← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 7 Huyền thoại, dối trá và sự kiện-

thế uyên dịch và chú giải

CHƯƠNG 7

huyền thoại, dối trá và sự kiện

uyên truyền chính trị kiểu hiện đại không phải chỉ đơn giản là sự sử dụng một cách đồi trụy các kỹ thuật phổ biến truyền bá trong các quần chúng. Loại tuyên truyền này đã có trước hầu hết các kỹ thuật nói trên: sự xuất hiện của nó trùng hợp với sự xuất hiện của các huyền thoại lớn lôi cuốn cả một dân tộc và gắn liền dân tộc đó với nhau trong một viễn kiến chung. Trước tiên là sự phát sinh huyền thoại cách mạng vào cuối thế kỷ 18 lại Pháp, rồi vào giữa thế kỷ 19 có sự kết tinh chậm hơn nhưng không kém sôi động của huyền thoại xã hội và vô sản. Huyền thoại thứ nhất, sau khi nổ tung như một loạt hỏa pháo nổ chậm trong nhiều xứ Âu châu, đã mất dần tính nhiễm độc cho tới cuối thế kỷ 19, nhưng còn làm sống Đệ tam Cộng hòa trong thời kỳ đầu. Trước khi tiến sang tình trạng chiếm ngưỡng lịch sử, nó còn biết một thời kỳ tái sinh tuổi trẻ với vụ Dreyfus. Còn về huyền thoại thứ hai, sau khi làm khơi dậy nhiều trận nội chiến lớn, vụ tháng sáu 1848. vụ công xã, cùng hằng hà sa số đình công, đã được chủ nghĩa Mác rồi chủ nghĩa Lénine nắm lấy và hiện nay nó đang làm chuyển động nhiều quần chúng vĩ đại ở Viễn Đông.

Sức mạnh mà hai huyền thoại cách mạng lớn trên đã có khi tràn lan trên thế giới đã là bài học cho các tư tưởng gia chính trị các kẻ này đã hiểu rằng các biểu tượng sinh động có nội dung vừa ý thức hệ vừa tình tự một khi tác động trực tiếp vào tâm hồn các đám đông, đã có thể là một trợ lực ra sao. Kẻ thứ nhất, Georges Sorel, đã hoàn toàn nhận rõ sự lạt lẽo đã đe dọa một nền dân chủ xã hội đã trở thành chuộng danh từ trống rỗng cùng thành chế độ đại nghị. Ông đã đề nghị phương sách cứu chữa bằng cách dùng tới các huyền thoại dữ dội, có thể lôi cuốn thực sự lao động vào Cách mạng: “Khi nào chủ nghĩa xã hội còn là một chủ thuyết hoàn toàn trình bày bằng lời nói, ta rất dễ làm cho nó đi lệch vào một chỗ ở giữa, nhưng biến thái này rõ rệt là không thể có được khi ta đã đưa vào nó huyền thoại tổng đình công bao hàm một cách mạng tuyệt đối”. Chính những suy tưởng này của Sorel được Mussolini khai thác theo một chiều hướng khác hẳn, đã đưa được kẻ sau này tới việc xây dựng chủ nghĩa phát-xít căn cứ trên các huyền thoại quốc gia trong quá khứ (sự vĩ đại của cổ La Mã) cùng trên các huyền thoại chinh phục của tương lai (đề cao khích động sức mạnh và chiến tranh, chỉ hướng đí quốc của nước Ý v.v...). Việc tái sinh các huyền thoại quá khứ và tạo lập các huyền thoại tương lai kể từ giờ là đặc điểm của các nhà tuyên truyền phát xít, dù là của Hitler Mussolini hay Franco [1]. Nhưng trong khi tại Ý hay Tây Ban Nha. các huyền thoại chế tạo như thế chỉ là các luận cứ cho thuật hùng biện, thì ở Đức, chúng lại gặp tiếng dội sâu xa từ các đám đông.

Trong tiền bán thế kỷ 20 ấy, ta nhận thấy khắp Âu châu có một phản ứng chống lại sự lạm dụng tư tưởng thuần lý và tự do của thế kỷ 18 của Pháp. Nói thực ra, một tư tưởng như thế chỉ là vật đặc hữu của giới tinh hoa ưu tú thôi. Các quần chúng vào cuộc nhưng không nhận thấy mình đâu trong cái xã hội tự do, không có khung cảnh tự nhiên và giá trị chung do giới tư sản tư bản mang lại ấy. Và họ cũng chẳng thấy mình đâu trong cơ cấu điều hành buồn tẻ và phức tạp của chế độ đại nghị. Sự buồn chán chẳng phải là cái chìa khóa kiểu Stendhal [2] của một tâm lý cá nhân, mà chính là một tác nhân quyết định của tâm lý tập thể hiện đại. Các quần chúng đang buồn chán. Trong nước Pháp của thế kỷ 19, điều này là hiển nhiên kể từ khi Napoléon mất ngôi, Napoléon thứ hai đã nhằm vào điểm đó và đã được. Nhưng giấc mơ vinh quang còn có thêm vào giấc mơ hạnh phúc của các quần chúng đau khổ, cùng giấc mơ cộng đồng của các quần chúng bị phóng thể. Vì thế, chủ nghĩa xâ hội đã tới như là một “lý tưởng”. như một “nhiệm mầu thần bí” trước khi như là một triết lý, một chủ thuyết hành động về sau này với Marx. Và nó vẫn còn là như vậy trong một tỷ lệ đáng kể. G. Le Bon đã nhấn mạnh “tính cách không chuẩn xác của các chủ thuyết xã hội đã là một trong những yếu tố thành công tới như thế nào”. Và chính cái hy vọng giải phóng, cái nhu cầu huynh đệ bị thất vọng hoài và đôi khi còn bị nhấn chìm trong máu ấy, phát xít sẽ nắm lấy và xoay xở trở thành làm lợi cho mình. Tất cả thế giới nào thiếu vui đều là bỏ ngỏ cho sự khống chế của các huyền thoại. Nhiệm vụ huyền thoại là đưa cái ước muốn mờ tối, không thốt ra ấy lại gần sự thỏa mãn: giữa ước muốn về thỏa mãn chỉ còn một khoảng cách mỏng mà cuộc chiến đấu cùng lòng hy sinh sẽ lấp kín. Chưa chi các hình ảnh, các bài diễn văn, cờ xí đập gió, các cuộc diễu hành dữ tợn đã phá bỏ khoảng cách ấy: mục tiêu đã gần như ở trong tay chúng ta rồi, và chúng ta hãy hưởng trước hạnh phúc nó cho ta. Hàng triệu triệu người sống trên trái đất này nhờ sự kích thích thơ mộng của đám đông làm tăng gấp bội niềm tin và đưa tới tham dự trước tương lai không khó khăn gì. Huyền thoại là một sự tham dự trước, một sự tham dự lấp đầy trong một khoảng khắc ước muốn tự do và bản năng ham quyền lực của con người, huyền thoại là một bất khả chia lia hứa hẹn với cảm thông.

Nơi đây, tuyên truyền đã gặp thơ và nuôi dưỡng bằng thơ. Các thi phẩm lớn của thời cổ như Homère và Virgile [3] đều nhằm cho việc sáng tạo và làm đẹp các huyền thoại quốc gia. Trong thời chúng ta, tuyên truyền đã thay thế cho anh hùng thì trong nhiệm vụ nguyên thủy là “thuật lại lịch sử” cho một dân tộc, những sự tích của quá khứ và những truyện dự tưởng cho tương lai của dân tộc ấy, từ đó mà mang lại cho dân tộc một tâm hồn chung như là Pisistrate [4] đã làm từ những bài thơ hùng tráng. Như chúng ta đã thấy, tuyên truyền đã mượn của thơ một số lớn các phương sách của mình: sự quyến rũ của nhịp điệu, uy tín của lời và đến cả sự dữ dội của các hình ảnh. Trong ngay cả cách điều động của tuyên truyền, ta rất dễ tìm lại một số mánh khóe kỹ thuật của dự diễn tiến thảm kịch, với những chỗ bùng lên, với những lúc mạnh yếu, những “coups de thealre” (tinh thần đột biến) được thu xếp đưa ra để kích thích lòng sợ hãi hay hy vọng.

Chúng tôi sẵn lòng tin rằng một số khía cạnh của tuyên truyền hiện đại có một chức phận thi ca hơn là chính trị, trong việc làm dân tộc mơ đến những huy hoàng của quá khứ cùng những ngày mai tươi sáng hơn. Không phải ngẫu nhiên mà các hình thức cực điểm của tuyên truyền lại tự nhiên được gọi là “cuồng loạn mê sảng”, “mơ trong khi tỉnh” như chúng ta đã có dịp xác định là có tính chất “thụy hôn” trong thái độ của các đám đông bị thôi miên bởi Hitler. Gustave Le Bon đã ghi nhận thấy trong đám đông một cơ cấu phóng đại thái quá tự nhièn. Freud trong cuốn Reimarques sur le Bon đặt sự kiện này tương quan với sự phóng đại thái quá ta nhận thấy trong các giấc mơ đá có khi xảy ra trường hợp ta đánh hay giết một người vì một cớ không đâu, nhỏ nhặt. Như vậy là tuyên truyền đã khai triển được nhiều trường hợp các giấc mơ tập thể thực sự mà tuyên truyền duy trì bằng những phương sách ta đã xét trên. Tuyên truyền đã thu nhận được nỗi mơ mộng mà mỗi người dung dưỡng về các nguồn cội cùng tương lai của mình, nỗi mộng mơ của ấu thời cùng ước vọng ôm ấp hạnh phúc. Nhờ có các huyền thoại tuyên truyền nuôi dưỡng và ngược lại làm huyền thoại vang dội lên, tuyên truyền đã như trong một giấc mơ, làm cho ước muốn hay hận thù sát gần lại đối tượng đến mức phi lý mà khi ở trạng thái tỉnh mọi người không dám hay không thể đạt tới.

Cũng như giấc mơ, tuyên truyền góp phần vào việc làm chúng ta sống một cuộc đời khác, một cuộc đời sống bằng ủy thác. Ở đây chính trị có thể đóng cùng vai trò ngõ thoát như là thể thao, và đám đông “chiếu phóng” ước vọng phiêu lưu và anh hùng của mình lên một chính khách hay một lãnh tụ đảng, tương tự như trên một nhà vô địch đua xe đạp vậy. Tất cả khôn khéo của tuyên truyền là bao gồm trong việc làm chúng ta tin rằng chính khách ấy, lãnh tụ đảng, chính quyền “đại điện” cho chúng ta. không những chỉ hảo vệ quyền lợi ta, mà còn đảm nhiệm những đam mê, những lo âu, nhĩrng hy vọng của chúng ta nữa. Mannoni khi nghiên cứu các phản ứng các dân tộc thuộc địa đã đưa ra trong một viễn tượng theo chủ thuyết Freud một định luật không những chỉ có giá trị cho các dân tộc “sơ khai” nhưng còn bắt nguồn từ tuyên truyền chính trị trong nhiều quốc gia tiến hóa hơn: “Người lãnh tụ chỉ được thực sự công nhận là lãnh tụ nếu người dân có cảm tưởng (hay ảo tưởng, điều đó không quan trọng) rằng lãnh tụ hiểu họ, đoán điều họ sẽ làm và còn làm thay cho họ nữa (...). Một chính quyền có thể có một số đức tính ngay thẳng, sáng suốt, có khả năng chính quyền này chỉ làm thỏa mãn một thành phần dân chúng có cùng cái đức tính ấy. Chính quyền đó chỉ được toàn dân ủng hộ ngày nào con người của quần chúng, kẻ không có khả năng thẩm định về địa hạt này nhưng bị thúc đẩy bởi các tính tự mạnh mẽ và u tối hơn nhiều, đạt được mức tự đặt mình một cách vô thức vào vị trí của chính quyền, tới mức có ảo tưởng cùng tin tưởng rằng chính quyền hành động vì các tình tự y hệt với mình. Nếu sự đồng nhất này không thể có được dù điều này khá dễ thực hiện trong thời gian bình thường, chính quyền sẽ trở thành đối tượng cho sự chiếu phóng (projection) của tất cả các tình tự xấu xa, và trong trường hợp này quần chúng nghĩ rằng chính quyền chỉ hành động vì độc ác, lợi lộc bẩn thỉu, phản bội, ngu dốt” (Omannoni, Psychologie de la Colonisation, coll. Esprit, Editions du Seuil). Tất cả những bậc lãnh đạo quốc gia đều nỗ lực đạt cho được sự “chiếu phóng” của quần chúng lên cá nhân mình, một số vị cố đạt bằng được sự chấp nhận của dân chúng bằng những phương sách trữ tình và hoàn toàn đồng bóng, như Hitler chẳng hạn, có những vị khác như Roosevelt và Churchill thì dùng cách mời bằng một giọng thân mật các đồng bào tham dự chia xẻ các nỗi lo âu và hi vọng của mình. Ta còn nhớ các “buổi nói chuyện quanh bếp lửa” nổi danh trong đó Roosevelt nối đều dặn bằng vô tuyến truyền thanh với mỗi người dân Hoa Kỳ như với một người bạn thân cần phải san xẻ các thống khổ cùng các dự định. Đó là luận cứ thuộc loại: “Tôi là người của nhân dân”, hay “xin đồng bào hãy tự đặt mình vào vị trí tôi” đều là phương chước ưa dùng của các chính khách trong các quốc gia dân chủ. (Chúng ta đã biết cái vẻ tốt vui vẻ các ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ đã tạo ra trong thời kỳ tranh cử. Truman đã giới thiệu vợ và con gái với cử tri bằng các ngôn từ như sau: “Đây là con gái của ông Xếp, và đây Xếp của ông Xếp...”). Trong các trường hợp bi thảm, sự chiếu phóng lên người lãnh tụ này dễ dfng đạt hơn nhờ ở nhu cầu tìm nơi ẩn trú cạnh một “người cha” che chở được cho mình - sự khai thác tình tự này đã là căn bàn cho nền tuyên truyền có tính cách cha mẹ dân của Pétain.

Các cơ cấu điều hành có tích cách thơ mộng và phân tâm học trên có thể dẫn tới những đồi trụy lệch lạc ghê gớm nhất. Nếu không được kiểm soát nếu được tùy nghi sử dụng tất cả các phương tiện phổ biến lan truyền, một nền tuyên truyền như vậy sẽ sớm có khuynh hướng bắt tất cả mọi người chấp nhận giấc mơ của mình và cho giấc mơ đó là đúng với bất cứ giá nào, nghĩa là thay thế đến tận chi tiết của thực tại bằng một thực tại khác mà mọi người cùng các sự kiện phải ép buộc uốn nắn theo. Kiểm duyệt và tin dối trá từ đó sẽ trở thành thông dụng và bình thường: kiểm duyệt là để ngăn cấm phổ biến các tin tức trái với lý tưởng ta đang bảo vệ cùng các sự kiện ta đã tạo ra, tin tức giả trá là từ một biến cố có thật đã bị bóp méo, hay từ nay một biến cố bịa đặt ra hoàn toàn, tạo ra các sự kiện sẽ yểm trợ, minh chứng cho chủ đề đang theo đuổi. Tuyên truyền chiến tranh, thứ tuyên truyền đã phát minh ra “phương pháp nhồi sọ”, đã đưa vào tập quán phong tục phương pháp đối trên trong những thời kỳ khó khăn mà các chính quyền cho rằng sử dụng thông tin như một trong các vũ khí chiến tranh là một trong những bổn phận ái quốc. Kể từ đó, kiếm duyệt thầm kín hay công khai, đã tiếp tục ngự trị thường xuyên trên một phần lớn thế giới. Còn về tin tức giả trá thì đã được quốc xã sử dụng không một ngần ngại nào như một phương tiện để thuyết phục hay khiêu khích. Những tin tức giả trá hoành hành khó đều đặn trong báo chỉ các nước dân chủ thường ưa có giọng điệu điều kiện cách hơn là giọng khẳng định. Các báo chí buổi chiều mỗi ngày mỗi mang lại một số lượng đặc biệt loại tin này nhiều hơn trước. (Chúng tôi chỉ đưa ra một thí dụ loại tin tức giả trá này đăng tải năm 1949 trong một nhật báo nổi danh là tin tức đứng đắn. Nhan đề là khẳng định: Bắt cóc trẻ em tại Berlin nhưng bản tin lại ở điều kiện cách như sau: “Một số trẻ em đã bị người Nga bắt đi ở Berlin, nếu tin theo...” Tin tức này tham chiếu ở một tin khác đăng tải trong một nhật báo Đức và sau đỏ không được xác định lại là đúng thật. Tuy vậy nhan đề không ở điều cách ấy đã ghi vào tâm tri độc giả một kỷ niệm về một sự kiện ghê tởm đặc biệt).

Chống lại tin tức giả trá, việc đính chính thường thường không có sức mạnh, bởi vì rất khó đính chính mà “không có vẻ” tự bào chữa “như một bị cáo”, và tin giả càng thô sơ lại càng có hiệu quả và càng khó đính chính bởi vì quần chúng tự nhiên có lý luận sau: “Họ chẳng dám khẳng định một điều như thế nếu họ không biết chắc chắn”. Hitler biết rằng mức độ dễ tin ở một lời quái dị lố lăng: “Lời dối trả bậy bạ nhất bao giờ cũng để lại dấu vết dù rằng nó đã bị triệt tiêu chăng nữa. Đó là một sự thực đã biết rõ cho những ai đã trở thành bậc thầy trong nghệ thuật nói dối và còn đang tiếp tục hoàn thiện nghệ thuật này”.

Một nền tuyên truyền, cắt xén, bịa đặt và giả tạo các sự kiện, có thể thay thế cho thực tại đến điểm nào? Đó là một câu hỏi mà Quốc xã dã mang lại lời giâi pháp đầu tiên: có thể làm cho cả một dân tộc sống trong một vũ trụ huyền thoại chế tạo sẵn hoàn toàn, trong một thế giới không còn tương quan với thế giới cắt đứt dứt khoát một lần với các chuẩn của sự thật. Tuyên truyền Hitler, khi thì bịa đặt ra các sự kiện, khi thế giới đoán sự kiện theo ý riêng, đã thành công trong việc theo đuổi tiến diễn của chiến tranh đến tận những kiên cố bất lợi nhất. Lấy thí dụ là chỗ đặc rẽ biệt bi thảm nhất cho nước Đức trong cuộc chiến tranh ấy là Stalingrad: Trong giai đoạn đầu, tuyên truyền Hitler ca tụng cuộc tiến quân vinh quang, Hitler tuyên bố sẽ chiếm Stalingrad khi nào muốn. Khi các đạo quân Đức bị bao váy, Hitler tuyên bố Stalingrad sẽ được bảo vệ tới cùng và số phận thành phố này ràng buộc với số phận nước Đức. Khi sau cùng cả đạo quân Đức đã bị tiêu diệt, không còn vấn đề bảo vệ hay chính phục nữa, tuyên truyền biến sự hy sinh vô ích của ba trăm ngàn người thành một thiên anh hùng huyền thoại.

Tuy vậy việc sử dụng kiểm duyệt và giả trá tin tức sau cùng sẽ quay lại chống ngay chính tuyên truyền. Khi một nền tuyên truyền độc quyền các tin tức để điều động sử dụng theo ý muốn hầu như có phản ứng xảy ra ngay lập tức. Thiên hạ sẽ đi tìm những nguồn tin khác không bị vẩn đục, hay ít ra cũng cho phép nghe một tiếng chuông khác. Dưới cái vỏ bọc ngoài chính thức của thông tin có hướng dẫn, ta thấy hình thành một hệ thõng tin tức bí mật trong đó các tin tức được “truyền khẩu”. “Có một nhu cầu bảo cho kẻ khác biết những gì ta đã được nghe nói: nhu cầu và vai trò xã hội là hiển nhiên trong một xã hội tin tức chỉ có cách truyền khẩu là phương tiện truyền tin chính yếu” (E và F. Zerner. Tin đồn và dư luận quần chúng, Cahiers internationnau de socialogie vol. V). Hình như mới đây tại các dân tộc bị cắt dứt với các kỹ thuật phổ biến lan truyền hiện đại, như tại Laponie, tại Guyane, các tin tức đã được truyền đi “không phân biệt và với một chính xác lớn” (sách đã dẫn). Nhưng việc sử dụng các phương tiện phổ biến lan truyền lớn lao đã làm hao mòn cái khả năng sơ khai cùng hệ thống truyền tin bằng miệng đó, một hệ thống xưa kia đã hoạt động với một chính xác tương đối bằng một thứ tự kiểm soát tự nhiên. Các tin tức được truyền đi ngoài hệ thống chính quyền thường là đối lập với các tin tức chính xác: chúng thường được ghi dấu bởi một hệ số tình câm đam mê, ngoài ra chúng còn được vô tình hay hữu ý phóng đại thêm để có thể chống lại chính quyền dù thế nào cũng sử dụng được báo chí và phát thanh, và cũng còn để dễ gây tin cậy hơn. Do đó các tin tức truyền miệng trong các xã hội tân tiến thường thường là không đúng: “các tin đồn” hay các “tin vịt” càng khuyếch đại nếu hệ thống tin tức chính thức càng tỏ ra không chịu biết đến.

Khi vì một lạm dụng tuyên truyền, uy tín của tin tức chính quyền yếu di, việc lan truyền các tin đồn tăng lên và do đó tạo ra một cách tự nhiên một nền thông tin bí mật cung cấp các tin tức theo chiều hướng ngược lại nhưng (dù rằng thương là không cố ý) cũng bị bóp méo và dối trá như các tin tứccủa tuyên truyền chính thức vậy. Như vậy việc quá độ trong sự nắm giữ thông tin tạo ra một phản lực ngược lại, dù ít sức mạnh hơn, cũng làm cản trở khá nhiều tuyên truyền chính thức và đôi khi còn làm hỏng tuyên truyền này. Chính Quốc xã cũng nhận thấy nỗi nguy hiểm này: dân Đức càng ngày càng thích nghe các đài phát thanh ngoại quốc, và có lúc sự nghe này còn gần như trở thành chính thức qua trung gian các bản tin trên nguyên tắc dành cho các viên chức cao cấp chưng sau đó đã được truyền đi trong khắp các văn phòng của các bộ. Trong Nhật ký, Goebbels đã nhiều phen nổi giận vì sự sinh sôi nảy nở của các tin tức phao đồn cùng các “bản tin mật”. Sau cùng Goebbels buồn bã đạt tới nhận định sau: “Trong các thơi kỳ xáo trộn, ta phải luôn luôn giài quyết sự khát tin, bằng một cách này hay một cách khác”.

Goebbels cho thu thập một cách có phương pháp tất cả “các tin đồn” đang lưu hành rồi cho tổ chức một cuộc phản tuyên truyền để hóa giải chúng đi, hoặc bằng cách truyền miệng, hoặc bằng báo chí, phát thanh, điện ảnh. hay kêu gọi tới các nhân chứng ngoại quốc, thường là các ký giả dễ dãi. Và tương tự như trường hợp các lời tiên tri, tiên đoán, tử vi sinh sòi nảy nở, Goebbels không ngần ngại cho Nostradamus [5] một cách cắt nghĩa chính thức thuận lại cho các dự định của Reich. Một thí dụ đặc biệt đáng chú ý về kỳ tài này của Goebbels là thí dụ sau: vào cuối hè 1943 tiếng đồn của quần chúng là tin xử tử một số lớn các nhân vật cao cấp của chế độ. Goebbels thổi phồng tin đồn đó lên bằng cách cho các toán chuyên viên tiêu lệnh và loan tin đồn chính Himmler [6] cũng vừa bị bắt và xét xử và tin này gây ra một xúc động lớn. Rồi vào lúc đã chọn sẵn, cho Himmler xuất hiện khắp mọi nơi, sự kiện này làm tiêu hủy toàn thể các tin đồn đại liên quan tới vấn đề bắt bớ xử tử. Đó là cách phả tan một tin đồn sai lầm bằng một tin đồn sai lầm hơn nữa nhưng chúng ta có thể chứng tỏ được sự sai lầm ấy sau đó.

Tất cả các quốc gia chiếm đóng và chịu tuyên truyền chuyên chế của Reich đều đã biết tới sự cần nghe các đài phát thanh ngoại quốc, “các tin tức mật” cùng sự phát sinh đầy rẫy các tin đồn thường thường là quái dị, các cảu truyện kể lại đã được mỹ hóa, các lời tiên tri tiên đoản cùng tử vi đẩu số.

Cái phản ứng tự nhiên chống lại sự thái quá của một nền thông tin có hướng dẫn ấy chẳng qua chỉ là một trong những khía cạnh của sự mất tín nhiệm xảy tới cho tuyên truyền theo mức độ sức mạuh của chính tuyên truyền ấy. Ngay từ trong chiến tranh 1914-18, các binh sĩ tiền tuyến đã chế riễu bản tin của Quân lực. “Các tin vịt” cùng “tin nhồi sọ” thường bị phán đoán nghiêm khắc: ngôn ngữ quần chúng rất ích lợi để chỉ dẫn cho ta trong địa hạt này: nó đã phát minh ra hai từ ngữ thuộc loại hay được dùng nhất trong những năm gần đây là “baratin” và “bla-bla-bla” diễn tà rất hay một nỗi ghê tởm chán ghét sâu xa các bài diễn văn tuyên truyền. Nỗi chán ghét này không phải là chỉ của những kẻ lãnh đạm thờ ơ mà thôi hình như là, ít ra là nước Pháp, mà còn là ở một môi trường càng thành thực tin tưởng ở lý tưởng bao nhiêu lại càng ghê sợ tuyên truyền thái quá hay khoa trương về chính nghĩa của mình bấy nhiêu. Ngay chính chúng ta cũng có thể nhận thấy trong các bưng biền, các tờ báo kháng chiến và các buổi phát thanh tiếng Pháp của đài B.B.C. được các cảm tình viên của Kháng chiến trong các thành phố, chú trọng tới nhiều hơn. Nhận định này đã đưa một sĩ quan tới việc phổ biến đều đặn trong các bưng biền Vercors một bản tin quay ronéo trong đó chỉ mang lại rất khách quan một cái nhìn tổng hợp về tình hình lấy từ các tin tức thu thập ở tất cả các đài phát thanh ngoại quốc. Tất cả ý định tuyên truyền đều vắng bóng trong những bài tổng kết soạn thảo trên một giọng điềm tĩnh trong sáng của một bản giải thích, và nếu hy vọng chiến thắng vẫn luôn luôn được khẳng định thì mặc dù thế, các điểm đen bất lợi cho tinh thần vẫn bị che dấu đi. Tác động của bản tin trên đối với “tinh thần” các chiến binh bí mật đã lớn lao hơn rất nhiều tác động của các tờ báo nhỏ do Kháng chiến ấn hành hay đo Đồng Minh thả dù xuống.

Thái độ trên phù hợp với một tình tự sâu xa; một phần lớn dân chúng Âu châu đã no mứa vì tuyên truyền Quốc xã, đã đi đến mức độ ghét chung, lẫn lộn tất cả “các tuyên truyền”. Sự giả trá và ngạo mạn của tuyên truyền Hitler đã tới mức độ mà điều hay nhất trong các phần tuyên truyền chính trị là chỉ giới hạn trong việc trình bày các sự kiện thật giản dị và thẳng thắn. Nhờ sự trợ giúp của tính ưa chuộng thể thao của dân Anh, Churchill đã hiểu điều trên ngay lập tức, điều này đã tỏ ra ông là một chính khách có thièn tài. Đáng lẽ mang các bản tin chiến thắng tưởng tượng ra chống lại sự quá độ của Hitler, Churchill bao giờ cũng trình bày trước hạ viện một tình trạng hoàn khách quan về tình hình không hề giấu diếm các chưởng nặng nề các thành phố Anh đã phải chịu cũng như đã chẳng che dấu các thất trận đầu tiên của quân lực Anh bị đẩy lui tại Ai Cập. Đáng lẽ nói tới “chiến tranh tươi vui” Churchill lại hứa với dân Anh là sẽ phải “đổ mồ hồi, máu và nước mắt”. Nhưng sự thẳng thắn này lại có lợi hơn những lời hoang tàng khoác lác. Một người không giấu diếm những nhược điểm của chính nghĩa mình, một người khi cần thiết biết nhận những nhầm lẫn của mình cũng hứa sẽ mang lại biện pháp sửa chữa - Lenine biết điều này và thường dùng luôn - sẽ làm mọi người tin tưởng hơn là kẻ khoác lác cứ nhắc đi nhắc lại hoài không chán các thành tích của mình. Dù các thành công của tuyên truyền kiểu huyền thoại của Đệ Tam Reich có lớn tới đâu, chúng ta cũng không quên rằng một vài lời giản dị và nghiêm trọng, một giọng khách quan, sự ngay thẳng tuyệt đối, còn có lọi hơn tất cả những lời khoác lác cứu vãn tự do trong những ngày đen tối của mùa thu 1940.

Thời đại chúng ta, thời đại đã biết tới các thành công chớp nhoáng của một nền tuyên truyền xảy dựng trên dối trá và lừa bịp, cũng đã đồng thời biểu lộ các dấu hiệu vô nghiệm sâu xa của tuyên truyền ấy. Các bài diễn văn bốc lửa, các bản “thông cáo” dối trá, các bài tràng giang đại hải trữ tình, tất cả sau cùng đã làm tăng thêm lòng khát khao các sự kiện. Chính ngay Goebbels sau hết cũng nhận biết như thế và ghi lại trong Nhật ký như sau: “Vụ thẩm vấn các tù binh Anh bắt được sau cuộc đột kích vào Saint Naraire năm 1943 đã chứng tỏ rằng họ chú ý đến các tin tức hơn các lời bình luận. Tôi rút ra kết luận là phải thay đổi toàn diện các buổi phát thanh bằng ngoại ngữ của chúng ta. Thời kỳ của các bản tuyên bố dài giòng đã qua rồi”. Và vì người ta đã nói dối quá nhiều nên sự thật giản dị và trần truồng trở thành vũ khí mạnh nhất của tuyên truyền. Hãy làm thực sự những gì ta đã nói là sẽ làm, đó sẽ là điều vì tương phản, sẽ làm mọi người khó nghĩ khó xử. Goebbels ngạc nhiên về phương pháp đặc biệt này áp dụng tại một sõ địa điểm trong mặt trận của quân Nga Xô. “Trong khu vực mặt trận của các đạo quân trung, các bôn-sê-vích đã ném ra một thứ tuyên truyền kỳ lạ nhất hằng máy khuyếch âm: họ loan báo rằng sẽ tấn công trong bốn ngày nữa. Sau khi đã bộc lộ một lần các ý định của mình trong địa hạt này, địch sẽ thực sự tấn công vào đúng ngáy đã nói. Ta phân vân trước ý niệm kỳ dị này về tuyên truyền, bởi vì làm như vậy, địch chỉ làm tăng thêm số tổn thất của mình”. Thực ra loại tuyên truyền này không có gì là kỳ dị và thường được mang ra dùng trong những thời kỳ đầu bởi các bôn-sê-vích, những kẻ, như Ludovic Naudeau đã ghi nhận trong tờ L’Ententet “đã hành động công khai, liều lĩnh, không ấp úng, không giấu diếm các ý định (...), tuyên truyền của họ đã tới mức ấn định trước ngày họ sẽ cầm vũ khi lên, ngày mà họ sẽ chiếm chính quyền”. Nói trước những gì sẽ làm và làm thực sự những điều đã nói, hiển nhiên là sự khéo léo cao nhất trong chiến thuật chính trị. Làm như vậy sẽ làm phát xuất ra một cảm tưởng an ninh, một sức mạnh vô địch, có thể làm tê liệt địch thủ. Goebbels đáng lẽ ra cũng phải ghi lại là cái phương pháp làm ông ngạc nhiên nhiều như thế ấy chính ra đã được chính Hitler dùng khi ông này không ngần ngại bày tỏ rõ ràng trong cuốn Mein Kampf các kế hoạch cùng các mưu kế ma giáo quỷ quyệt nhất.

Các dân tộc thích mơ mộng, nhưng cũng sẽ đến một lúc nào đó họ không muốn bị lừa dối nữa. Khắp nơi nơi người ta đòi hỏi các sự kiện, các con số, các chứng cớ. Ngay bát pháp của các bài diễn văn và các bài bảo đã mất đi tính cách khoa trương, và bây giờ là thời đại đi tìm kiếm những câu ngắn và sắc, những công thức đập mạnh vào tâm trí bằng giá trị dễ nhớ của chúng. Thiên hạ vứt rất nhanh không thèm đọc một cuốn sách nào mà cách trình bày “có mùi tuyên truyền”. Và một khi ta đã bị lừa, thì ẩn tượng xấu còn ghi nhớ sâu xa lắm. Một số nền tuyên truyền đã bị suy yếu đi nhiều chỉ vì đã bị chứng tỏ sai lầm về một sự kiện: thí dụ như tuyên truyền chống Nga sô tại Pháp không những chỉ tố cáo chế độ của Nga sô, mà trước chiến tranh còn cả quyết rằng Nga sô không có sức mạnh và quân lực, sẽ sụp đổ ngay sau trận tấn công đầu tiên, vậy mà cách xử sự của Hồng quân dã mang lại một đính chính hoàn toàn về luận cứ trên.

Nhiều triệu chứng chứng tỏ rằng một phần lớn dân chúng Âu châu đã biểu lộ sự ghê tởm đối với tất cả những gì gợi lên tuyên truyền. Sự chản ngán tuyên truyền hiển nhiên là một trong những yếu tố chính của sự kiện vắng cử tri đi bầu cử. Các đảng phải chính trị tốt hơn không nên trông cậy nhiều quá ở khả năng chống quên vô hạn của các quần chúng. Đã đến lúc nhắc nhở các đảng phái rãng tuyên truyền không phải chỉ là việc loan báo một chương trình hấp dẫn khõng đi đến đâu hay việc đưa ra áp dụng các khéo léo về chiến thuật, rằng các nguồn dối trá sau hết rồi cũng sẽ cạn, rằng các cơ cấu tâm lý được tạo ra khéo nhất cũng sẽ đột ngột sụp đổ, và muốn cho có hiệu lực, một nền tuyên truyền thực sự chỉ tiến từng bậc một, nói một cách khác nghĩa là ta chỉ lao về các mục tiêu mới một khi chân đã đứng chắc trên phần đất đã chinh phục được. Dối trá sau cùng sẽ có hại cho tuyên truyền, và nếu huyền thoại là cần yếu cho tuyên truyền, thì các sự kiện cũng cần như thế.

Dĩ nhiên các thành công của tuyên truyền rất là lớn lao vào thời đại của chúng. Nhưng nếu xét kỹ, ta sẽ thấy các thành công này không thể tách rời khỏi một số điều kiện về tiếp nhận như: nghèo khó, thất vọng, tủi nhục, hy vọng no ấm hay tự do.... Dù các kỹ thuật tác động tâm lý có vẻ hiệu lực, ta sẽ lầm lẫn khi tưởng rằng các kỹ thuật ấy bộ máy nào cũng sử dụng được cho bất cứ một mục đích nào. Ta cần phải có một nội dung chính trị và một sự cộng hưởng trong dân chúng.

“Tuyên truyền” là một trong những chữ có tiếng xấu nhất trong Pháp ngữ. Cách thế Quốc xã đã sử dụng tuyên truyền đã làm mọi người quen coi tuyên truyền như một phương pháp đồi trụy và dối trá. Phản ứng này xét cho cùng là lành mạnh. Nhưng hậu quả của nó lại ghê gớm: tuyên truyền, một chức phận chính trị tự nhiên, đã trở thành đáng xấu hô nên nó lùi sang địa hạt thông tin, nấp đằng sau các “tin tức” cùng các bàn thống kê: Không ai muốn nghe nói lời “tuyên truyền” nữa, thiên hạ chỉ “cung cấp tài liệu”, chỉ làm việc “thông tin”, làm các “phóng sự” tuyên truyền càng ngày càng ít thơ mộng và càng nhiều tính cách thống kê hơn. Nhưng một bảng con số hay một diện tín của hãng thông tấn đều có thể nói dối như một bài diễn văn vậy, và sự giả trá mỗi ngày một khó khám phá hơn. Chúng ta đã ghi nhận rằng trong thời đại chúng ta, thời đại mà một điện văn hay cả một hình ảnh đi nữa chỉ cần có vài giờ là đủ đi vòng quanh thế giới, thỉ quả thật ra khó mà biết rõ sự thật về những vấn đề quan trọng nhất. Và cũng như vào thời Trung cổ ta khao khát lắng nghe một kẻ du hành từ Đông phương hay Mỹ châu trở về để “biết rõ những gì đang thực sự xảy ra”. Các phương tiện thông tin, dù ở trong tay các cường quốc chuyên chính hay các cường quốc của tiền bạc, đều chuyên chở, như một chất độc bí mật, một thứ tuyên truyền không dám xưng danh ra - đây dũng là lúc một tác giả Anh, C.E.E. Lamley, đã định nghĩa tuyên truyền như là một “kích thích chủ yếu là giấu kín”, và thứ tuyên truyền này ít bạo động hơn thứ tuyên truyền vô liêm sỉ của bác sĩ Goebbels, nhưng về lâu về dài sẽ làm hư hỏng các tâm trí, làm phân hóa, bơ vơ cùng tước đoạt khả năng tập trung trên một thực tại được, chấp nhận chung, cũng như đã tước đoạt sự có thể tham khảo thường xuyên từ thế giới bên ngoài, điều cần thiết cho việc hình thành các phán đoán cùng xác định vị trí cho hành động của mình.

Muốn sửa chữa sự đồi trụy thâm hiểm về các nguồn thông tin nói trên, trước hết ta phải tách rời chức phản tuyên truyền khỏi chức phận thông tin. Dĩ nhiên trong tình trạng thế giới hiện nay, thật khó mà thiết lập một quy chế hoàn toàn về thông tin cùng một tổ chức thẩm quyền quốc tế có quyền kiểm soát các sự kiện bị dị nghị cùng đính chính công khai các tin tức sai lầm giả trá. Ít ra thì ta cũng phải hướng về chiều hướng đó, trước hết ở mức độ quốc gia bằng cách soạn thảo một quy chế cho các phương tiện phổ biến tin tức khả dĩ có thể bảo đảm sự liêm khiết của thông tin.

Dầu thế nào, mơ hồ về các vấn đề này là điều đáng tiếc. Tuyên truyền là cần thiết, và chúng tôi tin tưởng rằng một đảng phái hay một chính quyền có thể phát triển tuyên truyền mà không cần dùng tới các lời dối trá. Nhưng ta không thể để tuyên truyền ẩn nấp sau thông tin và làm hư hỏng thông tin lâu hơn nữa.

Nói thực ra, sự phân biệt giữa tuyên truyền và thông tin càng ngày càng trở thành khó khăn sau khi thế giới bị chia cắt làm hai khối, về phía Nga Sô. một nền kiểm duyệt gắt gao đã lấy đi tất cả những phương tiện tiếp xúc với bên ngoài: các nhật báo cùng các phim ảnh ngoại quốc chỉ được nhập nội rất ít và được lọc lựa kỹ càng các tin tức và các lời bình luận đều được hướng dẫn theo cùng chiều hướng theo các chỉ thị của Nhà nước và của Đảng, văn chương, giáo dục, điện ảnh, điêu khắc, cả khoa học nữa đều phải lấy gốc từ một chủ nghĩa duy nhất và đều cùng được sử dụng cho tuyên truyền, về phía Hoa Kỳ, việc lưu truyền các tin tức dĩ nhiên là tự do hơn nhiều, và chế độ kiểm duyệt, xét bề ngoài, là không có. Nhưng dư luận ở Hoa Kỳ có lẽ bị lệ thuộc hơn hầu hết vào các dụng cụ phổ biến tin tức của quần chúng, và các dụng cụ này, bị chi phối bởi luật kiếm lời, đã có khuynh hướng nịnh hót các sở thích của quần chúng và hướng dẫn các quần chúng này về các lập trường chủ quan của mình. Chắc chắn là ở đây tin tức được cung cấp dồi dào và khỏng có một sự kiểm soát của chính quyền nào can thiệp tới ngăn chặn hay bóp méo đi. Nhưng chính vì “các tin tức quá chính xác và quá chi tiết” nên không ai có đủ thì giờ đọc chúng và vì thế để tiện cho độc giả, phải làm các tóm tẳt. Một khi đã chấp nhận nguyên tắc này, rất dễ bị lôi cuốn đi theo khuynh hướng tự nhiên của quần chúng là đơn giản hóa, chỉ cần cho các tiêu đề càng kêu càng đập mạnh là đủ, nghĩa là có tính cách mị dân, từ đó rơi vào tuyên truyền chính cống chỉ còn có một bước mà người ta lúc nào cũng sẵn sàng vượt qua. (J. Ayencourt. Người Hoa Kỳ, nền thông tin của họ, chiến tranh và hòa bình, Esprit, Juin 1949). Nếu ta thêm vào đó một số “hệ thống dây truyền” báo chí ràng buộc với các tổ chức tài phiệt nữa, ta thấy việc lọc lựa tin tức cũng có ở đây dù rằng ít triệt để và nhiều tế nhị hơn, để có tác động tuyên truyền.

Trong một tình hình như vậy, càng ngày càng khó cô lâp hóa tuyên truyền chính trị. Ta còn có thể tự hỏi có phải tuyên truyền chính trị đang đi tới chỗ biến mất để nhường chỗ cho một thứ tuyên truyền văn minh. Đó là một quan niệm toàn diện về cuộc đời mà cả, hai bên cùng muốn phổ biến, bằng nghệ thuật, điện ảnh, văn chương, cũng như bằng các phương tiện diễn tả thuần chính trị. Để đổi lại với “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, “văn chương của đảng” cùng tất cả các dụng cụ chuyên chở chủ nghĩa Mác, bên này đưa ra các phim ảnh của Hollywood, các “digest” [7], các “báo chí tâm tình”, một số loại tiểu thuyết bình dân, tất cả đều chuyên chở, không phải là một chủ nghĩa riêng biệt nữa, nhưng là cả một cách thế sống, cả một tâm trạng chung.

Ta chẳng thể che dấu được những hiểm nguy nghiẻm trọng phát xuất từ sự nhiễm độc này của tất cả mọi phương tiến diễn là do một nền tuyên truyền thầm kin hay công khai gây ra. Theo cách thế này. nhiều nhóm dân tộc đã đang đi đến chỗ tự cô lập mình vào trong các tâm trạng tạp nhạp, triệt tiêu tất cả điểm chung tất cả thông câm và triệt tiêu ngay tất cả những kiến thức về tâm trạng đối phương nữa. Hành động như vậy, các nền tuyên truyền đã tạo ra một bầu khí tâm lý thuận tiện cho việc bùng nổ chiến tranh.

Chú thích:

[1] Franco: tướng Tây Ban Nha, sinh năm 1892, lãnh tụ phe quốc gia bảo thủ Tây Ban Nha chống lại chế độ Cộng hòa đã được thiết lập trước đó. Ông liên kết với Giáo hội Công giáo gây nội chiến kéo dài từ 1936 đến 1939, một cuộc chiến có tính cách quốc tế đẫm máu nổi tiếng. Franco thẳng, thành lập chế độ chuyên chế, đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo tối cao Tây Ban Nha cho tới hiện nay.

[2] Stendhal: văn hào Pháp (1783-1842), nổi tiếng lãng mạn với các mối tình đam mê dữ dội và vì tài phân tích sáng suốt tâm lý các nhân vật trong tác phẩm ông viết. Có ảnh hưởng rất lớn đối với các nhà văn lớp sau. Các khẩu hiện còn được đọc Le Ronge etle Noir la Chartruse de Parme

[3] Homère: thi sĩ nổi danh cổ Hy Lạp (thế kỷ 4 trước Công nguyên); tác giả L’Iliade và L’odyssee - Virgile (70-19 trước Công nguyên) thi sĩ La mã nổi danh) chịu ảnh hưởng nhiều của Homère, tác phẩm để lại: Bucoliques, Georgiques về Enélade.

[4] Pisistrate (600-527 trước Công nguyên): nhả chuyên chế tại đô thị Athènes nhưng biết sử dụng quyền hành khéo lếo. Nổi tiếng vì đã kiến trilc lại rất đẹp Athènes và vì các bài thi hùng ca.

[5] Nostradamus (1503-1566) chiêm tinh gia Pháp có tài tiên tri. Tập văn Centuries ông để lại được dân Âu châu coi có giá trị như “sấm Trạng Trình” tại Việt Nam.

[6] Himmler (1900-1945) đảng viên Quốc xã Đức, giám đốc cơ quan mật vụ Gestapo, Bộ trường Nội vụ Đức dưới thời Hitler. Nổi danh vì tàn nhẫn với các phe đối lập, nhất là vì đã đứng ra điều động công cuộc diệt chủng Do Thái trong đệ nhị thế chiến. Tự tử bằng thuốc độc năm 1945 ngay sau khi bị quân đội Đồng minh bắt được. Một trong những phụ tá chính của Himmler là Eichman trốn thoát sang Nam Mỹ và mới chỉ mới bị Do thái bắt về mang xử tử gần đây.

[7] Digest: tạp chí định kỳ gồm các bài văn phổ thông, cổ động một cách giản dị dễ hiểu. Tại Việt Nam, loại tiếng Anh có Reader’s, loại tiếng Pháp có Sélection, Constellation, loại tiếng Việt có: Thời nay...


Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 17 tháng 5 năm 2015