← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 3 Tuyên truyền kiểu Lénine

thế uyên dịch và chú giải

CHƯƠNG 3

tuyên truyền kiểu lénine

hủ nghĩa Mác có điểm đặc biệt là khả năng phổ biến của nó, đó là một triết lý có thể lan truyền trong quần chúng, trước hết là vì nó tương ứng với một tình trạng nào đó của nền văn minh cơ giới, thêm vào đó nó dựa trên một biện chứng có thể rút gọn đến một trình độ cực kỳ đơn giản mà không bị biến đổi gì hết trong bản thể. Tuy thế, chắc chắn chủ nghĩa Mác đã không thể phát triển rộng rãi và nhanh chóng như vậy nếu Lénine đã không chuyển biến nó thành một phương pháp tác động chính trị thực tiễn.

Với Mác, ý thức giai cấp là căn bản của ý thức chính trị. Nhưng - đây là sự đóng góp nòng cốt của Lénine -ý thức giai cấp tự nó chỉ giới hạn trong khuôn khổ sự đấu tranh kinhtế, nghĩa là chỉ thu hẹp trong ý thức “công đoàn” trong khuôn khổ sinh hoạt nghiệp đoàn thuần túy mà không đạt đến ý thức chính trị. Trước hết, phải thức tỉnh nó, phải dạy dỗ lôi kéo nó đấu tranh trong một phạm vi rộng lớn hơn môi trường chỉ gồm những tương quan chủ thợ. Nhiệm vụ này là của những phần tử ưu tú và cách mạng chuyên nghiệp, hàng tiền phong có ý thức của giai cấp vô sản. Chính đảng Cộng sản phải là dụng cụ của mối tương quan này giữa thành phần ưu tú và quần chúng, giữa tầng lớp tiền phong và giai cấp. Lénine đã thay thế quan niệm dân chủ xã hội của đảng lao động, như người ta vẫn biết đến nhiều nhất là ở Anh và Đức, bằng quan niệm biện chứng do một đoàn chuyên viên sách động, chuyên khích động và lôi cuốn quần chúng. Ở khía cạnh này, tuyên truyền hiểu theo một nghĩa rất rộng của nó đi từ sự sách động đến sự giáo dục chính trị, trở nên sợi dây truyền đạt mối liên tục thiết yếu để phát biểu vừa cứng rắn vừa rất mềm dẻo, liên tục ràng buộc quần chúng vào với đảng, lôi kéo quần chúng dần dần bắt kịp hàng ngũ tiền phong trong sự thông cảm và trong hành động.

Tuyên truyền kiểu bôn-sê-vích [1] có thể rút gọn vào hai biểu thức chính yếu: sự phát giác chính trị (hay tố cáo) và khẩu hiệu. Theo lời Mác: Phải làm cho sự áp bức có thật trở thành tàn khốc hơn bằng cách thêm vào đó ý thức bị áp bức, phải làm cho sự ô nhục trở nên nhục nhã hơn, bằng cách làm cho ai nấy đều biết. Lénine yêu cầu các đảng viên dân chủ xã hội “tổ chức những tố cáo chính trị trên mọi địa hạt”. Những tố cáo này bao gồm việc phanh phui bản chất đích thực của những ham muốn và nền tảng thực sự về quyền hành của các giai cấp thống trị nấp dưới các lập luận ngụy biện do các giai cấp này thường dùng để che đậy các quyền lợi ích kỷ của họ, cùng cung cấp cho quần chúng một sự “trình bày sáng sủa” về những điều ấy. “Mà sự trình bày sáng sủa ấy, - Lénine [2] nói - người thợ sẽ tìm thấy không phải ở sách vở mà từ những sự diễn giảng sống động trong những điểm tố cáo còn nóng hổi về những gì xảy ra ở chung quanh ta vào một lúc nào đó, còn đang được người ta nhắc nhở hay thì thầm với nhau và biểu lộ bằng những sự kiện, những con số hay phán quyết này nọ... Những tố giác chính trị bao trùm mọi địa hạt này là điều kiện cần thiết và căn bản để đào tạo quần chúng hướng về hoạt động cách mạng”. Đây là sự áp dụng cụ thể của cách phá tan huyền thoại kiểu Mác-xít: nhân bất cứ một biến cố nào liên hệ đến đời sống quần chúng, nhà tuyên truyền kiểu Lénine phải đi từ bề ngoài đến thực tại, cái thực tại đó nằm ở mức độ đấu tranh giai cấp, và không được để mặc cho tâm trí con người lệch hướng hay đắm chìm vào những giải thích nông cạn hoặc sai lầm... Một trận chiến tranh, một cuộc đình công, một vụ tai tiếng chính trị: những sự kiện ấy cung cấp những cơ hội cho công việc này, nhưng thường thường chính từ những sự kiện nhỏ nhặt nhất, cụ thể nhất, sự chứng minh này sẽ dắt đi ngược trở lại tới nguyên nhân, để gán ghép một điều thật tình có vẻ chỉ là một sự rủi ro vào một giải thích chính trị tổng quát do đảng Cộng sản đưa ra. Bằng đúng cách ấy, đảng Cộng sản Pháp đã chứng minh những “tai hại của kế hoạch Marshall” bằng cách đi từ những thiếu hụt hư hỏng cục bộ, một vụ đóng cửa nhà máy, hay từ sự chậm trễ trong việc dẫn thủy ở một vài thôn xã.

Ta hãy lấy thí dụ một tình trạng ế ẩm trong sinh hoạt các phòng hớt tóc: khách hàng có thể nghĩ rằng vì các phòng hớt tóc mở ra nhiều quá, rằng mốt bây giờ là kiểu tóc dài, hay cả đến mức cho rằng hôm nay tóc mọc chậm... Tất cả những giải thích giản lược hay cả đến huyễn hoặc ấy nhà tuyên truyền Cộng sản sẽ khước từ hết. Hắn ta sẽ dễ dàng làm cho khách hàng chấp nhận rằng nếu các phòng hớt tóc vắng khách, ấy là vì người ta chỉ kiếm được đủ số tiền cần thiết cho các nhu yếu căn bản của mình thôi, từ đó hắn sẽ dẫn khách hàng đến nhận định rằng toàn thể các kẻ đi làm công đều không được trả lương đủ sống, sở dĩ nhu thế là vì số tiền đáng lẽ phải là lợi tức của họ đã bị ăn chặn bởi những khoản thuế mà phải đóng góp cho một ngân sách kiệt quệ vì quân phí nước Pháp phải chịu, và do sự đòi hỏi của chính sách Đại Tây Dương vốn dĩ chỉ là một công cuộc bảo vệnhững quyền lợi của bè lũ tư bảnquốc tế... Đây chỉ là một cuộc thí dụ chúng tôi tạo ra theo lối lập luận có hệ thống mà một nhà tuyên truyền được đào tạo theo phương pháp Lénine phải theo để cố gắng đưa một mảnh vào một toàn thể, bằng cách tố cáo không ngừng từ chi tiết nhỏ, tất cả những sự bất công do chế độ tư bản gây ra.

“Khẩu hiệu” giới thiệu với chúng ta khía cạnh tác chiến và kiến trúc của loại tuyên truyền này. Khẩu hiệu là sự giải thích truyền miệng thuộc về một giai đoạn chiến thuật Cách mạng. Là ý niệm chủ động, khẩu hiệu diễn tả càng sáng sủa ngắn gọn và thuận tai càng tốt, mục tiêu quan trọng nhất của thời kỳ đó. Thí dụ trong thời kỳ nổi dậy, mục tiêu là tiêu diệt kẻ thù và đoànkết các khối: (“Giành mọi quyền hành cho các Sô viết”. “Đất cày và hòa bình”, “Bánh mì, Hòa bình và Tự do”...) - hoặc là trong thời kỳ “xây dựng xã hội chủ nghĩa”, mục tiêu là xây dựng kế hoạch (“Hoàn tất và kiện toàn kế hoạch trong 4 năm”).

Điều quan trọng là người Cộng sản không đóng khung cứng nhắc chiến thuật trong một khẩu hiệu đã bị hoàn cảnh đào thải. Vì thế trong một bài báo viết năm 1917 “Bàn về các khẩu hiệu”, Lénine đã chứng minh rằng khẩu hiệu “Giành mọi quyền hành cho các Sô Viết” trước kia thi đúng, nhưng đã sai từ ngày các phe đảng khác có đại diện trong các Sô-Viết đã liên minh với bọn tư sản phản cách mạng. Một khẩu hiệu không phải là một lời khích động trống rỗng, nó phải cổ động được đường lối chính trị lúc ấy. Mọi khẩu hiệu phải được suy ra từ toàn thể những đặc điểm của một tình hình chính trị nhất định. Các khẩu hiệu vạch ra những chương trình ngắn hạn để có thể bắt buộc những lực lượng chính trị khác phải xác định thái độ chấp nhận hay chống đối sự cộng tác trong các mục tiêu cụ thể, và quyến rũ đối với quần chúng. Mọi khẩu hiệu không những phải tương ứng với tình hình chính trị mà còn phải phù hợp với trình độ ý thức của quần chúng. Nó chỉ có giá trị nếu vang dội được rộng rãi trong ý thức ấy, và muốn được như vậy, khẩu hiệu phải cởi mở được những khát vọng thầm kín về một chủ đề thuận lợi nhất. “Chúng tôi bị kết tội là đã bày đặt ra dư luận quần chúng, lời trách cứ đó không đúng, chúng tôi chỉ cố gắng phát biểu nó ra mà thôi”, Trotsky nói. Bí quyết thành công của cuộc Cách mạng bôn-sê-vích là ở chỗ này: bằng hai chữ, Lénine đã biết kết hợp và diễn tả hai điều đòi hỏi căn bản của hàng triệu nông dân và binh lính trong quân đội Nga: “Đất cày và Hòa bình”. Trotsky bình luận rằng các đảng viên bôn-sê-vích càng ít và gần như không có quyền hành gì, sự thành công này lại càng rực rỡ đáng chú ý: “Sự ít ỏi phương tiện của giới sách động bôn-sê-vích yếu ớt như thế, như ta đã biết qua một số ấn bản báo chí hết sức ít ỏi, bằng cách nào những tư tưởng và khẩu hiệu của đảng bôn-sê-vích đã chinh phục được nhân dân? Bí mật của việc kỳ bí này thật là giản dị: Những khẩu hiệu nào phù hợp với nhu cầu khẩn thiết của một giai cấp và một thời đại chúng tự tạo ra được hàng nghìn cách dẫn truyền: Đặc điểm của một trường Cách mạng sôi sục là sự dẫn truyền tư tưởng hết sức mau lẹ”.

Muốn khích động môi trường để rồi truyền bá trong đó những lời tố giác và khẩu hiệu, đảng Bôn-sê-vích đã phân biệt hai loại nhân viên: tuyên truyền viên và sách động viên. Chính Plekhanov là tác giả sự phân biệt nổi danh này: “Nhà tuyên truyền nhồi thật nhiều ý tưởng vào óc một người độc nhất hay một số rất ít người, người sách động thì chỉ nhồi một ý tưởng độc nhất hay một số rất ít tư tưởng, nhưng bù lại, hắn nhồi cho cả một khối người đông đảo”. Phê bình định nghĩa này, Lénine nói rằng người sách động đi từ một sự bất công cụ thể phát sinh từ sự mâu thuẫn của chế độ tư bản sẽ cố gắng khêu gợi sự bất bình, phẫn nộ của quần chúng về sự bất công hiển nhiên này, rồi để cho nhà tuyên truyền lo liệu việc đưa ra một giải thích đầy đủ về sự mâu thuẫn ấy. Chính vì thế nhà tuyên truyền thường hoạt động bằng chữ viết, người sách động bằng tiếng nói thật sự. Tuy nhiên rõ ràng Lénine sợ rằng sẽ làm biến đổi một sự phân biệt thực ra chỉ có trên thực tế, và thường đặt trên những khả năng về tính khí, thành một sự phân biệt lý thuyết. Vả lại người ta có thể theo dõi dễ dàng hai nhóm người này suốt lịch sử các cuộc cách mạng, dù là cách mạngxã hội, chính trị hay tôn giáo. Hébert [3], Marat [4] là những nhà sách động, Robespierre [5], Saint Just [6] là những nhà tuyên truyền. Mussolini chưa hề vượt quá trình độ một nhà sách động, Hitler ngược lại, là một nhà sách động biết vươn đến mức hệ thống hóa lý thuyết của nhà tuyên truyền.

Có một điểm Lénine nhắc đi nhắc lại nhiều lần: vấn đề không phải là khích động và giáo huấn giai cấp thợ thuyền như phần lớn các đảng dân xã thường làm mà là phải “đi vào mọi từng lớp nhân dân như những nhà tuyên truyền, như những nhà sách động và như những nhà tổ chức”. Phải thực thi những vụ tố cáo, những tố giác chính trị sống động đang lôi cuốn sự chú ý của toàn thể nhân dân: thợ thuyền, nông dân, tiểu tư sản. Và muốn làm được như thế, “chúng ta phải có người của mình, các đảng viên dân xã ở khắp nơi và bất kỳ lúc nào, trong mọi tầng lớp xã hội. Ở mọi vị trí có thể giúp chúng ta hiểu biết cơ cấu nội bộ nhà nướccủa chúng ta”.

Vai trò của những người này trước hết là tuyên truyền và sách động bằng mọi phương tiện và phải thận trọng điều chỉnh những lý luận của mình với môi trường của mình. Một trong những đặc điểm của tuyên truyền Cộng sản là tính chất rất đa dạng của báo chí của họ. Ở Liên bang Sô viết mỗi địa phương, mỗi nghề có những nhật báo riêng, tất cả đều nói những điều như nhau, nhưng nói bằng những cách thích hợp tùy theo các sự dị biệt tâm trí mỗi hạng. Mặt khác không nền tuyên truyền nào không có sự trợ lực thường xuyên của thông tin, và vai trò thứ hai của các chuyên viên Cộng sản chính là nuôi dưỡng các tố cáochính trị bằng vô số tin tức liên tục tràn đến từ mọi khu vực nghề nghiệp hay xã hội. Mỗi tiểu tổ hoạt động như một cột ăng-ten thông tin, và dưới các chế độ Sô viết, các nhật báo có rất nhiều “thông tín viên nhân dân” đặt ở trong mọi cấp bậc sinh hoạt trong xứ. Công tác thông tin này đối với tuyên truyền Cộng sản là một yếu tố ưu thế rõ rệt, đặc biệt nhờ có nó, tuyên truyền có thể phản ứng nhanh hơn tuyên truyền của đối phương rất nhiều, phá rối được và thường thường vượt xa tuyên truyền địch.

Các đảng Cộng sản còn học được của Lénine sự “say mê tố giác chính trị” kiên quyết “trước toàn thể nhân dân”. Theo họ, không thể làm theo kiểu ở chế độ tư bản là thực thi thứ chính sách đồng minh và thỏa hiệp để lũng đoạn, chiếm hữu lực lượng các đảng phái khác, nhưng là đặt mình vào thế kẻ thù không đội trời chung của chế độ, liên tiếp châm ngòi nổ trên đất những quả mìn mà chính địch đã vô tình sắp sắn. Vì thế, mọi lầm lỗi của chính phủ, mọi khuyết điểm của một đa số, mọi bất công, mọi vụ tai tiếng đều bị lột mặt nạ, bị tố giác và bị gắn liền một cách có hệ thống vào chủ đề chính trị chính yếu - Công cuộc rộng lớn và thường xuyên này được mở ra từ một xưởng máy nhỏ bé nhất, qua các hội đồng Thị xã và Trung ương, các hiệp hội nghề nghiệp, các phòng xử án, vào đến tận trong nghị viện. Các nghị sĩ Cộng sản ở đây sẽ bố trí một diễn đàn để từ đó những tố giác được tung ra với một sự náo động dữ dội hơn. Trong kỳ đại hội lần thứ hai, Cộng sản Quốc tế đã nhắc nhở mỗi nghị sĩ của đảng rằng họ không phải là “một nhà lập pháp lo nói cùng một giọng với các nhà lập pháp khác, mà là một nhà sách động của đảng gửi đến vùng địch để thi hành những quyết định của đảng”. Các nghị sĩ Cộng sản cũng phải nương dựa trên những khẩu hiệu của đảng và hợp xướng bằng những đề án có vẻ ngoài cụ thể, theo huấn lệnh của chính trị bộ đưa ra từ năm 1924: “Các đảng viên đắc cử phải đệ trình những dự án hoàn toàn có tính cách trình diễn, lập ra không nhằm để được chấp nhận mà nhằm mục đích tuyên truyền và sách động”.

Tuy thế, Lénine biết rằng một đội quân tuyên truyền và sách động, dù có đông đảo đến hàng triệu, cũng không đủ để chiến thắng nếu hoạt động của họ không được hỗ trợ bởi một đường lối chính trị đúng và bằng những sự thực hiện thiết thực. Một cuộc tuyên truyền không có những hành động hỗ trợ sẽ chỉ là những lời bẻm mép tạo ra những ảo tưởng nguy hại, giam hãm sự tiến hành của chiến thuật ở một giai đoạn đã lạc hậu.

Dưới chế độ tư bản, hoạt động này được biểu hiện bằng sựủng hộ cho các yêu sách, bằng hoạt động trong các nghiệp đoàn và đoàn thể đủ loại, nhưng cũng bằng các thực hiện những biểu hiện thiết thực cho một ý chí phân minh và hình dung sẵn về xã hội của chủ nghĩa xã hội trong tương lai. Các hội đồng thành phố Cộng sản đã đóng trọn vai trò của một thứ mẫu hàng làm chứng này ở Pháp, bằng cách phát triển các công tác xã hội, các trại hè cho học sinh nghèo, bằng cách xây cất nhà cửa và sân vận động. Tuyên truyền như thế đã được chứng thực bởi việc làm và điều này hết sức quan trọng đối với những người đã được một kinh nghiệm lâu dài dạy cho sự nghi ngờ giá trị của các chương trình chính trị.

Trong thời kỳ chinh phục của cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa, vai trò của những kiểu mẫu này còn quan trọng hơn nữa. Chính vì vậy mà cuộc cải cách ruộng đất đã được xúc tiến trong quần chúng nông dân Tàu trước hết theo lối gương mẫu truyền nhiễm: trong một làng, đất đai được biến thành tài sản chung, do một nhóm lao động đã được đặc biệt giác ngộ và giáo hóa lo cày cấy, nông dân ở các miền lân cận đến xem, rồi dần dần nhận ra những điều lợi ích của giải pháp này.

Không thể chối cãi rằng tuyên truyền chính trị dưới hình thức hiện đại đã do đảng Cộng sản, và đặc biệt là Lénine và Trotsky khai trương. Với một thiên tài tuyên truyền và sách động năm 1917, Lénine đã tung ra những khẩu hiệu làm nhịp cho các giai đoạn tiến chiếm chính quyền. Với một kỹ thuật mới lạ chưa từng thấy, Trolsky dùng vô tuyến truyền thanh nói chuyện với “quần chúng đau khổ” đang chán ngán chính quyền của họ. Một cuộc tuyên truyền và sách động mạnh mẽ phi thường phát triển rộng trong giới vô sản, nông dân và quân đội. Những hội quán chính trị, những “nhật báo nhà máy”, những nhà hùng biện đầu đường xuất hiện đầy rẫy rất mau. Nơi những phần tử trung thành với chế độ Nga hoàng, các nhà sách động bắt tay vào việc, ngấm ngầm gieo rắc lo sợ và chia rẽ. Lúc cuộc cách mạng đã thiết lập được ở Léningrad và Moscou, hoạt động này không những không giảm mà còn được tăng cường để mở rộng và củng cố quyền hành các Sô viết. Những “chính ủy” được gửi đến các đơn vị quân sự để bình luận các mệnh lệnh và sắp đặt lại các lệnh ấy vào một tổng quan chính trị (contexte politque) chung [7]. Các “đội lưu động” gồm những đảng viên Cộng sản trẻ tuồi di động trong quân đội, dừng lại ở các thị xã miền quê trong vài ngày để trình bày ca kịch và diễn thuyết chính trị. Như thế đã phát sinh ra một hệ thống tâm lý chính trị đi sâu vào những miền xa xôi nhất trong xứ bằng biết bao phương tiện truyền đạt (báo chí, vô tuyến truyền thanh, kịch, chiếu bóng, báo địa phương và báo nhà máy, diễn thuyết, hội họp v.v...) Việc chỉ huy thứ hoạt động nhiều mặt này được giao phó cho một bộ chỉ huy “Tuyên Vận” (gọi tắt của tuyên truyền và vận động) có người chịu trách nhiệm ở tất cả các cấp bậc, cả đến tận tiểu tổ căn bản, và tổ chức này lúc nào cũng là ngành thiết yếu của hoạt động Cộng sản. Sau này các cuộc cách mạng Cộng sản đều đi đôi với một công tác tương tự về xâm nhập và giáo hóa ý thức hệ và chính trị. Du kích quân Nam Tư và Trung Hoa sau này cũng cho kèm sát loại tổ chức này với tổ chức quân đội của họ. Ông Djilas, một trong những lãnh tụ du kích Nam Tư viết: “Khó mà tìm ra một đơn vị không có báo chí riêng”. [7]

Nhưng hẳn rằng sự tuyên truyền được phát triển mạnh nhất là ở Trung Hoa. Mao Trạch Đông quả là một chiến lược gia và lý thuyết gia về một hình thức chiến tranhmới, phỏng theo kinh nghiệm của các dukích quân, và ở Pháp được mệnh danh là “Chiến tranh cách mạng” (Guerre Revolutionaire). Mao đi từ nguyên tắc là quân đội phải là mũi dùi lưu động của toàn thể quần chúng tham dự vào cuộc chiến. Những liên hệ do Lénine thiết lập giữa đảng và giai cấp lao động. Mao đã đem thích ứng vào những tương quan giữa quân đội và nhân dân. Vì thế phát sinh một bộ máy quân chính (chính trị quân sự) dựa trên những “hệ thống song hành”. (Hiệp hội nghề nghiệp thể thao, tổ chức điền địa v.v... song song với tổ chức đảng). Những tổ chức này vận chuyển không ngừng những mệnh lệnh chính thức cùng sự giáo dục chính trị. Không một ai có thể thoát khỏi.

Trong thời chiến, phương thức này áp dụng, cho các tù nhân đã sẵn bị “giải giới” (Mis-à-plat) nghĩa là đã bị làm cho bạc nhược về sinh lý và bị cô lập tâm lý, trước khi đem đi “cải hóa” như ở trường hợp các trại giam của Bắc Hàn và Việt Minh trước kia [8].

Trong thời bình, sự động viên năng lực này được duy trì để dùng cho những mục tiêu chính trị và kinh tế. Lại cũng ở Trung Hoa, nơi phương pháp này đã đạt tới cực độ, hàng trăm ngàn người bị đày ra các nông trường lao động bằng những chiến dịch đã biến họ thành những kẻ “chí nguyện” hăng hái.

Ở Trung Hoa cũng như ở các chế độ dân chủ nhân dân, Đảng đã cho khai triển một huyền thoại về kế hoạch bằng các tuyên cáo tổng quát cũng như bằng những khích lệ cá nhân (dẫn chứng những thành quả kiểu mẫu và những thành tích vượt bậc, tặng huy chương cho các thợ thuyền ưu tú).

Những vận động tâm lý này, nếu cần, còn được dùng làm hậu thuẫn do chính sách đối ngoại của các lãnh tụ. Vì vậy, năm 1958, hồi đang có chiến dịch đòi Đài Loan, những chỉ thị hàng tuần được tung ra từ đài phát thanh, báo chí và bích chương, được hòa nhịp bằng những cuộc biểu tình khổng lồ, lan ra khắp nước Tàu với những làn sóng vĩ đại được các cơ sở chính quyền kiểm soát tiến độ từng giờ một.

Trong những chế độ Sô viết hay mô phỏng Sô viết, không thể nào vạch rõ được phạm vi của tuyên truyền. Tuyên truyền đã là một khía cạnh của một sinh hoạt toàn thể đi từ giáo dục cấp tiểu học đến sản xuất kỹ nghệ và nông nghiệp, bao trùm cả văn học, nghệ thuật và giờ nhàn rỗi. Hết thảy sinh hoạt của người công dân đã trở thành đối tượng của tuyên truyền. Zinoviev [9] đã từng nói: “Nơi chúng ta, sự sách động và tuyên truyền dựa trên huấn luyện. Sách động, tuyên truyền và huấn luyện hợp thành một toàn bộ phải được thực hiện theo quan niệm Mác Lê về giáo dục”. Kể từ đó theo chữ Zhdanov [10] dùng, “tinh thần đảng” đã xâm nhập khoa học, âm nhạc, phê bình văn học... tất cả các bộ môn này đều có phận sự đào tạo ra “con người Sô viết mới”.

Trường học trở thành một trong những trụ cột của loại tuyên truyền toàn diện này. Tiếp đó, những “khóa hội thảo chính trị”, những “trường tu nghiệp” đã huấn luyện ra hàng trăm ngàn nhà “tuyên truyền” hay “sách động” để tổ chức những khóa học chính trị, những buổi nói chuyện trong các nhà máy, các hợp tác xã nông nghiệp, các cơ sở quốc doanh, và các cơ sở đủ loại khác. Căn bản cho sự giáo huấn này là các tác phẩm của Mác, Ăng-gen, Lẻ-nin, Staline, Mao Trạch Đông. Công cuộc đại quy mô ấy được trợ lực bằng vô số hiệp hội văn hóa phân nhánh thành những “góc đỏ” trong các nhà máy, những “lều đọc sách” ở miền quê, những hội bảo trợ quân đội, những hội thể thao.

Ở đây tuyên truyền đã thắng thế đến mức độ nó tan lẫn vào toàn thể những hoạt động chính trị, kinh tế hay tri thức của một quốc gia. Mỗi hoạt động đều có biểu lộ ra khía cạnh tuyên truyền cả. Sự ám thị phát sinh từ đó, vài phương thức dàn cảnh tập thể, sự khai thác các tin tức, sự tập trung điều khiển những dụng cụ truyền tin, sự kiểm duyệt, tất cả những sự kiện ấy không hề phát xuất từ chủ nghĩa Mác Lê, chúng chỉ thoát thai từ một sự sử dụng chuyên nghiệp và độc quyền công cuộc tuyên truyền.

Chú thích:

[1] Bôn-sê-vích (bolchevik) có nghĩa là đảng viên Đảng Cộng sản Nga. Hội nghị đảng Dân chủ Xã hội Nga 1903 chấm dứt bằng một vụ phân hóa làm hai: đảng đa số (tiếng Nga là bolchevik) và đảng thiểu số (tiếng Nga là menchevik). Đảng thứ nhất do Lénine lãnh đạo, thực hiện cách mạng 1917 và diệt đảng thiểu số. Từ đó, danh từ bolchevik được dùng để chỉ chung đảng Cộng sản Nga.

[2] Lénine: 1870- 1924, một trong những người lãnh đạo cuộc chiến đấu cách mạng chống Nga hoàng năm 1905, bị trục xuất khỏi nước sau khi thất bại. Trở về Nga năm 1917, lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng tháng Mười mở đầu cho các chế độ Cộng sản trên thế giới, thỉnh lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Sô viết. Ông là một trong những lý thuyết gia lớn của chủ nghĩa Marx, tác giả các cuốn sách bây giờ được coi như thánh kinh trong thế giới Cộng sản.

[3] Hébert: Chính trị gia Pháp (1757 - 1794): chủ trương tờ Père Duchesne ủng hộ những cuộc tàn sát tháng Chín, có ảnh hưởng lớn đối với Công xã Paris. Bị Robespierre bắt và đưa lên đoạn đầu đài.

[4] Marat: Nhà Vật lý vàchính trị gia Pháp (1743 - 1794), chủ trương tờ Ami du peuple, là một trong những người tổ chức vụ thảm sát tháng Chín, từng làm đại biểu của phe Jacobin trong hội nghị Quốc ước. Bị ám sát chết.

[5] Robespierre: Luật sư Pháp (1758 - 1791), chủ chốt của thời kỳ khủng bố của Cách mạng Pháp. Sử dụng Ủy ban Cứu quốc, ông loại trừ các đối thủ Hébert, Danton, nắm quyền điều khiển chính phủ Cách mạng. Sáng lập đạo thờ Thượng đế (l’Être Supréme), chủ trương một nền đạo lý khắc khổ. Bị lật đổ vào tháng 7-1794 và chết trên đoạn đầu đài

[6] Saint-Just: thành viên Ủy ban Cứu quốc cùng với Robespierre, bị xử tử cùng ông này.

[7] Coi cuốn sách giá trị của Robert Goudima: “Hồng quân trong thời bình và thời chiến” (Edition Défense de la France).

[8] Kinh nghiệm cuộc chiến tranh Đông Dương đã làm cho một vài sĩ quan Pháp suy ngẫm về những kỹ thuật của chiến tranh cách mạng mà chính họ đã là nạn nhân. Họ kết luận rằng cần thiết phải có “tác động tâm lý” và họ đã dùng tác động này ở Algerie để đối địch với sự tuyên truyền của Mặt trận Giải phóng Quốc gia và các nhà lãnh đạo Ai Cập (Xem Đại tá Ch. Lacheroy, Chiến tranh dấy loạn, trong “sự phòng thủ quốc gia” Bibliothèque de Centres d’Etudes supérieures Spécialisés T.I.V, P.U.F).

[9] Zinoviev (1883 - 1936) một trong những đảng viên Cộng sản kỳ cựu của NgaSô, bị Staline khép vào tội phản bội và thủ tiêu.

[10] Zhdanov (1896 - 1948): Ủy viên Chủ tịch đoàn Sô viết tối cao Liên Xô, phụ tá của Staline.

Đánh máy : Nguyễn Học
Scan et Hiệu Đính: HuyTran
Nguồn: HuyTran - VNthuquan.net - Thư viện Online
Nhà xuất bản THÁI ĐỘ
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 11 tháng 5 năm 2015