← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 8 (tt) -

thế uyên dịch và chú giải

CHƯƠNG 8 (tt)

hư thế ta thấy vai trò chính yếu của tuyên truyền trên một số khu vực di động của dư luận, những khu vực thường là rộng lớn nhất. Và ta hiểu tại sao trong những thời ký khủng hoảng gây cấn, tuyên truyền có thể làm một khối quần chúng không bền vững đảo lộn từ cực điểm này sang cực điểm kia. Tính cách hàm hồ của dư luận này đặc biệt rất phổ biến ở Đức vào thời kỳ xảy ra thí nghiệm chúng tôi đã nhắc tới trên và cũng là thời kỳ hàng triệu triệu người đã phải chọn lựa giải pháp xã hội hoặc giải pháp Quốc xã, và thực ra phải chọn lựa vì cùng những lý do với nhau: tình tự phải thoát ra khỏi một cuộc khủng hoảng, một kẹt cứng bên trong cũng như bên ngoài về tình thế, giải quyết nạn thất nghiệp, tìm một lối thoát cho nước Đức.

Cái khổi người do dự này, dù rằng cũng có được một sắc độ và dư luận, hiển nhiên là không hợp thành một nhóm có đặc tính riêng biệt. Nhiệm vụ của tuyên truyền là làm cho khối đó chịu khuất phục ảnh hưởng của một nhóm tích cực. Ảnh hưởng này có thể sâu đậm nhiều hay ít. Muốn phát động và yểm trợ một chiến dịch dư luận, thường thường phải thành lập các hiệp hội, các ủy ban, các tổ chức liên đới. Các tổ chức này đề ra các mục tiêu chính trị quốc nội hay quốc ngoại và gây áp lực với Quốc hội cùng chính quyền bằng nhiều phương tiện dị biệt: chiến dịch báo chí, diễn thuyết, hội thảo chung, kiến nghị... tổ chức này đại diện các quyền lợi nghề nghiệp được che dấu nhiều hay ít, tổ chức kia theo đuồi các mục tiêu ái quốc, văn hoá, tôn giáo, quốc tế. Con số của các tổ chức này dĩ nhiên là lớn lao và ảnh hưởng của chúng đáng kẽ. Nhưng trong khi các loại hành động này, tại các xứ La Tinh, thường giới hạn ở trong các vòng hạn hẹp và đôi khi tác động một cách ngấm ngầm, thì ở các xứ Anglo-saxon, nơi chức phận của tuyên truyền ít do các đảng phải đảm nhiệm như tại đất nước chúng ta, các tổ chức hành động ấy công khai hơn và phổ thông hơn. Thí dụ: chính bằng cách thế như trên các uỷ ban ủng hộ cho đàn bà quyền bầu cử đã thành công trong việc đoạt được lã phiếu cho phụ nữ sau nhiều chiến địch dai dẳng và đôi khi rất ồn ào. Tại Hoa Kỳ, một số nhóm nào đó muốn làm cho mọi người chấp nhận hoàn toàn một ý tưởng hay một người thì họ bắt đầu bằng cách tạo ra các điều kiện xã hội cho sự thành công ấy: các phương sách sử dụng đôi khi làm nhớ tới việc ném ra một mốt ăn mặc mới, mốt sáng tạo ra một thời thượng nào đó hơn là giống một chiến dịch tuyên truyền kiểu Âu châu. Các nhân ảnh hưởng này dĩ nhiên có một hiệu lực tuyên truyền cao hơn tuyên truyền của các “bộ máy” chính trị lớn. Muốn tung ra chủ thuyết New Deal, Roosevelt đã tạo ra một tổ chức đặc biệt và sử dụng tới tất cả những phương sách tuyên truyền. Một triệu năm trăm ngàn nhà tuyên truyền tình nguyện đã được huấn luyện nhanh chóng, được trang bị các tài liệu và được đeo một huy hiệu tượng trưng là con ó xanh: một cuộc diễu hành hai trâm năm chục ngàn cán bộ “ó xanh” đã diễn ra tại Newyork ngày 14-9-1933 với hai trăm ban nhạc tháp tùng.

Loại ảnh hưởng này thuộc một loại khá gần với quần chúng có thể thay thế bằng hành động bạo tàn hơn của đám đông. Đám đông cấu tạo thành một nhóm giả tạo trong đó các thành phần của các nhóm dị biệt tạm thời gắn bó với nhau: như chúng ta đã thấy, một cuộc mít tinh, một cuộc diễu hành có thể lôi kéo những kẻ thụ động, nhưng nếu ảnh hưởng của loại này là kích thích nhiều, nó lại ít khi kéo dài, trừ phi sự kích thích đám đông này được lập đi lặp lại đều đặn cũng trở thành cưỡng bách theo một cách thế ứng dụng Quốc xã đã tỏ ra rất giỏi. Quả thật vậy, một cá nhân trở về đời sống bình thưởng sẽ chịu lại ảnh hưởng của gia đình, bạn bè, bạn đồng nghiệp v.v.... Hiển nhiên là các ảnh hưởng dị biệt này cấu tạo thành chướng ngại sơ khởi cho sự phát triển vì giới hạn của một tuyên truyền. Chúng ta thấy rằng một cá nhân có thể là một mẫu loại trong một nhóm này, phi mẫu loại trong một nhóm khác, hoặc còn có thể là mẫu loại trong hai nhóm dư luận trái ngược nhau.

Như vậy tuyên truyền va vào các mẫu loại trái ngược nhau, và tuyên truyền có thể thất bại nếu không đạt được việc hình thành và củng cố mẫu loại của nhóm mình, nghĩa là không tạo ra được sự bảo thù riêng của mình về tư tưởng cũng như về thái độ. Người ta thường nhấn mạnh rằng chiến dịch dữ dội do đa số báo chí Hoa Kỳ mở ra chống đối việc tái cử Roosevelt đã không ảnh hưởng được các cử tri. Tại một mức độ thấp hơn, tại Pháp một vùng, vì những lý do địa phương, tờ báo cộng sản được phổ biến nhất, nhưng dầu vậy dân chúng, đa số tín đồ Ki-tô giáo vẫn bỏ phiếu cho M R.P. Sự kiện này chứng tỏ ảnh hưởng của tờ báo đã không thể làm hại tới sự kết hợp của nhóm tôn giáo trên.

Sự tạp đã ảnh hưởng xã hội mà Durkheim đã gọi là sự “giao thoa các nhóm” ấy, là trở ngại chính cho việc chiến thắng của nền tuyên truyền chuyên chế. Tuyên truyền chuyên chế dựa trên một nhóm duy nhất là đảng của chính phủ, còn các nhóm khác đều bị tiêu diệt, hoặc thường thường hơn, bị ràng buộc vào đảng duy nhất ấy theo cách như thế nào để ảnh hưởng của chúng đáng lẽ chống lại ảnh hưởng của đảng đuy nhất, sẽ tác động cùng chiều và tăng cường cho ảnh hưởng của đảng duy nhất. Một số cộng đồng có cơ cấu hay truyền thống làm cho khố thâm nhập đối với tuyên truyền của đảng duy nhất, sẽ bị giải tán (các hiệp hội có tính cách tôn giáo, các tan viện, các tổ chức Tam Điểm [1], một số tổ chức nghề nghề nghiệp, sinh viên v.v...), các tổ chức khác dám là màng ngăn nhưng đặc tính tự nhiên của chúng làm chúng trở thành cần thiết thì sẽ bị giảm thiểu sự hiện diện tối thiểu (đây chính là trường hợp tế bào gia đình), sau hết các tổ chức loại khác nữa sẽ bị sát nhập (các nghiệp đoàn, hiệp hội văn hóa, phong trào thanh niên). Một khi nhóm duy nhất đã khống chế như vậy và áp lực còn được tăng cường bằng áp lực đồng quy của các nhóm thứ yếu trực thuộc, cá nhân sẽ rất khó chống lại tuyên truyền.

Dư luận cá nhân chỉ có thể phát xuất và chỉ biểu lộ ra được trong một bầu xã hội nào đó cố sức mạnh che chở được cho nó. Tới đây chúng ta hiểu rõ lý do sâu xa của “quy tắc đồng nhất” cùng “bầu khí sức mạnh”: Chính ra là vì sự cần duy trì một bầu khĩ diễn tả rõ rệt, một trường xã hội dư luận cần phải có để xác định mình, hơn là vì khoái biểu dương sức mạnh cùng làm các vụ bộc lộ thô sơ bạo lực. Chế độ dân mà các định nghĩa lý tưởng không còn giá trị nữa, đang dựa trên một thế quân bình các lực lượng.

Dĩ nhiên là loại trừ cả các lực lượng ấy đi cũng là không đúng. Trong thứ trò chơi các ảnh hưởng dư luận công chúng phải chịu và trong cách thể dư luận này phần ứng lại, ta thấy nhiều yếu lố cá nhân và xã hội đã tham dự chi phối. Chắc chắn là tuyên truyền bí mật của Kháng chiến Pháp chỉ phát triển mạnh một khi sức mạnh quân sự của Đồng minh đã được xác định. Tuy thế tuyên truyền ấy đã bắt đầu ngay từ khi Pháp bại trận, không cần chờ đợi hội đủ các điều kiện của công cuộc giải phỏng. Một số người dựa trên truyền thống tôn giáo, quốc gia, chính trị, gia đình của mình, đã từ chối sự tuyệt vọng và tự mình truyền bá niềm tin riêng đồng thời tạo được cho mình một dụng cụ đấu tranh.

Tuyên truyền của Hitler tại Pháp đã va vào hai loại chống đối: loại chống đối thứ nhất là bột phát, trước hết có tính cách cá nhân, phản ứng của lòng ái quốc, lõng danh dự, tin tưởng chính trị và nhân bản, được thuận lợi nhờ sự không câu thúc truyền thống của linh khi Pháp thường khó chịu vì các kỷ luật và các cưỡng chế. Loại chống đối thứ hai là tổ chức mà có, dố là tuyên truyền và tác động côa các phong trào bí mật: một sự “phi mẫu loại” thường có tạp Pháp đã tạo ra một sự đối lập với chủ nghĩa Quốc xã theo cùng chiều với sự “mẫu loại” do các phong trào Kháng chiến khai triển bằng cách mỗi ngày làm cho mình là tượng trưng cho các bổn phận ái quốc cùng hi vọng ở chiến thắng, và băng cách tạo ra cái cảm tưởng đồng nhất có lợi cho mình. Nhưng không có một lực lượng được tổ chức, không có một nền phản tuyên truyền mạnh mẽ, toàn thể các phản ứng cá nhân, các bất mãn, các sự không chịu nhận cái có sẵn, chắc đã chỉ mang ra chống. Kẻ dịch một loạt điểm tựa sẽ bị tràn ngập nhanh chóng, chứ không phải là một trận tuyến liên tục.

Như vậy tuyên truyền tác động vào dư luận bằng một chức phận kép: làm phát sinh sự thật và che chở. Tuyên truyền làm phát xuất dư luận cá nhân và thúc đẩy dư luận này diễn tả công khai ra! Tuyên truyền che chở cho sự diễn tả ấy bằng cách tạo ra các điều kiện về lý luận, về tâm lý cùng xã hội của một dư luận tập thể, hấp dẫn và tự tin. Chức phận kép nàycó thể đảm nhiệm bằng nhiều cách khác nhau. Tuyên truyền Hiller thì chinh phục phục và gắn liền các cá nhân vào nhau bằng huyền thoại, bằng cách kêu gọi tới các sức mạnh của vô thức, của sự khiếp sợ. Tuyên truyền Hitler cũng thay đổi cơ cấu xã hội để gạt bỏ các trở ngại sự lan tràn của mình. Các nền tuyên truyền khác tác động bằng cách cắt nghĩa thuần lý và bằng cách trình bày các sự kiện, dầu vậy cũng chẳng từ bỏ huyền thoại bắt buộc phát xuất từ tất cả mọi mức độ của tuyên truyền dù đó có là huyền thoại của dư luận quần chúng về chính ngay mình.

Lamartine [2] đã tiên tri “kỷ nguyên của Le Bon” thì tin ở kỷ nguyên của đám đông và quần chúng. Tardethi tin ở kỷ nguyên của dư luận công chúng. Thời kỳ của chúng ta là tất cả những thứ đó: kỷ nguyên của các quần chúng bị lôi cuốn bởi các môn phái xách động theo các phương châm của Lenine - bị cô đọng thành các đám đông cuồng loạn bởi ảo thuật của Hitler - bị tan loãng thành một thứ luận công chúng thụ động và vô hình dạng, bị tẩm thấu bởi các hóa chất tiêu hóa của kỹ thuật Hoa Kỳ. Trong tất cả mọi trường hạp, tuyên truyền tràn ngập các cộng đồng mềm nhũn không xương. Nếu cần phải chông lại nó, thì chỉ có thể chống trong một cô đơn bi thảm, hoặc chóng bằng cách nương tựa chắc chắn vào các cộng đồng có nguyện ước và ý chí. Kỷ nguyên quần chúng cũng là kỷ nguyên của con người cô đơn. Cũng rất có thể rằng một ngày kia kỷ nguyên của các tu viện, các công đồng và dòng tu sẽ đến thay thế cho cái kỷ nguyèn của quần chúng ấy.

Chú thích:

[1] Hội Tam Điểm (Franc-maçonnerie) - một hiệp hội bí mật khá phổ biến trên thế giới, có từ thế kỷ thứ 8, chủ đích là tương trợ giữa các hội viên. Từ thế kỷ 18 các hội viên Anh và Pháp có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng. Theo chân người Pháp, hội có chi hội tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc và thu nhận cả hội viên người Việt. Hội hoạt động bí mật ít người biết rõ hiện tình ra sao.

[2] Lamartine: (1790-1869): thi sĩ Pháp nổi danh trong trường phái lãng mạn thế kỷ 19 tại Pháp. Đồng thời là một chính khách: dân biểu năm 1834, Bộ trưởng ngoại giao năm 1848. Mất uy tín nhiều sau vụ 1848 và chết trong nghèo khổ và lãng quên.


Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 17 tháng 5 năm 2015