CHƯƠNG 5 (tt) Các quy tắc chính của tuyên truyền-
thế uyên dịch và chú giải
CHƯƠNG 5 (tt)
các quy tắc chính của tuyên truyền
. Quy tắc giản dị hóa vấn đề và duy nhất hóa kẻ địch
Trong tất cả mọi địa hạt, tuyên truyền trước hết phải nỗ lực làm cho giản dị đã. Phải chia chủ thuyết và luận cứ của mình thành vài điểm càng xác định rõ rệt bao nhiêu càng tốt. Tất cả mọi giai tầng công thức được đặt dưới sự sử dụng của nhà tuyên truyền: tuyên ngôn, bản công bố chính kiến chương trình, cương lĩnh... thường thường đều viết theo bút pháp khẳng định, đều phát biểu một số đề án dưới hình thức một bản văn vắn tắt và rõ ràng.
Điều đáng chú ý là đi trở ngược lại nguồn gốc của ba nền tuyên truyền đã đảo lộn lâu dài thế giới, chúng ta đều thấy ba bản văn cùng loại như thế: niềm tin của Ki-tô-giáo được cô đọng trong Crédo [13] hay biểu tượng Nicée [14]; cuộc Cách mạng Pháp đã soạn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Công quyền, bản văn có thể nói là đã trở thành văn ABC của tuyên truyền Cách mạng và còn tồn tại tới ngày nay, điều đó còn chứng tỏ sức sống của các nguyên tắc nêu ra trong nội dung. Cả hai bản văn đều có một mức cô đọng và sáng tỏ hết sức đến độ không ai lấy ra được ra chữ thừa nào; cả hai đều cấu tạo bởi các câu ngắn và có nhịp điệu như thế nào để có thể dễ học thưộc lòng. Chủ nghĩa Mác thi đua trên một tài liệu dài hơn, bản Tuyên ngôn Cộng sản, trong đó Mác và Ăng-gen cô đọng chủ thuyết lại trong vài công thức rất kêu.
Cái nỗ lực để tóm tắt và làm sáng tỏ ấy là điều cần thiết trước tiên cho mọi tuyên truyền. Chúng ta tìm thấy sự kiện này trong một bản văn nổi tiếng như bản tuyên ngôn Mười Hai Điểm của Tổng thống Wilson, nhưng chúng ta cũng tìm thấy tương tự ở nhiều mức độ khác trong nhiều bảnchương trình, tuyên ngôn, công bố chính kiến khi tranh cử - những bản văn thường có của bất cứ ai trong đời sống chính trị.
Tiếp tục tiến về một đơn giản hóa lớn hơn, chúng ta thấy có tiêu lệnh (mot d’ordre) và khẩu hiệu (slogan) ngắn và đập mạnh đến mức tối đa có thể được, theo một kỹ thuật do quảng cáo khai triển. Tiêu lệnh, như chúng ta đã thấy, có một nội dung chiến thuật: nó tóm lược mục tiêu phải đạt. Còn khẩu hiệu kêu gọi trực tiếp hơn đến các nhiệt tình chính trị, lòng hăng say căm thù: “Đất cày và Bánh mì” là một tiêu lệnh; “Ein Volk, ein Reich, ein Fuhrer” (Một dân tộc duy nhất, một quốc gia duy nhất, một lãnh tụ duy nhất) là một khẩu hiệu. “Không một xu, không một người cho chiến tranh Maroc” là một tiêu lệnh; “Doriot cầm quyền, Rex sẽ chiến thắng” [15] là những khẩu hiệu. Sự phân biệt khẩu hiệu và tiêu lệnh thường không phải lúc nào cũng rõ rệt như vậy.
Sau hết, đi tới cực điểm thì một chủ thuyết hay một chế độ có thể được tóm lược trong một biểu tượng bằng nét chữ (S. P. Q. R. R. F. hay các chữ đầu danh tính các vị vua đang trị vì...) biểu tượng bằng hình (cờ, cờ hiệu, biểu hiệu hay huy hiệu dưới các hình dáng thú vật hay đồ vật - chữ vạn, búa liềm v.v... biểu tượng bằng cử động (kiểu chào phát-xít, kiểu chào tay nắm lại v.v...) biểu tượng bằng âm nhạc (nhạc khúc, các câu nói có âm điệu).
Lúc đầu, biểu tượng thường là tượng hình, thí dụ như búa rìu của vị sứ viên dưới quyền các tham phán cổ La Mã, chiếc mũ đỏ của Cách mạng Pháp, về sau biểu tượng dần dần xa rời thực tại nó tượng trưng để dễ dàng cho việc tái tạo hơn. Hình chữ vạn chỉ là một biểu tượng thời tiền sử của mặt trời, chỉ có một liên hệ thơ mộng với chủ nghĩa Quốc xã mà thôi. Các chữ thập khác được đưa ra gần đây cũng vậy; chữ thập Lorraine chẳng hạn, biểu tượng của nước Pháp được gợi lên một lãnh thổ bị dọa đầy, nhưng giá trị của nó chính ở hình dáng giản dị (chữ thập là một biểu tượng đơn giản nhất và dễ tạo lại, vẽ lại nhất). Chữ V của Anh quốc [17] được Đồng Minh chấp thuận làm biểu tượng chung, cũng là một biểu tượng thành công hoàn toàn. Chữ cái đầu của chữ “Victoire” (chiến thắng) có một giả trị tượng hình trực tiếp; ngoài ra, nó vừa diễn tả một biểu tượng loại nét chữ cực kỳ đơn giàn và tiện lợi cho việc vẽ lại tên trường, tạo ra bằng cử động hai ngón tay hay hai cánh tay giơ lên), nó vừa là một biểu tượng âm thanh lấy ra từ chữ V trong ký hiệu Morse, được dùng làm âm hiệu loan báo các buổi phát thanh của đài BBC dành cho các lãnh thổ bị Đức chiếm đóng, và do từ đấy, nó sau hết còn có một giá trị thơ mộng bởi vì trùng lẫn với nét nhạc đề của khúc Hòa tấu thứ năm của Beethoven, gợi lại những tiếng gõ cửa của Định mệnh.
Các biểu tượng dị biệt này, tự riêng chúng gợi lên được một toàn thể ý tưởng và tình tự, là nhờ ở một cách thức chuyển vận chúng tôi đã phân tích ở chương trước. Dầu vậy, cũng xin ghi lại rằng sự đơn giản hóa thành các công thức rõ ràng, thành các sự kiện thành các con số, bao giờ cũng có kết quả tốt hơn là các vụ chứng minh dài dòng. Quả thực là một nhược điểm của một số đảng phái chính trị thí dụ như đảng M R.P. tại Pháp, khi họ không thành công trong việc gói ghém chủ thuyết hay chương trình của mình trong vài công thức và biểu tượng thật kêu hay bắt mắt, có thể dễ nhớ.
Ngoài ra, một tuyên truyền tốt mỗi lần chỉ nhằm một đối tượng chính mà thôi. Các đệ tử của Hitler đã áp dụng hoàn hảo phương pháp tập trung này, phương pháp đầu tiên trong trong chiến thuật chính trị của họ: liên minh với các đảng phái tư sản và phản động để chống lại các cán bộ Mác-xít rồi liên minh với phe hữu quốc gia để chống lại các đảng tư sản và sau cùng là tiêu diệt các đảng viên quốc gia. Họ bao giờ cũng dàn xếp sao cho mỗi lúc chỉ có một kẻ thù thôi.
Tập trung vào một người tất cả các hy vọng của phe mình, tập trung vào một kẻ địch duy nhất tất cả căm hờn của mình đối với phe thù địch, hiển nhiên đó là hình thức, đơn giản hóa sơ đẳng nhất và mang lại nhiều hiệu năng nhất. Các tiếng hò reo “Hoan hô X” hay “Đả đảo Z” là những tiếng bập bẹ của tuyên truyền chính trị và bao giờ cũng mang lại cho tuyên truyền một phần lớn ngôn ngữ quần chúng. Chuyển cuộc đấu tranh chính trị thành một sự đối nghịch giữa người này với người khác, chính là đem thay thế việc đối chọi khó khăn giữa các đề án chính trị cùng hoạt động chậm chạp và phức tạp của chế độ đại nghị bằng một thứ trò chơi có phong độ thể thao các dân tộc Anglo-Saxons [18] ưa chuộng, và có khía cạnh bi thảm, đam mê các dân tộc La Tinh [19] ưa thích. Chính vì thế khẩu hiệu “Bidault không Thorez” của đảng M.R.P [20] trong chiến dịch tuyển cử 1946. hay biểu tượng bằng nét chữ P.M.F của Pierre Mendès France [21] đều có ý nghĩa hơn các chương trình dài dòng.
Cá nhân hóa địch thủ mang lại nhiều lợi điểm hơn. Đảng Quốc xã biến mỗi cuộc bầu phiếu thành một “cuộc chiến đấu chống lại kẻ áp bức sau cùng” Con người thích chống đối với những con người khác bằng xương thịt hơn là chống các lực lượng lờ mờ. Một mặt khác, khi thuyết phục được mọi người rằng kẻ địch đích thực của họ không phải là đảng này hay quốc gia kia, mà là lãnh tụ của đảng hay quốc gia đó, ta đã bắn một mũi tên được hai con chim; một phía ta trấn an được những người phe mình tin rằng đối diện với họ không phải là một quần chúng cũng quyết tâm như họ, mà chỉ là một đám đông bị huyễn hoặc và lôi kéo bởi một lãnh tụ xấu sẽ bỏ rơi đàn em khi các kẻ này mở mắt nhìn rõ được sự thật. Một phần khác, ta có hy vọng làm chia rẽ hàng ngũ địch. Vậy ta luôn luôn chỉ tấn công cá nhân hay thiểu số nhỏ nhoi thôi, đừng bao giờ tấn công toàn thể quần chúng của xã hội hay quốc gia. Chính vì thế Hitler không bao giờ lên tiếng chống thợ thuyền Mác-xít cả, chỉ chống “một số Do Thái Mác-xít giật dây” mà thôi, cũng như không chống nhà thờ, mà chỉ chống “bọn bè lũ linh mục thù nghịch với Nhà nước” thôi. Trong các nỗ lực tuyên truyền nhằm vào các giáo dân Ki-tô và các đảng viên xã hội, các đảng Cộng sản hành xử theo quy tắc vừa trình bày; tuyên truyền Cộng sản thường có tục lệ là cô lập hóa một vài kẻ địch rồi biến những kẻ này thành mục tiêu công kích chung rồi tấn công ào ạt không thương tiếc bằng cách gắn cho cá nhân các kẻ địch ấy trách nhiệm về tất cả những quyết định và những sự việc thường ra ở ngoài giới hạn tác động hay hiểu biết của họ. Chính theo cách thế này, tờ L’Humanité [22] ngày 13-1-1948 đã chống lại vị Bộ trưởng thuộc Đảng Xã hội Lacoste như sau: “Tại Petite Rosselle đang than khóc, khí mỏ than giết chết 16 phu mỏ đã được khám phá ra từ nhiều ngày trước đó rồi. Lacoste không thể không biết tới sự kiện này”. Tới đây, ta hiểu tại sao các ý niệm về phe đảng, bè lũ, âm mưu lại chiếm một chỗ quan trọng như vậy trong tuyên truyền. Các vụ án chính trị lớn như vụ đốt Quốc hội Đức hay vụ xử Rajk [23] được đưa ra đúng lúc để chứng thực có âm mưu như đã tố cáo và để thuyết phục quần chúng rằng họ thực ra chỉ bị chống đối bởi một bọn do thám, phá hoại và phản bội.
Người ta sẽ nỗ lực gắn liền nhóm nhỏ kẻ thù nói trên với một thành phần duy nhất hay một cá nhân duy nhất. Tuyên truyền Hitler đã trình diễn cho chúng ta thấy “âm mưu chống Âu châu của bọn dân chủ bọn tài phiệt, bọn bôn-sê-vích” như là điều khiển bởi “bè lũ Do Thái quốc tế” (trong thời kỳ Pháp bị chiếm đóng, một bích chương của Propagandastaffel trình bầy một Do Thái mập ú hút xì gà, tay cầm dây điều khiển một nhóm hình nhân múa rối gồm các chủ nhà băng Anh quốc, các đảng viên bôn-sê-vích và các nhà tài chính Hoa Kỳ...) Khi thành phần đó không đủ thuần nhất, người ta sẽ bịa đặt ra bằng cách làm liên hệ kẻ địch với nhau bằng phương pháp đọc liền và thật nhiều lần tên họ một lần để gây cho quần chúng cái cảm tưởng là các kẻ đó “đồng bọn với nhau”. Tuyên truyền Cộng sản thường dùng phương pháp ấy một cách bất ngờ, và đã có lần, ta thấy một chính trị gia cấp tiến, một Tổng giám mục, và một triết gia hiện sinh được kể tên lộn xộn trong cùng một danh sách. Đó là phương pháp chúng tôi gọi là phương pháp nhiễm độc, mà một đảng phái thường dùng để khuyến dụ quần chúng rằng sự phân hóa của các kẻ địch chỉ là những trò giả vờ cốt nhằm đánh lừa nhân dân mà thôi, còn thực ra thì chúng âm mưu với nhau để chống lại nhân dân.
Trong cách thế tuyên truyền kiểu Hitler đã khai thác ý hướng của địch, có một chiến thuật hiệu lực kỳ lạ về tâm lý và chính trị. Đó là nghệ thuật lừa bịp đưa đến mức tối đa. Chiến thuật này là gán cho kẻ địch những lầm lẫn hay tàn bạo của chính mình, một phương sách thường làm mọi người chưng hửng. P. Reiwald ghi nhận rất đúng rằng “Sự kiện gán cho địch những lỗi lầm của chính mình cùng gán cho địch những hành động mình sắp vi phạm, đã nhờ Hitlermà trở thành bản chất của tuyên truyền Quốc xã” (De l’Esprit đes masses, Delachaux Niestlé, trang 257). Reiwald đã kể lại một câu nói đáng ngạc nhiên của Hitler với Rauschning, chứng tỏ rằng vị Fuhrer [24] đã nhân hóa kẻ địch một cách thái quá, đi tới chỗ đã chỉ định cho nền tuyên truyền của mình cả một nhiệm vụ hồi tâm (catharsis), tự thanh lọc bằng căm thù: “Tất cả chúng tôi đều mang gã Do Thái trong người, nhưng chiến đấu chống một kẻ địch trông thấy được, dễ hơn chiến đấu chống một con quỷ vô hình”.
2. Quy tắc phóng đại và xuyên tạc
Phóng đại các tin tức là một phương sách báo chí thường được giới báo chí của tất cả các đảng phái sử dụng để “làm nổi bật giá trị” tất cả những tin tức nào thuận lợi cho phe mình: một câu nói không nhằm chỗ của một chính trị gia, việc vi phạm không phận hải phận của một phi cơ hay tàu lạ, đều được biến thành những bằng cớ đe dọa. Sử dụng khéo léo những câu hay đoạn ngắn tách ra khỏi toàn bản văn, cũng là một phương sách thông dụng.
Tuyên truyền Hitler đã sử dụng một cách có hệ thống các tin tức như một phương tiện điều khiển tâm trí con người. Các tin tức quan trọng không bao giờ được phổ biến nguyên văn hết, chúng phải được định giá lại để cho có các tiềm năng tuyên truyền trước đã. Walter Hagemann cho một thí dụ về cách báo chí Đức đã trình bày một cuộc đình công ở Hoa Kỳ. Báo chí Đức không nói: “Roosevelt [25] đề nghị đứng ra trọng tài, nhưng những người đình công đã từ chối”, mà nói: “những người đình công đáp lại chính sách xã hội ngu xuẩn của Roosevelt bằng sự từ chối đề nghị trọng tài của ông này”. Như vậy sự phóng đại bắt đầu ngay từ mức độ thông tin và thường thường đượcbiểu lộ rõ ràng bằng các tít lớn và lời phê bình.
Một trong mối lo lắng thường xuyên của các cán bộ tuyên truyền Hitler là nhằm tính cách quảng đại. Trong Mein Kampf có viết: “Tất cả tuyên truyền phải chọn trình độ tri thức tùy theo khả năng am hiểu của kẻ dốt nhất trong những kẻ phải tuyên truyền. Trình độ trí thức này càng thấp khi số người phải thuyết phục càng lớn”. Do đó, sự châm biếm thô tục, chế riễu nham hiểm, các lời chửi rủa đều là đặc điểm của hùng biện kiểu Hitler. (Churchill [25] đã bị mắng là đồ bợm nhậu, túi rượu, ngu ngốc, điên rồ, lười nhác, nói dối v.v...) Jules Monnerot đã nhấn mạnh tới điểm các nhà độc tài hiện đại đều đã có khả năng “sơ khai hóa” cùng khả năng viết lại chủ thuyết mình bằng một “ngôn ngữ quần chúng”. Theo bảng liệt kê tất cả những nhà tuyên truyền tài ba do Bruce Smith lập trong cuốn The Political communitation specialist of our times (Princeton) chỉ có một kẻ có tên trong bản liệt kê đã theo học những khóa nghiên cứu cao cấp về con người là bác sĩ Goebbels.
Dù không lao vào những thái quá như vậy, chắc chắn tuyên truyền vẫn đòi hỏi một cách diễn tả nhiều người có thể hiểu được nhất. Phải càng ít đi vào chi tiết và phân biệt sắc thái bao nhiêu càng tốt, nhưng trước hết phải trình bày chủ đề của mình một cách toàn bộ và có tác động mạnh nhất! Thiên hạ sẽ không tin kẻ nào chưa chi đã tự đặt ra những giới hạn cho các lời khẳng định của mình. Kẻ nào đi tìm sự ủng hộ của quần chúng, tốt nhất không nên nói: “Khi tôi lên nắm chính quyền, các công chức sẽ được lãnh bấy nhiêu lương phụ cấp, gia đình sẽ tăng thêm chừng này v.v...” mà nên nói: “Khi tôi lên cầm quyền, tất cả mọi người đều sung sướng hết”.
3. Quy tắc điệp tấu
Điều kiện đầu tiên của một nền tuyên truyền là nhắc đi nhắc lại hoài các chủ đề chính của mình. Goebbels nói một cách trào phúng rằng: “Giáo hội Ki-tô đứng vững được là tại Giáo hội nhắc đi nhắc lại hoài một điều từ hai ngàn năm nay. Nhà nước Quốc xã cũng phải làm như thế mới được”.
Tuy thế, nhắc đi nhắc lại hoài không mà thôi sẽ chóng làm phát sinh chán ngán. Vậy phải vừa duy trì việc nhắc đi nhắc lại hoài chủ đề chính vừa trình bầy chủ đề đó dưới nhiều hình thái khác nhau. Hitler trong Mein Kampf viết như sau: “Tuyên truyền phải tự giới hạn trong một số ít ý kiến nào đó thôi và nhắc đi nhắc lại hoàihoài. Quần chúng nhớ nhữngý kiến đơn giản nhất một khi chúng được nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần. Những thay đổi cần thiết chỉ được chi phối hình thức thôi, không bao giờ được tác động tới căn bản của những điều ta muốn truyền thụ. Bởi thế, tiêu lệnh có thể trình bầy dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng bao giờ cũng phải cô đọng thành một công thức bất biến về phương diện kết luận”. Đó không phải là một phát kiến, mà là sự hệ thống hóa một phương sách. Ông già Caton [26] đã biết tới nó khi ông chấm dứt tất cả những bài hô hào bằng câu “Delende carthago”, và Clémenceau [27] đã sử dụng nó khi vị Thủ tướng này trong bài diễn văn nào cũng đặt câu nổi danh sau vào: “Tôi dự chiến”.
Sự thường trực của chủ đề liên kết với nhiều cách trình bày khác nhau, là đức tính chủ chốt của tất cả các chiến dịch tuyên truyền. Các đảng Cộng sản cho ta một khuôn mẫu về phương diện này qua sự họ ngoan cố nhắc đi nhắc lại một chủ đề duy nhất thâm nhập dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nếu ta lấy hồ sơ sưu tập báo L’Humanité năm 1948 kể từ 1 tháng giêng, ngày tờ báo mừng năm mới bằng cách chúc các độc giả một năm tốt lành, “năm chiến thắng trên kế hoạch đổ vỡ của bè lũ Hoa Kỳ”, ta sẽ thấy rằng chẳng có bài quan điểm hay bài phỏng vấn nào, về bất cứ vấn đề gì, lại không xét lại kế hoạch Marshall [27], và thứ leitmotiv (chủ đề nhắc đi nhắc lại hoài) này được trình bày lại dưới hình thức khôi hài hay trong mục tin đồn cùng các bài thời sự về phim ảnh, thể thao v.v...
Điệp tấu một chủ đề nhất định, là nhắc đi nhắc lại bằng tất cả các cơ quan tuyên truyền qua mọi hình thái thích ứng với các loại công chúng khác nhau và càng đa dạng bao nhiêu càng tốt.
“Đối với mỗi công chúng khác nhau, bao giờ cũng phải có một sắc thái khác nhau”, các chỉ thị của Goebbels hầu như dạy như vậy, và cũng vẫn chính ông Goebbels này còn đưa mối lo thích ứng với công chúng này đến mức độ ghi vào trong nhật ký rằng: “Đối với dân Pháp, tuyên truyền trong địa hạt văn hóa bao giờ cũng có hiệu lực hơn cả”.
Tương tự như trong một chiến dịch quân sự, mỗi kẻ chiến đấu bằng vũ khí của mình trong khu vực đã được chỉ định. Bởi thế chiến dịch chống Do Thái của Quốc xã được đồng thời tung ra bằng nhiều phương tiện khác nhau: các nhật báo “loan tin” và mở các cuộc bút chiến, các tạp chí đăng tải khảo cứu thông thái về ý niệm chủng tộc và phim ảnh thì sản xuất những phim như Le Juif Suss. Khi Quốc xã nắm được các phương tiện tác động tất cả dư luận Âu châu, kỹ thuật điệp tấu của họ đạt tới mức phát triển tối đa: vào thời kỳ này, mỗi tuần đều xuất hiện trong tờ Das Reich một bài quan điểm của Bs. Goebbels, bài này được đăng lại ngay lập tức trong nhiều ngôn ngữ cùng văn kiện khác nhau, sau khi đã sửa đổi theo sự đòi hỏi của nhiều tâm trạng quốc gia khác nhau, qua các báo chí và vô tuyến truyền thanh Đức, qua các báo chí tiền tuyến và báo chí của tất cả các quốc gia bị chiếm.
Đảng Cộng sản cũng áp dụng một điệp tấu rất khá theo cách thế riêng của họ. Các chủ đề căn bản xác định rõ mỗi tuần bằng một biên bản của phòng chính trị thành một bản văn bao giờ cũng sáng sủa và gọn ghẽ, đều được khai triển bằng toàn thể báo chí Cộng sản cùng các diễn giả, và được lặp đi lập lại tới cấp cơ sở dưới hình thức các bích chương, kiến nghị, tuyên truyền miệng, truyền từng nhà v.v... Chính bằng cách như vậy, các chiến dịch tuyên truyền lớn của Cộng sản (chống kế hoạch Marshall, chống bom nguyên tử) đã vang dội đi khắp xử sở và gần như tiếp xúc tới hầu hết các công dân bằng cách này hay cách khác. Một chiến dịch tuyên truyền lớn kể như thành công khi nổ vang dội thành rất nhiều tiếng vang, khi nó lập được một hiện tượng cộng hưởng thực sự giữa những kẻ ném ra chiến dịch và những kẻ đáp ứng lại, một hiện tượng cộng hưởng mà nhịp điệu có thể theo dõi và khuếch đại được. Ngoài ra, hiển nhiên là muốn đạt được sự cộng hưởng này, mục tiêu của chiến dịch phải phù hợp một nguyện vọng được ý thức nhiều hay ít trong tâm trí những đám quần chúng đông đảo. Việc tiếp tục và khai triển một chiến dịch tuyên truyền đòi hỏi ta phải theo sát tiến triển của chiến dịch, biết nuôi dưỡng nó liên tục bằng các tin tức và khẩu hiệu mới mẻ, biết tạo ra đà thúc đẩy mới vào lúc thuận lợi dưới một hình thức khác và càng đặc biệt bao nhiêu càng tốt (các cuộc gặp gỡ, bầu phiếu thu thập chữ ký, biểu tình quần chúng...). Mỗi một chiến dịch có một hạn kỳ và một nhịp điệu riêng: lúc phát động nó phải “bám chặt” vào một biến cố đặc biệt quan trọng và cứ như thế phát triển càng tiệm tiến bao nhiêu càng tốt, và chấm dứt bằng một cực điểm, thường thường là một cuộc biểu tình quần chúng. Đó quả là một buổi đốt pháo bông, các pháo kế tiếp bay lên mỗi lúc một phong phú, đun nóng lòng nhiệt thành đến một mức độ tràn bờ đạt tới bằng cách phóng cả “chùm” pháo. Sự nhanh chóng bao giờ cũng là yếu tố chủ chốt của một chiến dịch tuyên truyền. Cần phải “ném ra” đều đều các lời tố cáo, các luận cứ mới theo những nhịp độ như thế nào để khi kẻ địch trả lời thì sự chú ý của công chúng xoay sang chỗ khác rồi. Các trả lời liên tiếp của địch sẽ không thể đuổi kịp luồng kết tội ào ào tung ra, và nếu địch có thể làm nổi thì cách duy nhất để địch lấy lại chủ động là tấn công lại với một tốc độ còn nhanh hơn thế nữa.
Đôi khi các sự kiện làm cho chiến dịch bắt buộc phải có một hạn kỳ dài hơn nhiều. Vì lý do này, chiến dịch đòi xét lại vụ án Dreyfus [29] đã mở đầu một cách tuyệt diệu bằng bản văn của Zola, khai triển sau đó một cách tiết tấu, sử dụng tốt cả các phương tiện ảnh hưởng dư luận, làm rung động toàn xứ sở đến những chiều sâu thẳm chưa bao giờ có chiến dịch nào làm nổi. Đó quả thực là một loại cháy bùng trong đó các nhiệt tình chiếm ngay được một vị trí tạo ra một phong trào dư luận tự nhiên bộc phát hơn bất cứ một chiến dịch tuyên truyền hiện đại nào có thể làm được.
Các chiến dịch Quốc xã nói riêng, được điều động từ đầu đến cuối bằng một phương pháp tỉ mỉ. Tiếp tục truyền thống Bismarck [30] Goebbels đã đạt được điều mà vị Tể tướng sắt đá Bismarck trước kia đã phải thực hiện bằng cách sử dụng “quỹ của loài bò sát” nổi danh để mua chuộc: đó là sự nô dịch toàn diện của báo chí. Các phương tiện của điệp tấu liên kết chặt chẽ với nhau theo một phân phối viết sẵn trước. Chúng ta hãy lấy thí dụ là cách thế chuẩn bị tấn công Tiệp Khắc và Ba Lan của Quốc xã: thoạt tiên là báo chí vùng biên thùy bắt đầu cung cấp các “tin tức” về các vụ bạo hành thiểu số dân Đức [31] đã phải chịu rồi các bài tường thuật này được “đăng lại” bởi tất cả các báo chí khác, làm như là các tin tức tường thuật này xuất phát từ nhiều nguồn tin tức khác nhau - do đó thêm một bề ngoài đúng thật nữa. Đó là cái mưu kế của kẻ bán hàng hóa tồi đã dùng một đồng lõa giả làm khách hàng tán dương món hàng của mình.
Cái chiến lược vĩ đại về dư luận này cũng bao gồm nhiều “nhiệm vụ đặc biệt”. Trong tất cả các xứ, một số bình luận gia vô tuyên truyền thanh được nhiệm vụ ném ra những “trái bóng dò dư luận”. Cách thế phản ứng của dư luận quốc nội và quốc tế trước các trái bóng thăm dò ấy sẽ là một chỉ dẫn quý giá cho việc xoay hướng chính trị. “Trái bóng do dư luận” thường hay được dùng nhất trong loại tuyên truyền chiến tranh hay để chuẩn bị một sự thay đổi chính trị đối ngoại. Đôi khi đó là những “nhiệm vụ hy sinh”: nếu phản ứng của dư luận là bất lợi hay các hoàn cảnh thay đổi đột ngột, tờ báo có nhiệm vụ hay người tung tin ấy sẽ bị phủ nhận và bị kết tội là thiếu đứng đắn hay chính là những “tay xúi dục” phục vụ cho kẻ thù.
Tại nhiều nước, có những tờ báo có nhiệm vụ nói ra nước ngoài bằng những ngôn từ bình thản và mực thước hơn là những ngôn từ dùng trong quốc nội. Đó là trường hợp tờ Frankfurter Zeitung tại Đức. Goebbels đã đẩy xa việc phân công nhiệm vụ đến độ đôi khi cho sử dụng riêng biệt các nguồn tuyên truyền miệng. Bộ Tuyên truyền của ông ta đã làm những thí nghiệm, kết quả là một tin đồn ném ra ở Berlin hôm này, hai ngày sau đã lan tới miền Rhénanie [32] rồi năm ngày sau lại trở lại Berlin dưới một hình thức đã được sửa đổi. Thỉnh thoảng Goebbels đã dùng phương tiện ngoắt ngoéo này để cắt nghĩa những gì không thể cắt nghĩa một cách chính thức. Ông ta kể lại trong Nhật kỷ nỗi bối rối của mình về “hiểm họa da vàng” [33]: cái chủ đề cũ của tuyên truyền Đức xưa, hiện Quốc xã lấy lại, không thể mang ra bàn luận công khai mà không gây ra chia rẽ trong khối Trục. Goebbels kết luận: vậy phải “từ bỏ việc cắt nghĩa công khai và thử cho lan truyền trong dân ta những lý do đích thực của chúng ta bằng tuyên truyền truyền khẩu” Loại tuyên truyền này cũng có thể sử dụng để làm giảm bớt các xúc động quá nhanh: thí dụ Goebbels đã cẩn thận cho loan báo trước, một cách không chính thức, việc giảm khẩu phần ăn để tránh một xúc động mạnh, mà phản ứng sẽ có hại cho tuyên truyền hiện hành về việc gia tăng hiệu năng.
Đã xảy ra trường hợp một số chủ đề phải bỏ ngang bởi vì chúng bị chứng minh ngược lại bởi các sự kiện hay bởi tuyên truyền địch. Trong trường hợp này, nhà tuyên truyền không được nhận lỗi lầm của mình - một quy tắc hiển nhiên là nhà tuyên truyền không nói ngược lại mình. Điểm nào mình yếu thì mình im tiếng. Sự che giấu hay ngụy trá các tin tức lợi cho địch đã trở thành một phương sách hoàn toàn phổ biến. W. Hagemann đã thống kê (50.000) năm chục ngàn chỉ thị của Goebbels gửi cho báo chí, đã nhận thấy rằng một phần tư số đó là các chỉ thị bắt giữ im lặng. Nhưng sự im lặng thường đi kèm với các cuộc tấn công đánh lạc hướng địch. Cũng tác giả trên thuật lại rằng vào năm 1935, khi các vụ truy diệt Do Thái làm dư luận thế giới tức giận, Goebbels cho phát động trong báo chí Đức một chiến dịch chống lại việc người Anh đàn áp các tín đồ Ki-tô Ái Nhĩ Lan. Đánh lạc hướng địch là một chiến thuật ưa dùng của tuyên truyền chiến tranh nhưng nó cũng được những nhà tuyên truyền thường sử dụng mỗi khi ở thế kẹt, và Goebbels, nói cho thật, là bậc thầy trong chiến thuật này. Nhà viết tiểu sử Goebbels là ông Curt Riess (Joseph Goebbels eine Biographie, édit. Kuropa, Zurich) đã chú trọng rất đúng một sự kiện đánh dấu thời khởi nghiệp của Goebbels. Vừa là nghị sĩ vừa là ký giả, Goebbels đã lợi dụng đặc quyền bất khả xâm phạm của nghị sĩ để tấn công dữ dội các địch thủ. Sau khi bị mất đặc quyền ấy, Goebbels bị đưa ra tòa về tội phỉ báng mạ lị. Không thể chối cãi các sự kiện được nên Goebbels đã quyết định phản công: Goebbels đã lao vào một cuộc đả kích dữ dội, chửi rủa cả quan tòa lẫn biện lý. Sửng sốt, tòa ản phạt Goebbels 200 marks về tội xúc phạm tòa án và quên phần căn bản của vụ xử án.
Điều kiện căn bản của một điệp tấu tốt là, trong mọi trường hợp, đều phải làm thích ứng giọng điệu và luận cứ của mình với các công chúng khác nhau. Điều này dĩ nhiên là phải thế rồi, nhưng dù thế, các nhà tuyên truyền trí thức thường thường khó nói được ngôn ngữ thích hợp với các đám đông thợ thuyền hay nông dân. Đây cũng là chỗ Hitler đã tỏ ra là bậc thầy trong nghệ thuật thay đổi cách tác động: trước các bạn đồng đội cũ, Hitler gợi lại sự anh dũng của các cuộc chiến đấu đã qua. Trước nông dân, Hitler nói tới hạnh phúc gia đình, trước phụ nữ, nói tới bổn phận của các bà mẹ Đức, v.v... Napoléon, kẻ ta có thể coi như một trong những người mở lối cho tuyên truyền hiện đại, đặc biệt qua tài nghệ biết ăn nói gẫy gọn và tạo khẩuhiệu, đã biết cách nói bóng những ngôn từ thích hợp với các quân sĩ, các ông hàn lâm, với các người Hồi giáo ở Ai Cập... Điều đáng chú ý là Quốc xã đã thử dùng cả phương sách ấy đối với các tôn giáo dị biệt mà họ muốn lôi kéo, nhưng thành công không đáng kể. Sự “bảo vệ nền văn minh Kitô giáo” chưa bao giờ dụ nổi tới mức độ quan trọng các giáo hội Kitô và Tin Lành. Đồng thời Goebbels cũng nhằm các tín đồ Hồi giáo; ta còn nhớ cách tuyên truyền Đức đã sử dụng vị Giáo sĩ Pháp Quan Hồi giáo ở Jérusalem: các đại đội tuyên truyền của quân lực Đức đã nhận được tiêu lệnh đặc biệt là đưa cho dân Tatars ở Nga sô coi bức hình vị Đại Giáo sĩ trên đang đàm thoại với Fuhrer.
4. Quy tắc truyền tiếp
Các nhà tuyên truyền thực sự không bao giờ tin ta có thể tuyên truyền từ khoảng trống không và bắt nổi các quần chúng chấp nhận bất cứ ý tưởng gì vào bất cứ lúc nào. Thường thường, bao giờ tuyên truyền cũng hoạt động trên một nền tảng có sẵn từ trước, có thể là một huyền thoại quốc gia (cuộc cách mạng Pháp, các huyền thoại dân tộc Đức...), có thể chỉ là một tập hợp các căm thù hay thành kiến truyền thống: chủ nghĩa quốc gia cực đoan, các “thân” này hoặc “chống” kia khác nhau. Một nguyên tắc mà diễn giả nào đứng trước công chúng cũng biết là không nên nói đốp chát ngược lại một đám đông, mà trước hết phải tuyên bố đồng ý với đám đông, đặt mình vào trong khuynh hướng của đám đông đã rồi mới tìm cách đưa dần đám đông về chiều hướng mình muốn. Đại ký giả Hoa Kỳ Walter Lippmann đã viết trong Public Opinion rằng: “Nhà lãnh tụ chính trị kêu gọi trước hết đến tình tự đang ưu thắng trong đám đông (...). Điều quan hệ là dùng lời nói và các liên kết tình cảm để làm liên hệ chương trình mình đề nghị với thái độ nguyên thủy đã biểu lộ trong quần chúng”. Chúng ta sẽ tìm thấy dễ dàng phương pháp này ở các diễn giả nổi danh thời cổ là Démosthène và Cicéron. Các chuyên viên về tuyên truyền hiện đại chỉ làm mở rộng một cách cách có hệ thống phương pháp để ứng dựng vào các quần chúng lớn lao, một cách thế sử dụng mà quảng cáo đã làm hoàn thiện rồi. Việc tìm kiếm và khai thác các ý thích của quần chúng để có thể thích ứng cách quảng cáo cùng sản phẩm của mình là mối lo chính của các chuyên viên quảng cáo, ngay trong cả trường hợp các ý thích đó mờ đục nhất, phi lý nhất. Điều chính yếu là chấp nhận đại đi là bao giờ khách hàng bao giờ cũng có lý, thí dụ như tuyên bố là thứ thuốc đánh răng này làm trắng răng hay thứ dầu kia “béo” hơn dầu nọ, trong khi các đặc tính ấy không hề là phẩm chất thực sự của một thứ dầu hay một thứ thuốc đánh răng.
Như vậy, trong tâm tính các dân tộc có các tình tự ý thức hoặc vô thức mà tuyên truyền phải bắt nổi cùng khai thác. Chúng ta đã có dịp xét xem Hitler đã làm thế nào để đồng thời sử dụng được tất cả các huyền thoại cổ xưa của Đức cùng các nỗi căm hờn phát xuất từ thất trận. Tính bài Đức của Pháp đã được các đảng hữu phái, kháng chiến Pháp rồi đảng Cộng sản kế tiếp nhau khai thác từ ba mươi năm nay. Trong Đệ nhị Thế chiến Quốc xã đã khích động một cách có hệ thống tất cả các mối đối nghịch cũ của các quốc gia, đôi khi thành công (dân Croates chống dân Serbes), đôi khi thất bại như họ nhắm vào một đặc tính không còn mạnh mẽ (tự trị của miền Breton, Pháp), ở Pháp họ còn thử đánh thức dậy ngay cả truyền thống chống Anh của Jeanne d’Arc và Napoléon.
Ta sẽ lầm lẫn nếu coi tuyên truyền như một dụng cụ tối mạnh để hướng dẫn quần chúng về bất cứ chiều nào cũng được. Dù là cách “nhồi sọ” chăng nữa. cũng phải theo một hướng xác định rõ rệt. Các ký giả hiểu nhu thế lắm, nênhọ chỉ mang lại cho độc giả những tin tức đã lọc lựa và tiêu hóa sẵn để các tin này trấn an độc giả và làm độc giả tin chắc hơn nữa vào những tin tưởng riêng của mình. Tất cả nghệ thuật của các “báo chí dư luận” là qua sự chọn lựa và trình bày tin tức, đề nghị với độc giả các luận cứ yểm trợ cho các thành kiến của họ, và thứ tình cảm phấn chấn này biểu lộ qua những câu như: “Tôi đã đoan chắc thế mà”, “Tôi đã nói trước thế mà”. “Tôi đã đánh cuộc thế rồi”, v.v...
Tuyên truyền luôn luôn đóng vai trò bà mụ, dù ngay cả khi bà mụ đỡ ra đời những con quỷ. Pol Quentin trong cuốn sách viết về tuyên truyền chính trị đã diễn tả rất rõ cái nhu cầu phải đi theo chiều hướng các dư luận đã có sẵn, các thành kiến đôi khi rất trẻ con, cùng các khuôn mẫu cổ truyền: không có một năng lực nào dù ở thể tiềm ẩn chăng nữa lại mất đi vào một địa hạt trong đó cái lợi về thời gian là tối quan trọng. Thí dụ như trường phái tâm lý học Hoa Kỳ nhận thấy rằng các thành kiến về các chủng tộc đã hình thành vững chải ở cá nhân ngay từ tuổi lên năm. Một chiến dịch chính trị đặt vấn đề nhanh chóng trên hết, sẽ tìm cách ràng buộc qua một vài điểm nào đó các chương trình mới mẻ của mình với nguồn năng lực tinh thần chứa trong khuôn đúc có sẵn từ trước ấy. Như vậy, chiến dịch chính trị sẽ thừa hưởng cả một “truyền tiếp” tin tưởng thực sự, tương tự như việc một bác sĩ nổi tiếng nhượng lại thân chủ cho cho một bác sĩ trẻ hơn.
Như vậy khỏi cần nhấn mạnh nhiều là sự phẫn hờn hoặc đe dọa phải được loại ra ngoài ngôn ngữ tuyên truyền một khi tuyên truyền muốn thuyết phục cùng lôi cuốn. Câu “Hỡi dân Pháp các người có trí nhớ kém đấy” đã để lại một kỷ niệm xấu, và khẩu hiệu về vấn đề vay mượn ngoại quốc của phe Giải phóng vào tháng 10-1944: “có nhiều biện pháp cấp tiến hơn là đi vay mượn” là một tuyên truyền rất dở.
5. Quy tắc đồng nhất và lan truyền
Từ khi có một khoa xã hội học, ta đã đưa ra ánh sáng áp lực của nhóm đối với dư luận cá nhân cùng rất nhiều thứ óc thủ cựu phát sinh từ các xã hội. Những nhận xét này đã được các nhà tâm lý học hiện đại và đặc biệt là các chuyên gia Hoa Kỳ về dư luận công chúng xác định là đúng. Tất cả những ai làm công việc “thăm dò dư luận” đều đã biết rằng một cá nhân có thể rất thành thật chủ trương hai ý kiến rất khác nhau và đôi khi còn trái ngược nhau nữa về cùng một vấn đề, tùy theo kẻ ấy phát biểu ý kiến với tư cách cá nhân hay với tư cách một thành phần của một nhóm xã hội (Giáo hội, đảng phái vân vân). Dĩ nhiên các ý kiến đối nghịch này chỉ có được trong tâm trí kẻ đó qua áp lực của nhiều nhóm xã hội khác nhau trong đó kẻ ấy là một thành phần. Đa số con người đều trước hết thích “hòa điệu” với các đồng loại đã: ít khi họ dám quấy phá hòa điệu đang ngự trị quanh họ bằng cách phát biểu một ý kiến trái ngược với ý kiến chung. Do đó một số lớn dư luận công chúng thực ra chỉ là một tổng cộng các đầu óc thủ cựu và chỉ duy trì được nhờ cái cảm tưởng của chủ thể cho rằng ý kiến hắn phát biểu chính là ý kiến chung, được tất cả chung quanh đồng nhất phát biểu như thế. Như vậy nhà tuyên truyền sẽ có nhiệm vụ tăng cường cho sự đồng nhất ấy và nếu cần thì tạo ra đồng nhất đó một cách giả tạo.
Gallup kể lại một câu truyện minh chứng rõ sự khéo léo sơ đẳng trên: truyện hai người thợ may ở Luân Đôn trước kia đã đệ một thỉnh nguyện lên Đức Vua bằng câu sau: “Chúng tôi, nhân dân Anh quốc”. Tất cả các tuyên ngôn, công bố đều bắt đầu bằng một khẳng định về tính cách đồng nhất như thế: “Phụ nữ Pháp đòi hỏi rằng”... “nhân dân Paris, họp tại trường đua xe đạp mùa đông...”. Thật khôi hài khi thấy có lần hai đảng đối lập nhau đều triệu hội “nhân dân Paris” cách nhau có vài ngày tại cùng một khách sảnh, hay cùng ngỏ lời với chính quyền nhân danh “sự đồng nhất của toàn thể nhân dân”. Cũng chính nỗi lo âu này đã đưa các đảng phái đến chỗ thổi phồng số biểu tình viên lên tới những tỉ lệ khó tin nổi hay vô lý. Vấn đề là bao giờ cũng phải tạo ra thứ tình tự tràn đầy nhiệt thành và sợ hãi tản mạn đưa đẩy cá nhân đến chỗ chấp nhận cùng những ý niệm chính trị mà hầu như toàn thể mọi người chung quanh hắn đều đã chia xẻ, nhất là trong trường hợp các người này đã phát biểu các ý niệm chính trị ấy bằng một cách phô bầy không thiếu đe dọa. Tạo ra cảm tưởng đồng nhất và sử dụng thứ cảm tưởng này như một phương tiện vừa gây nhiệt thành, vừa tạo đe dọa, đó là cách thức vận động căn bản của các nền tuyên truyền độc tài, như chúng ta có dịp thoáng thấy khi bàn về đề tài cách sử dụng các biểu tượng và định luật kẻ dịch duy nhất.
Công cuộc nghiên cứu các xã hội loài ong đã đưa Espinas đến chỗ tìm ra định luật “lan truyền tâm linh”, Theo ông, chính cảnh con ong lính canh nổi giận đã làm cả tổ nhao lên nổi giận. Trotter xác nhận rằng con vật thuộc về một bầy thì dễ cảm xúc với các phản ứng của những con khác hơn là với các kích thích từ bên ngoài tới. Định luật liên cảm tức khắc, sự lôi cuốn hợp quần ấy ta thấy có trong cổxã hội loài người, và biểu lộ đặc biệt rõ trong các xã hội của trẻ thơ. Một số phương sách của tuyên truyền có vẻ phù hợp với định luật lan truyền này. Để lôi kéo sự chấp nhận, để tạo ra cảm tưởng đồng nhất, các đảng phái thường hay dùng tới các cuộc biểu tình, các cuộc diễu hành của quần chúng. Ta thường ghi nhận đặc biệt về các cuộc biểu tình của Hitler là rất khó mà một khán giả lãnh đạm hay ác cảm có thể tránh khỏi bị lôi cuốn theo dù muốn hay không. Chỉ một cuộc diễu hành của một trung đoàn có nhạc đi đầu là đã đủ hấp dẫn các anh chàng đi chơi tếu rồi. Một nhóm người có kỷ luật mặc đồng phục, đi đều bước, dáng điệu cương nghị bao giờ cũng là một tác động mạnh đối với đám đông. Tchakhotine thuật lại rằng trong những ngày đầu cách mạng tại Léningrad, khi một cơn sợ hãi xâm nhập đám đông thì sự diễu hành của chỉ một trung đội mang mặt nạ phòng hơi ngạt đã vãn hồi được trật tự bằng một tác động “hòa giải cấm chỉ” gần như ngay tức khắc.
Nói cho thật, muốn lôi cuốn được sự đồng tình, không gì thay thế được con người, sự phát huy của bậc tông đồ, lòng tin tưởng của tân tín đồ, uy tín của bậc anh hùng. Gabriele d’Annunzio [34] đã thực hiện một sự pha trộn lãng mạn đảo chính với tuyên truyền theo một cách thế anh hùng. Thấp kém và thông thường hơn, chính là nhờ các các cán bộ đảng, các người có tin tưởng và lòng hy sinh mà các tân đảng viên có được lòng tin. Chính ra nhờ rất nhiều ở “sự lan truyền của gương mẫu”, ở sự tiếp xúc và lôi cuốn cá nhân, các tin tưởng lớn về chính trị mới tiến triển được cũng như là Thiên Chúa giáo đã tiến triển - dĩ nhiên là chẳng ăn sâu được như là Thiên Chúa giáo thôi. Quần chúng hiện đại, chản nản và nghi ngờ chính mình dễ bị lôi cuốn ngay bởi những kẻ hình như có bí quyết về một hạnh phúc lọt khỏi tay họ. Cũng như quần chúng hiện đại dễ bị lôi cuốn ngay bởi “những người mẫu” những người sáng suốt khác thường, những người nắm giữ tương lai. Và khi người gương mẫu có tính cách tập thể, sự phát huy của nó càng gia tăng. Giáo hội Ki-tô luôn luôn đưa ra song hành các linh mục và các tu viện; các tôn giáo chính trị của thế giới hiện đại cũng đã tạo ra các giòng tu và các tu viện cho mình: các nhóm ưu tú, các trường đào tạo cán bộ, các trung tâm thanh niên v.v....Chẳng có một tác nhân tuyên truyền nào tốt hơn là một cộng đồng con người sống theo cùng một số nguyên tắc trong một không khí huynh đệ. Các hình ảnh về thân hữu, sức khỏe vui sống đều là một mẫu số chung cho tất cả các loại tuyên truyền. Trẻ con nắm tay nhảy vòng tròn, các thanh niên tại thao trường, những người gặt lúa ca hát. Các mẫu hình của phim ảnh tuyên truyền của tất cả các nước đều sử dụng tới ước vọng có hạnh phúc và tự do, nhu cầu thoát ly của người thị dân bị trói buộc bởi bàn giấy hay máy móc, thiếu thốn tiếp xúc nhân loại đích thật. Chúng ta do kinh nghiệm mà buồn bã biết được cái thực tại nghèo khốn và lo âu nào có thể che giấu dưới những hình ảnh tươi sáng kia.
Tuyên truyền có tất cả mọi phương sách tạo ra ảo tưởng về sự đồng nhất. Curt Riess kể lại làm thí dụ cách Goebbels trước khi nắm chính quyền đã làm để thành công trong việc lật ngược một tình thế đã lâm nguy: vào tháng 11 năm 1932 Quốc xã đang thất thế: họ đã mất hai triệu phiếu và 34 ghế tại Quốc hội. Khi đó, Goebbels quyết định đánh ra một đòn lớn. Ông ta cho tập trung tất cả tuyên truyền của đảng vào các cuộc bầu cử cục bộ tại Lippe - Detmold, một quận có 150.000 dân. Các tay “cao thủ” của đảng kế tiếp nhau tới đó và toàn quận được vận động tỉ mỉ. Hành động này thành công và đảng Quốc xã đắc thắng tại Lippe - Detmold. Dư luận có cảm tưởng là trào lưu đã đảo ngược và cả một cơn thủy triều Hitler đã phát xuất. Chủ ngân hàng và công kỹ nghệ gia bắt đầu tài trợ lại cho Quốc xã, và ngày 30 tháng giêng, Hindenburg [37] cho triệu hồi Hitler tới phủ Thủ tướng. Ta thấy sự quan trọng của cái mà người ta gọi rất đúng là các “cuộc bầu cử hoa tiêu”. Nhà phát xít Bỉ Léon Degrelle đã muốn tái diễn kiểu hành quân trên của Quốc xã Đức trong cuộc bầu cử nổi danh lại Bruxelles năm 1937. Nhưng các đối thủ cảm thấy mối nguy, đã chống lại Degrelle bằng cách đưa ra một ứng cử viên uy danh nhất mà họ có thể tìm thấy là Van Zeeland. Ông này cố tình từ chức vụ đã có để lao vào trận đấu và cũng tập trung tất cả nỗ lực tuyên truyền vào Bruxelles. Chủ nghĩa “rexisme” đã phải chịu một thất bại, từ đó không quật khởi lên được.
Các nhà văn, nhà thông thái, các nghệ sĩ, thể thao gia nổi danh đều cũng có vai trò “nhân vật hoa tiêu”. Công chúng ngưỡng mộ họ, đôi khi một cách mù quáng, nên sẵn sàng để ý kiến chính trị của họ ảnh hưởng, dù nhiều khi chẳng biết đây lại là một vấn đề khác. Đây là một sự du di thật sự lòng tin và ngưỡng mộ mà giới quảng cáo đã nêu gương bằng cách dùng một ngôi sao màn bạc này hay một ca sĩ thời danh kia khuyến cáo nên dùng thử xà-bông này hay loại mũ mềm nọ. Sự chấp nhận của các nhà trí thức là một trong những cách tuyên truyền ưa dùng để bảo đảm giả trị cho mình. Sự chấp nhận của giới trí thức lôi cuốn theo cảm tình của các đám đông lớn hơn người ta thường tưởng, nhất là tại những xứ như nước Pháp, nơi uy tín của giới tinh hoa văn hóa vẫn còn rất mãnh liệt. Ta biết là các đảng phái đôi khi đã đi tìm các chứng nhân trong địa hạt này đến tận trong lịch sử: “Garibaldi chắc hẳn sẽ bỏ phiếu”, “Pasteur chắc sẽ bỏ phiếu thuận” vân vân.
Dĩ nhiên phương tiện tạo lan truyền phổ biến nhất là các cuộc biểu tình quần chúng các cuộc mít tinh hay diễu hành. Ta phân biệt dễ dàng ở đây những yếu tố nhằm mang lại cho đám đông một cá thể duy nhất.
- Cờ xí, băng vải tạo ra một khung cảnh nghiêm trọng, càng kích thích nếu màu ưu thế thường là màu đỏ, màu có tác động sinh lý đã nhiều lần được nhấn mạnh.
- Các biểu hiệu và huy hiệu được tái tạo lên các bức tường, cờ hiệu, trên băng tay và ve áo của các ủng hộ viên. Biểu hiệu và phù hiệu vừa tạo ra một hậu quả sinh lý tức khắc là sự mê hoặc vừa tạo ra một hậu quả hoàn toàn có tính cách tôn giáo. Lý do là vì các biểu lượng này chứa một ý nghĩa sâu xa như thể chúng có quyền lực riêng để quy tụ những quần chúng như thể trong một thứ nghi lễ thờ phụng.
- Các chữ ghi chú và các câu phương châm cô đọng các chủ đề của đảng thành các khẩu hiệu sẽ được các bài diễn văn cùng các la hét của cử tọa nhắc đi nhắc lại.
- Các đồng phục của các đảng viên, đoàn viên bổ túc đầy đủ cho khung cảnh và nhất là đã tạo ra một không khí anh hùng.
- Âm nhạc góp phần mạnh mẽ vào quần chúng và tạo ra một ý thức chung. Ph. de Felice đã phân tích rất hay tác động bí mật của âm nhạc đối với một đám đông: “Năng lực ám thị của âm nhạc tác động vào đời sống tâm linh tiềm ẩn, nghĩa là trên toàn thể các bản năng cùng các khuynh hướng chung cho tất cả mọi người. Bởi thế, âm nhạc thích hợp đặc biệt trong việc tạo ra giữa các con người những trạng thái tập thể trong đó các khuynh hướng đồng nhất tiềm tàng của họ trộn lẫn hòa tan với nhau, vượt qua các dị biệt cá nhân”. Cũng vẫn theo tác giả trên, âm nhạc chơi bằng nhạc khi trong đó các nhạc khí kích tiết - như trống, chẳng hạn, giữ phần ưu thế, cùng nhịp mạnh rõ còn làm tăng thêm tác động gây hăng hái và liên đới của âm nhạc. Tất cả mọi người đều đã nghe nói tới sự phát khởi hoàn toàn tự động của cơn cuồng loạn thần bí bằng việc kéo dài một nhịp điệu đều đều những tiếng hát và tiếng trống nhỏ của một số tôn giáo sơ khai. Ngay những cá thể tiến hóa hơn cũng khó mà thoát khỏi một số nhạc khúc. Cái cảm xúc, cảm thông này đạt tới cực điểm trong bài hùng ca, bài hát biểu tượng của đảng hay quốc gia, mà mỗi nốt nhạc đều có thể nói là nghe ngay trực tiếp từ ngực và được các người tham dự đồng ca lại với một vẻ nghiêm trọng có tính cách tôn giáo. Ca tập thể là một phương tiện chắc chắn nhất để hòa đám đông thành một khối duy nhất cùng mang lại cho đám đông tình tự mình là như một mà thôi. Các kèn trống, các bài hùng ca, tiếng hát, tiếng ca theo nhịp điệu, tất cả các “chất độc âm thanh” này đều là các thành phần chính yếu của cơn cuồng loạn tập thể.
- Nếu là đêm tối, đèn rọi và đuốc làm gia tăng sự mê hoặc và góp phần vào việc tạo ra một không khí tôn giáo trong đó các huyền thoại lặp lờ lẩn khuất. Trong bản nghiên cứu sâu xa nhan đề phân tâm học về lửa, Gaston Bachelard đã chứng tỏ rằng lửa thúc đẩy con người đến nhiều mơ mộng sâu xa và dị biệt. Lửa tạo ra một tác động vừa khích động vừa đáng sợ, hoàn toàn nằm trong đường lối tuyên truyền Hitler đã sử dụng qua các cuộc biểu tình ban đêm.
- Sau hết là chào kính, các vụ đứng dậy, ngồi xuống, sự đối thoại với cử tọa, các lời hoan hô, các phút im lặng, đã tạo ra thứ thể dục cách mạng mà Tchakhotine khuyến cáo các kẻ điều động đám đông nên tạo ra. Ph. De Felice xếp các phương sách này vào trong ngoặc cùng với các phương sách các bậc tiên tri Đông phương đã sử dụng: “các tác động tâm lý và sinh lý của một sự múa chân múa tay đến mức điên cuồng như thể có thể so được với một vụ đầu độc”. Các xáo trộn cơ năng do cách thế trên tạo ra trong cơ thể sự chóng mặt và sau cùng là một tình trạng vô thức hoàn hảo có thể đưa tới những điều điên rồ nhất. Đôi khi thứ khích động loại này đã xảy tới cho các hội nghị chính trị, tạo ra tại đó các quang cảnh hỗn độn ồn ào làm nhớ tới các quang cảnh các đoàn giáo sĩ Hồi giáo la hét hành lễ.
Giữa nhà “dẫn đạo” và đám đông có hình thành một tương quan Gustave Le Bon cho là có tính chất “thôi miên” và Ph. de Félice coi như là một sự chiếm hữu thực sự. Chắc là vĩ nhân, ít ra về phương diện chính trị, đã bị giảm giá trị rất nhiều: đối với người đám đông ngưỡng mộ, đám đông ít tìm nơi người ấy những đức tính làm phân biệt với đám đông, mà chú trọng tới cái gì thâu tóm được các ước vọng cùng mộng mơ của họ được diễn dạt và đáp ứng: như một tiếng vang của những gì chính đám đỏng đã đề ra và chờ đợi vĩ nhân mang lại. Nhà dẫn đạo đám đông, kẻ hướng dẫn các quần chúng có những đặc điểm Victor Hugo đã dùng để định nghĩa cho nhà tiên tri - chỉ đáng tiếc là họ không phải lúc nào cũng chỉ về các ngôi sao thôi. Sự tiếp xúc, luồng cảm thông hỗ tương giữa kẻ dẫn đạo và quần chúng do họ tượng trưng là một điều có thực, dù rằng tất cả các dạng cụ của chúng ta đều không đo lường được. Chẳng cần đưa thí dụ nào khác hơn cái thí dụ hãy còn làm thế giới bị thương tổn: sự kết hợp ghê tởm giữa Hitler và đám đông của Đức.
Hoạt động của nhà dẫn đạo đám đông được nhân lên gấp bội bằng một đoàn đảng viên hay ủng hộ viên có tổ chức. Néron [36] đã từng tạo ra các toán chuyên viên về việc phát động các vụ vỗ tay hò hét hoan hô. Các “toán hoan hô” được tổ chức sẵn hay tự phát xuất hiện, đều thấy có trong tất cả các cuộc biểu tình của quần chúng; được phân phối đúng chỗ, các toán này kích động và đun nóng dần đám đông. Trong mỗi cuộc diễu hành đều thấy có sự phân biệt giữa những “kẻ dẫn đạo” và những “kẻ bị dẫn đạo”, giữa những người “tích cực” và “thụ động” như Tchakhotine đã nói. Tchakhotine nghĩ rằng có thể lập được giữa hai loại người trên một tỷ lệ hầu như không thay đổi (những người “tích cực” chiếm chừng 8% tổng số dân). Như vậy tất cả nhiệm vụ của tuyên truyền, trong các giai đoạn cực điểm là các cuộc biểu tình hay trong các công việc thường nhật, là nhiệm vụ chinh phục các “kẻ thụ động”, động viên họ, dẫn dắt họ dần dần đi theo những kẻ tích cực.
Kẻ nào đã từng tham dự một cuộc biểu tình của quần chúng, diễu hành hay mít-tinh, đều có thể nhận ra các phương pháp chúng tôi vừa phân tích, những phương pháp này đã được sử dụng một cách cố tình nhiều hay ít, với cường độ mạnh hay yếu. Khi cả một rừng cờ xí dẫn đầu một khối đám đông dầy đặc dàn ngang kín đại lộ mà tiến, thì rất ít kẻ đứng coi nào không cảm thấy một cái gì rung động trong thâm tâm. Vào lúc ấy, các kẻ đối nghịch thường lánh xa để thoát khỏi các sự mê hoặc. Tổ chức các cuộc biểu tình như vậy đòi hỏi một chú tâm đặc biệt bởi vì nhịp độ và thời gian của biểu tình là chính yếu cho việc tạo ra “sự cuồng loạn” của đám đông. Quốc xã thường hay dùng các phương sách loại sinh lý để đưa đến giới hạn cực điểm. Khi có một cuộc biểu tình lớn tại thao trường Nuremberg chẳng hạn, cuộc biểu tình này bắt đầu từ buổi sáng bằng các tham dự viên đầu tiên tới, rồi từ 12g30, các phải đoàn kế tiếp nhau tới vị trí sau các hàng cờ xí và ban nhạc và mỗi lần như vậy lại là dịp có cớ để chào kính và hoan hô, vào 19 giờ các chức sắc đầu tiên của đảng tới: lại khoa chân múa tay, kế đó là bắt đầu một thời gian mặc niệm trong đó sự chờ đợi mỗi lúc một trở thành trang nghiêm và day dứt hơn. Rồi Goebbels và Goering tới và sau cùng là chính Hitler, được chào đón bằng một vụ hoan hô vĩ đại. Và nhà Fuhrer tới máy vi âm trong những phút đầu, có vẻ như thử giọng, tìm kiếm sự tiếp nối có tính cách tình tự sôi nổi với đám đông không còn có thể chờ đợi ông lâu hơn từ nhiều giờ rồi.
Một mặt khác, ta sẽ lầm lẫn khi tưởng rằng sự cuồng loạn của đám đông chỉ là một trạng thái đơn giản duy trì bằng một kích thích tăng dần. Đó thực ra chính yếu là một trạng thái có nhịp điệu, bao gồm nhiều thời kỳ căng thẳng xem kẽ bằng những buông thả đột ngột. Việc dàn cảnh một cuộc diễu hành hay một cuộc mít-tinh phải để ý tới nhip điệu này. Và các diễn giả cần phải để ý việc ngắt quãng bài diễn văn bằng những câu khôi hài, châm biếm làm căn phòng thở ra thoải mái đột ngột và làm mọi người cười; cách hay nhất để gắn chặt một đám đông vào nhau là mang lại cho đám đông một thứ tình tự đồng lõa tinh nghịch vui vẻ.
Có những phương tiện tổ chức và cầm nhịp một cuộc biểu tình ít thô sơ hơn là các phương tiện Quốc xã đã dùng. Trong cuốn sách của mình, Tchakhotine cho ta một bản báo cáo của một cấp chỉ huy Mặt trận Airan có nhiệm vụ đánh bại Hitler trong các cuộc tranh cử năm 1932 bằng một cuộc phản tuyên truyền tổ chức mạnh mẽ. Vì thế tại Hesse, một cuộc diễu hành mẫu đã được tổ chức theo một kỹ thuật có tính cách vừa tâm lý vừa thẩm mỹ, miêu tả như sau:
“Một cuộc diễu hành phải được trình diễn theo một cách thế như một cuốn sách gồm nhiều trang có hình, kết hợp theo một cách thế hợp lý như thế nào để tạo ra một tác động tăng dần để có thể lôi cuốn một cách vô thức những khán giả vào một luồng ý kiến đã định trước và gây ấn tượng nơi họ bằng một sự đồng ý sau cùng: hãy bỏ phiếu cho chúng tôi. ‘Cuốn sách’ được chia làm nhiều ‘chương’, mỗi chương lại chia làm nhiều nhóm biểu tượng kế tiếp nhau bằng những khoảng đã định sẵn, cấu tạo bởi các đoàn thể của ‘lá cờ của Reich’ bởi các đoàn thể của các nghiệp đoàn, các thể thao gia của chúng ta.... Thế là hợp lý và như vậy, sau mỗi nhóm, người khản giả có thể lấy lại hơi thở để có thể dễ bị gây ấn tượng bởi nhóm kế tiếp. Bốn ‘chương’ đặc điểm là: a) Nỗi buồn về th