trở về của năm vừa rồi. Đánh nhau suốt mấy tháng trong mưa, chân ngâm trong nước, trong bùn đến thối ruỗng, lòi cả xương, phải buộc giẻ chống gậy mà đi khiêng cõng nhau mà đi, gặp đồng chí phó chính ủy giữa đường hò nhau: "Đồng chí có chuyện gì hay động viên anh em với!". Đồng chí ấy nhìn chúng tôi, nước mắt cứ chứa chan, rồi bảo: "Sống như thế, chiến đấu như thế, còn có chuyện gì đáng phải nói thêm nữa".

"Một tháng Chín được nghỉ ngơi, sang giữa tháng Mười, mấy chục anh em lại chia nhau về các xã ấp xây dựng cơ sở, huấn luyện du kích. Đánh nhau có cái vất vả nhưng lại có cái khoan khoái. Đi sản xuất tất nhiên cũng rất vất vả, nhưng gieo trồng, đơm tát, săn bắn luôn luôn là một cuộc phiêu lưu hết sức hồi hộp vào những bí ẩn của thiên nhiên. Còn gây dựng cơ sở, tổ chức du kích ở những bản làng xa xôi thì hoàn toàn khác, vì có lúc chính anh là người chỉ huy cao nhất. Nên lo quá, lo bỏ ăn, lo mất ngủ, lo đến quên đi cả cái buồn. Mà rồi thấy thương dân, thấy quyến luyến, nghĩ tới ngày hẹn về lòng dạ lại bồi hồi. Mới hiểu được có những chú cán bộ quê ở Hải Dương, ở Bắc Ninh sống ở Gia Lai đã hai chục năm có lẻ mà vẫn nói rất hào hứng, rất say sưa những chuyện của địa phương trong năm mười năm sẽ tới. Phải tận mắt nhìn đồng bào mình trên đó gùi lúa đi nuôi bộ đội, còn gia đình vẫn chỉ ăn củ mì và quả muỗm xanh ngâm chua mới thật là thương. Phải nhìn những chú tuổi đã mười bốn, mười lăm, nhưng chỉ lớn bằng đứa trẻ lên chín lên mười ở vùng xuôi, gùi một quả đạn ĐK 75, vượt dốc phăng phăng, không ăn cơm, chỉ ăn cháy vì sợ các chú bộ đội đói, đêm nằm gối đầu lên gùi đạn, đút chân cạnh đống lửa mê ngủ, mới thật là thương. Phải nghe một cô gái trách anh bộ đội: "Làng Chan con gái nó có quần áo đẹp nên bộ đội thích đến chơi, còn làng Bò mình theo cách mạng làm gì có quần áo đẹp", vừa xấu hổ, lại muốn rơi nước mắt. Có lần tôi được nhìn, cũng là rất tình cờ, một cậu bộ đội, của đơn vị nào không rõ, đi qua nương sắn, liền cúi xuống nhổ một gốc. Chẳng dè bị một em chạy ra bắt giữ, được cái cậu này không chạy cứ đứng chôn chân một chỗ. Một lát sau có một người đàn bà chạy đến, có lẽ là người mẹ, cởi trần, vận một cái váy khâu bằng bao tải nhồi đất của lính nguy. Đứa con nói gì đó nhưng người mẹ không trả lời, lúi húi nhổ thêm hai gốc sắn nữa rồi cầm đưa cả cho cậu bộ đội nọ. Cậu kia quặt hai tay ra sau lưng, miệng nói lắp bắp: “Tôi không lấy! Tôi không lấy!”, rồi quay người chạy thẳng. Bà mẹ không chịu, hai mẹ con cầm ba gốc sắn vừa chạy theo vừa hò gọi. Được nhìn cái cảnh ấy bảo không khóc thầm sao được. Chúng mình khổ nhưng đồng bào cũng khổ, trong cái cảnh khổ ấy không khỏi có chuyện này chuyện kia, nhưng chính vì có những chuyện ấy mà càng thân thiết nhau, càng thương yêu nhau. Dưới xuôi ta cây gạo và hoa gạo là gắn bó với nhiều kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi tuy là người Hà Nội, nhưng hồi nhỏ học trường cấp I lại sống với bà ngoại ở trong quê, nên cây gạo và hoa gạo cũng là một hình ảnh rất gợi nhớ. Ấy vậy mà bây giờ mỗi lần nghĩ đến hoa gạo lại nghĩ ngay đến một bản làng nào đó của Gia Lai mình đã từng hành quân qua, hoặc ở lại công tác một vài tháng. Hoa gạo tức là hoa Pơ lang trong thơ ca. Nơi nào có cây gạo là nơi đó có bản làng. Ở trên ấy, cây gạo cũng có nghĩa là đoàn tụ, là quê hương, là hạnh phúc và thanh bình. Người đàn bà đi trước địu con, tay bồng con chó nhỏ, miệng ngậm điếu thuốc rê, anh chồng đi sau, vác ngược con dao rừng, vẻ mặt thanh thản cũng là một hình ảnh của hạnh phúc và thanh bình.

“Đầu tháng Tư năm nay ta đã có cả Tây Nguyên, có cả đồng bằng và vùng duyên hải miền Trung. Nhưng tháng Tư năm ngoái chúng tôi hãy còn đang đánh địch ở làng Siêu và cứ điểm 601 trên đường 21. Ra quân lần ấy đã thấy vui, vì đang là mùa uống rượu mừng nhà mả: Chỗ ngồi uống rượu là một khu đất đẹp nhất của bản, mặt đất sạch bóng như nền nhà bày thứ tự hàng trăm cái ché sành, cũng trang trọng, cũng đẹp mắt như một bàn tiệc lớn. Ví như bữa uống rượu ở làng Lan thuộc huyện 4, tôi đã đếm được 157 cái ché, mỗi ché chứa từ mười đến hai mươi lít rượu. Rượu sắn cả thôi, sắn là chính, thêm ít gạo rồi rắc men ủ. Nước rượu đầu cho vào quả bầu già, khách đến thì chuyên ra bát mời, uống hết một đợt rượu danh dự mới ngậm cần uống tiếp ở các ché. Uống cạn lại múc nước suối lên đổ thêm, cho tới lúc nhạt hẳn mùi rượu mới đổi. Mà vẫn say, rượu nhạt uống mãi cũng say. Uống rượu sắn, ăn cơm nếp nướng trong các ống nứa, với trứng kiến nướng, với thịt nướng, rồi múa, rồi hát, rồi kể chuyện cách mạng, chuyện miền Bắc, chuyện đánh Mỹ, như một cuộc hội thảo rất tự nguyện và bình đẳng. Đã một năm rồi đấy! Nghĩ lại những việc đã làm trong một năm qua, thấy toàn là những việc kinh thiên động địa, cảm thấy ngày tháng sao mà dài. Tiệc rượu cần tháng này năm ngoái ở làng Lan như đã rất xa xôi. Nghĩ rằng đã xa nên nhớ vô cùng. Vì những bản làng ấy quả thật là xa xôi, là heo hút, ẩn náu ở một chân núi nào đó, một cánh rừng nào đó, một vùng đồng cỏ nào đó, nên càng nhớ, càng thương. Tôi nói với anh điều này, nhưng anh đừng có viết, dẫu anh có viết cũng không ai tin được anh đâu. Là tết này, cái tết Bính Thìn này tôi muốn được trở lại Plâycu, trở lại Gia Lai, trở lại huyện 5 và mấy xã đã có lần dừng chân lại ít ngày, ăn một cái tết ở trên ấy. Rồi tết sau sẽ trở ra Hà Nội đoàn tụ với gia đình. Mới hôm vừa rồi, đồng chí Phố, trưởng phòng tuyên huấn của quân đoàn bàn tính với tôi rằng anh rất muốn đưa vợ con đang sống ở Hà Nội về Plâycu. Tôi nói đùa: “Ở Thủ đô không đủ sướng sao, lại còn kéo nhau lên cái thị xã của miền núi ấy”. Anh ấy trả lời rất thản nhiên: “Mỗi người có một cái thích, mình rất thích được sống ở Plâycu. Trên ấy làm ăn dễ mà mình lại hợp thung thổ”. Trước ngày lấy nhau, chị ấy làm công tác phụ nữ ở Công Tum. Anh đến thăm chị, chị đến thăm anh chỉ mất có vài ngày đường rừng và trèo qua có một dãy núi cao nhất của Công Tum, dãy Ngọc Linh. Núi cao, rừng già, sông sâu, thác xiết đều hóa ra những địa điểm nên thơ cả. Những nơi mà họ đã đưa đón nhau, đã chờ đợi nhau thì lính mình hành quân qua chỉ khấn thầm đừng có bao giờ phải lộn lại. Nếu anh Phố muốn đưa gia đình về sống lâu dài ở Plâycu, hoặc tôi muốn được trở lại sống một mùa khô không có tiếng súng ở Gia lai hoặc ở Đắc Lắc thì cũng là chuyện thường tình. Vì chúng tôi thích như thế mà. Đã là thích thì có kể gì những xa xôi, những vất vả”.

⚝ ⚝ ⚝

Viết về giai đoạn chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên mà không được gặp và hỏi chuyện những đồng chí có trách nhiệm cao nhất thì thật ân hận vô cùng. Theo tôi biết, trong những ngày tháng có tính chất quyết định này mỗi cấp đều có cái vất vả cái anh hùng của mình. Của cấp dưới thì báo chí đã viết và tất cả chúng ta đều rõ. Nhưng còn của cấp trên, của các cơ quan lãnh đạo chiến lược thì chúng ta hầu như chưa được biết. Vả lại, trong chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch sau đó, chiến dịch Hồ Chí Minh, thì sự chuẩn bị của cấp trên hầu như là tất cả sự chuẩn bị chính xác và chu đáo tới mức cuộc tiến quân gồm hàng chục vạn quân sĩ nào pháo, nào xe, nào lương thực, nào xăng dầu, đơn vị vào trước, đơn vị đến sau, nhiều ngả nhiều hướng, mà vẫn nhịp nhàng, vẫn uyển chuyển, đứng hướng, đúng chỗ, đúng cả thời gian, hệt như một cuộc thao diễn đại quy mô các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước. Thôi thì, ai viết được phần nào, khía cạnh nào, giai đoạn nào của cuộc tổng tiến công này cứ viết. Viết đi rồi viết lại, kẻ trước người sau, năm mười năm nữa rồi chúng ta cũng sẽ có được một pho sử ký thật xứng đáng. Chính anh Lăng, nguyên là tư lệnh phó của Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, quân đoàn trưởng quân đoàn 3, đảm nhiệm hướng tây bắc trong chiến dịch Hồ Chí Minh, cũng lấy làm tiếc cho tôi. Ngay như trong Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, tôi cũng chưa được gặp hai nhân vật chủ chốt là anh Thảo, tư lệnh trưởng và anh Hiệp chính ủy. Bao giờ cũng thế, một công trình vừa được hoàn thành, những người anh hùng đã lại rong ruổi dặm dài đến những địa bàn mới, gánh vác những trách nhiệm mới. Tình cờ có được gặp lại họ, bày tỏ ý nguyện của mình, thì chắc chắn sẽ được trả lời: "Những việc làm dạo nọ ấy ư? Thì như các anh đã biết đấy, cũng chỉ là như thế thôi". Và lập tức, các đồng chí ấy sẽ thuyết minh với anh về những công việc đang làm với những tính toán, những hy vọng, những lo âu, ánh mắt lấp lánh, giọng nói say sưa, nếu mình không tự chủ thì rất dễ quên bẵng đi cái ý định ban đầu.

Cho nên khi tôi yêu cầu được làm việc với anh Lăng vài ngày, có thể hơn thế nữa nếu như anh có thì giờ, anh tỏ vẻ ngạc nhiên: “Làm thì lâu chứ kể lại có mấy, chỉ một tối là đủ”, Rồi anh lại hỏi tôi: "Nhưng biết kể với nhà văn cái gì? Các anh viết văn thì cần những câu chuyện gì?". Tôi vội trả lời là mọi việc các anh đã làm đều thuộc về văn học cả, không có gì phải lược bỏ. Giả dụ rằng nếu viết tất cả như thế thì sẽ là một bản báo cáo chứ không thể là sáng tác văn học, thì tôi cũng bằng lòng làm người viết báo cáo. Làm báo cáo trước, làm văn học sau, bao giờ rỗi rãi sẽ làm văn, còn lúc này thì rất cần làm người thuật chuyện. Có lẽ bạn đọc hiện nay cũng đang thích như thế, đang muốn đọc một bản tường trình cặn kẽ như thế.

Đây là tối thứ nhất anh Lăng nói chuyện.

“Rất tiếc là anh không được gặp tất cả các anh trong Bộ tư lệnh chiến dịch, tức là anh Thảo, anh Hiệp, anh Hàm, anh Năng. Tuy nhiên, chúng tôi đã làm báo cáo tổng kết, đã bàn bạc và nhất trí với nhau về tất cả các vấn đề lớn, lại được đồng chí Đại tướng Tổng tham mưu trưởng, người chỉ đạo và chỉ huy trực tiếp chiến dịch này xét duyệt và chỉ thị nhiều ý kiến. Như thế cũng đã là may mắn cho công việc của chúng ta rồi.

"Tôi về chiến trường Tây Nguyên(còn được gọi là B3) thay anh Thảo tháng Sáu năm 1974. Anh Thảo tuy đi nhận nhiệm vụ mới, nhưng kiến thức và kinh nghiệm của anh trong nhiều năm dài ở Tây Nguyên đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Đó cũng là một may mắn cho những người đến sau. Như anh đã biết, trước ngày về đây, tôi làm việc ở Cục tác chiến của Bộ tổng tham mưu, là một cán bộ có trách nhiệm ở một cơ quan chiến lược nên có điều kiện để so sánh, xem xét và tổng kết các kinh nghiệm. Anh Lê Trọng Tấn có nói “ở Bộ về quân khu nếu làm ăn tốt là do đã có được một tầm nhìn rộng”. Khi đi cũng có giao ước với anh em trong Cục tác chiến là khi nào chuẩn bị những vấn đề mới thì nhớ khêu gợi bọn mình. Nếu được biết trước chiến trường mình nằm trong phương hướng chiến lược thì anh em sẽ chủ động hơn, thời gian chuẩn bị cũng rộng rãi hơn. Tháng Chín năm 1974, Cục tác chiến cũng đã rỉ tai cho biết về ý định của cấp trên trong năm 1975. Dưới này, bọn tôi sau khi đã xem xét tình hình của quân khu cũng tin rằng trong năm 1975 có thể làm được một cái gì đó có tính chất bản lề. Sau ngày ký hiệp định Pa-ri, để chống lại âm mưu lấn chiếm của chính quyền nguy Sài Gòn, chúng ta đã tiêu diệt các cứ điểm địch nằm sâu trong vùng giải phóng như Chư Nghé, như Đắc Pét, như Măng Đen, Măng Búc địch co về củng cố tuyến phòng thủ vành đai các thị xã các trục đường chiến lược và các mục tiêu chủ yếu. Mỹ rút quân, sự viện trợ của Mỹ đối với quân nguy dần dần giảm bớt đã tác động rất lớn đến phương thức tác chiến và thủ đoạn chiến thuật của địch. Lực lượng địch bố trí tại năm tỉnh cao nguyên miền Trung là một sư đoàn(sư 23), 6 liên đoàn biệt động quân và 36 tiểu đoàn bảo an. Thiết giáp thì có 12 chi đoàn, tức là 4 thiết đoàn. Pháo binh có 230 khẩu. Không quân có sư đoàn 6, gồm 4 phi đoàn, khoảng 150 chiếc máy bay các loại. Quân địch như thế là đông, nhưng địa bàn quá rộng, những bốn mươi lăm ngàn cây số vuông nên hóa ra phải dàn mỏng. Khả năng cơ động của chúng chủ yếu là bằng đường bộ, dựa trên ba trục đường chính: đường 14 chạy suốt bắc nam xuống tới miền đông Nam Bộ, đường 19 nối đồng bằng khu 5 lên Plâycu và đường 21 từ Buôn Mê Thuột đi Khánh Hòa. Đường 7 từ Cheo Reo ra Phú Yên đã từ lâu địch bỏ vì hoạt động của bộ đội địa phương Phú Yên ở khu vực này rất mạnh. Còn vận chuyển đường không cũng là vạn bất đắc dĩ, máy bay vận tải ít xăng dầu hiếm, không thể mỗi lúc sử dụng tùy tiện được. Có đường thì sẽ có cách khóa đường. Có máy bay thì sẽ có cách khống chế sân bay. Thằng Mỹ lắm lúc còn chết cứng nữa là thằng nguy. Đó là một chỗ yếu của địch. Chúng ta sẽ có cách tính toán khoét rộng cái chỗ yếu đó ra. Còn lực lượng của chúng ta ở chiến trường này trong năm 1974? Hết sức lạc quan! Từ sau hiệp định Pa-ri, quân khu đã định ra một quân số thích đáng làm nhiệm vụ sản xuất. Các cơ quan xung quanh Bộ tư lệnh đều có nương rẫy và khu vực chăn nuôi riêng. Sự chi viện của miền Bắc trong hai năm 1973, 1974 là hết sức dồi dào: người, vũ khí, quân trang, lương thực. Khi tôi về B3 nhìn cán bộ, chiến sĩ thấy rất khác với dự đoán của mình: khỏe mạnh, tươi vui nơi ăn chốn ở hết sức đoàng hoàng, như ở ngoài Bắc vậy. Mà có khi còn hơn cả ngoài Bắc vì ở đây mổ một con lợn không phải bàn tính gì nhiều lắm. Tối tối đặt nồi cháo gà là chuyện hết sức bình thường. Thế là vui rồi. Làm tư lệnh mà ngó thấy quân khỏe, lương nhiều tức là đã cầm chắc tới quá nửa phần thắng. Lại nữa, chí khí chiến đấu rất cao. Nói chuyện với ai cũng một ý nguyện là phải tấn công thôi, phải dùng bạo lực vũ trang mà mau chóng hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Cán bộ thì sợ để chậm trễ quá tuổi sẽ già đi, sức sẽ yếu đi. Anh em trẻ thì muốn làm ăn cho mau mau còn bắt tay làm những việc khác. Lòng người đã nhất tâm thế là rất thuận. Từ sau năm 1972, bộ đội Tây Nguyên chưa đánh trận nào lớn tới một trung đoàn hoặc một sư đoàn thiếu. Năm 1975 sẽ phải đánh ít nhất là bằng lực lượng của mình, tức là hai sư, có thể thêm hai trung đoàn hoặc một sư của Bộ chi viện trong thời gian chiến dịch. Đánh lớn, quân đông đòi hỏi năng lực tổ chức và chỉ huy của các cấp phải phù hợp với nhiệm vụ. Một kinh nghiệm của tôi là tư lệnh phải trực tiếp huấn luyện bộ đội, nhất là cán bộ, không thế không thể chỉ huy được. Bộ đội phải do mình trực tiếp xây dựng thì khi đánh mới thật chắc tay. Có hiểu rõ cán bộ và chiến sĩ của từng đơn vị mới hạ quyết tâm được mới quyết đoán được. Bộ tư lệnh liền tổ chức hai lớp tập huấn cho cán bộ cấp sư đoàn, trung đoàn và các tiểu đoàn chủ chốt. Nội dung tập huấn là: nghệ thuật chiến dịch tấn công và nghệ thuật chiến dịch phản công. Thấy hết được vai trò của chiến thuật trong nghệ thuật chiến dịch. Thống nhất với nhau về cái gọi là những trận đánh then chốt, những trận đánh có ý nghĩa nổ truyền trong một chiến dịch. Sau đó cấp sư về bàn bạc lại với cấp trung đoàn, cấp tiểu đoàn và đại đội. Đó là sự chuẩn bị rất cơ bản về lãnh đạo và chỉ huy trước khi bước vào mùa xuân năm 1975. Lại nói tới một vấn đề khác, cũng hết sức quan trọng, vì nó là cơ sở của mọi chiến thuật. Tức là quân số. Chiến thuật gì thì cũng phải đủ người. Một tiểu đội phải có bảy người, ít ra cũng phải được năm, sáu người chứ nếu chỉ có ba người thì không thể gọi là tiểu đội. Tiểu đội không thành thì trung đội, đại đội cũng không thành. Nên quân số là quan trọng, quân số đủ mới đảm bảo được sự thực hiện chiến thuật. Trong lịch sử chiến đấu của bộ đội Tây Nguyên chưa bao giờ ra quân đủ như lần này: một tiểu đoàn là bốn trăm người. Trước kia ra quân ba trăm người còn khó. Ra quân đông người đi chiến đấ