13: Ngôn ngữ thuần túy
Cậu không muốn làm việc này” - Bennie lầm bầm. - “Tôi nói đúng không?”
“Tất nhiên” - Alex nói.
“Cậu nghĩ như thế là bán rẻ. Hạ giá những quan niệm khiến cậu là ‘chính mình’.”
Alex bật cười. “Sự tình quả là như thế.”
“Thấy chưa, cậu là người thuần túy chủ nghĩa” - Bennie nói. - “Đó là lý do cậu hoàn hảo cho việc này.”
Alex cảm thấy lời tâng bốc này tác động lên mình giống như những hơi ngọt ngào đầu tiên của một điếu cần sa mà ta biết sẽ hủy hoại ta nếu rít hết. Bữa xế trưa chờ đợi từ bao lâu nay với Bennie Salazar đang nhạt dần, và sự mong mỏi tột cùng được thuê làm người hòa âm đã rơi xuống. Nhưng giờ đây, khi họ nhìn thẳng vào nhau từ hai chiếc sofa đặt vuông góc chìm trong ánh nắng mùa đông rót xuống từ ô cửa sổ áp trần trong căn hộ ở Tribeca của Bennie, Alex bỗng cảm thấy có sự gắn kết mê hoặc với tính hiếu kỳ của ông già này. Vợ họ đang ở trong bếp; các con gái nhỏ của họ đang ngồi giữa họ trên một tấm thảm Ba Tư màu đỏ, cẩn thận chơi chung một bộ đồ hàng.
“Nếu tôi không làm việc ấy” - Alex nói - “thì tôi không thể thực sự hoàn hảo.”
“Tôi nghĩ anh sẽ làm.”
Alex bực mình, kinh ngạc: “Sao biết?”
“Có cảm giác” - Bennie nói, hơi rướn người lên khi đang tựa rất sâu. - “Rằng chúng ta có một quá khứ chung nào đó chưa từng xảy ra.”
Alex nghe tên Bennie Salazar lần đầu từ một cô gái mà anh hẹn hò một lần duy nhất, khi anh mới đến New York và Bennie vẫn còn nổi tiếng. Cô gái làm việc cho Bennie - Alex nhớ điều này rất rõ - nhưng đó thực sự là tất cả những gì anh có thể nhớ; tên cô, dáng vẻ của cô, những gì họ đã làm cùng nhau - những chi tiết này đã mất sạch. Những ấn tượng duy nhất Alex lưu giữ về buổi hẹn đó là mùa đông, màn đêm, và chuyện gì đấy liên quan tới cái ví, nổi bật nhất, nhưng mà nó đã mất à? Nhặt được? Ăn trộm? Ví của cô gái ấy, hay của chính anh? Các câu trả lời cứ lẩn khuất đến phát bực - giống như khi bạn cố nhớ một bài hát mà bạn biết đã mang lại cho bạn một cảm xúc nhất định nào đó, nhưng không có nhan đề, tên nghệ sĩ, hay thậm chí vài quán bar phát lại nó. Cô gái ấy bay lượn ngoài tầm với, để lại mỗi cái ví trong tâm trí Alex như một dạng danh thiếp, để trêu đùa anh. Trong những ngày gần tới bữa ăn này với Bennie, Alex thấy mình ám ảnh về cô đến kỳ quái.
“Của tớ!” - Ava, con gái Bennie phản đối - das mine!, xác nhận lý thuyết gần đây của Alex cho rằng sự tiếp nhận ngôn ngữ luôn gắn kết với một giai đoạn nói tiếng Đức. Con bé giật cái xoong khỏi tay con gái Alex, Cara-Ann, đứa đang loạng choạng lao theo, hét lên: “Nồi của tớ! Nồi của tớ!” Alex đứng bật dậy, rồi để ý thấy Bennie chẳng nhúc nhích.
Anh ép mình ngồi trở lại.
“Tôi biết cậu muốn hòa âm” - Bennie nói, vừa đủ nghe lẫn trong tiếng kêu gào chí chóe mà dường như không hề cao giọng. - “Cậu yêu âm nhạc. Cậu muốn làm việc với âm thanh. Cậu nghĩ tôi không biết cảm giác đó thế nào sao?”
Hai đứa bé ngã nhào vào nhau trong một cơn điên cuồng như hai đấu sĩ với tiếng tru tréo, cào cấu, giật từng mớ tóc tơ. “Mọi chuyện ngoài đó ổn chứ?” - Vợ Alex, Rebecca, gọi với ra từ gian bếp.
“Bọn anh ổn.” - Alex đáp. Anh kinh ngạc trước sự bình tĩnh của Bennie; có phải mọi chuyện sẽ như thế này khi ta bắt đầu những việc con mọn lại từ đầu sau khi kết hôn lần hai?
“Vấn đề là” - Bennie nói tiếp - “ở đây không phải là về âm thanh nữa. Không phải là về âm nhạc. Mà là về động chạm. Đó là viên thuốc đắng nghét mà tôi đã phải nuốt.”
“Tôi hiểu.”
Ý nghĩa: Anh biết (mọi người trong ngành công nghiệp này đều biết) Bennie đã bị đuổi khỏi hãng đĩa của chính anh, Sow’s Ear Records, từ nhiều năm trước, sau khi mời ban quản trị trong phòng họp một bữa phân bò (“và chúng tôi đang nói giữa những khay bốc khói ấy,” một thư ký viết, tường thuật tại chỗ cuộc hỗn chiến ở Gawker ấy ngay khi nó đang diễn ra). “Các ông bà đang yêu cầu tôi cho người đời ăn cứt đấy à?” Nghe đâu Bennie đã hét lên như thế với ban quản trị đang hồn xiêu phách lạc. “Tự các người ăn thử đi xem mùi vị thế nào!” Sau chuyện đó, Bennie đã trở lại sản xuất âm nhạc với âm thanh analog chói tai, chẳng bán được là bao. Giờ đây, gần bước sang tuổi sáu mươi, ông bị xem là lỗi thời; Alex thường nghe người ta nhắc tới ông ở thì quá khứ.
Khi Cara-Ann cắm phập răng cửa mới nhú vào vai Ava, Rebecca là người phải chạy ào từ phòng bếp tới gỡ con bé ra, quẳng một cái nhìn ngạc nhiên về phía Alex, lúc này đang lơ lửng trong sự trầm lặng như thiền trên sofa. Lupa ra theo cô: một bà mẹ mắt đen mà hồi đầu Alex đã tránh chạm mặt ở sân chơi vì cô xinh đẹp, cho tới khi anh biết rằng cô kết hôn với Bennie Salazar.
Khi các vết thương đã được băng bó và trật tự đã lập lại, Lupa hôn lên đầu Bennie (mái tóc xoăn vốn là đặc điểm của ông nay đã ngả bạc) và nói: “Em vẫn luôn chờ đợi anh khiến được Scotty chơi nhạc.”
Bennie ngước lên mỉm cười với cô vợ trẻ hơn ông nhiều. “Anh đang cứu anh ấy đây” - ông nói. Rồi ông bấm handset[19], bật lên từ hệ thống âm thanh siêu khủng (chừng như rót thẳng âm nhạc vào lỗ chân lông của Alex) một giọng nam ma quái kèm với tiếng slide guitar vặn xoắn bật nẩy. “Chúng tôi đã phát hành bài này vài tháng trước” - Bennie nói. - “Cậu đã nghe về Scotty Hausmann chưa? Anh ấy đang có rất nhiều pointer.”
Alex liếc nhìn Rebecca, cô luôn khinh bỉ thuật ngữ pointer - người nhấp trỏ và hẳn sẽ lịch sự nhưng cương quyết chỉnh đốn bất cứ ai dùng nó để nói về Cara-Ann. May thay, vợ anh chưa nghe thấy. Ngày nay khi Starfish, hay handset của trẻ em, trở nên phổ biến, bất kỳ đứa trẻ nào biết nhấp trỏ cũng có thể download nhạc - người mua trẻ nhất từng được biết đến là một đứa bé ba tháng tuổi ở Atlanta, nó đã mua bài hát của Nine Inch Nails tên là “Ga-ga.” Mười lăm năm chiến tranh đã kết thúc bằng sự bùng nổ trẻ con, và những đứa trẻ này không chỉ làm hồi sinh một nền công nghiệp đã chết mà còn trở thành những người nắm quyền sinh sát trong âm nhạc. Các ban nhạc chẳng có lựa chọn nào khác ngoài thay đổi hoàn toàn bản thân cho đối tượng chưa biết nói đó; ngay cả Biggie cũng được phát hành thêm một album sau khi chết nữa, trong đó bài hát chủ đề là remix một bài điển hình của Biggie - “Fuck You, Bitch” - thành thứ nhạc nghe như “You’re Big, Chief!” - “Ngài thật vĩ đại, Thủ lĩnh!”, kèm bức ảnh Biggie đang đung đưa một em bé tuổi chập chững đội cái mũ thổ dân Mỹ. Starfish có thêm nhiều tính năng khác - vẽ ngón tay, hệ thống GPS cho trẻ con mới tập đi, PicMail - nhưng Cara-Ann chưa bao giờ chạm vào Starfish nào, Rebecca và Alex đồng thuận rằng con bé sẽ không dùng thứ đó cho tới khi lên năm. Họ tránh mặt con bé khi sử dụng handset của mình.
“Lắng nghe gã này” - Bennie nói. - “Hãy lắng nghe.”
Giọng rung sầu thảm; tiếng láy rền réo rắt của slide guitar - với Alex nó nghe thật khốc liệt. Nhưng đây là Bennie Salazar, người đã phát hiện ra Conduits bao nhiêu năm trước. “Anh nghe thấy gì?” - Alex hỏi ông.
Bennie nhắm mắt, mọi tế bào trong ông sống dậy với hành động lắng nghe ra mặt này. “Anh ấy tuyệt đối thuần túy” - ông nói. - “Nguyên vẹn.”
Alex nhắm mắt lại. Lập tức những âm thanh ấy cô đặc trong tai anh: tiếng đốn củi, tiếng chuông nhà thờ, tiếng khoan xa xa. Tiếng còi xe và còi tầm tung bay như hoa giấy. Tiếng ù ù của một chuỗi đèn trên đầu, tiếng máy giặt ì oạp. Tiếng ngái ngủ của Cara-Ann “Không...” - khi Rebecca kéo áo len qua đầu con bé. Họ sắp đi. Alex thấy một cơn sợ hãi điếng người, hoặc một cảm giác tương tự thế, trước ý nghĩ trắng tay rời khỏi buổi gặp sáng nay với Bennie Salazar.
Anh mở mắt, Bennie đã mở mắt rồi, đôi mắt nâu lặng lẽ của ông nhìn chằm chằm vào mặt Alex. “Tôi nghĩ cậu nghe thấy điều tôi nghe thấy, Alex” - ông nói. - “Tôi đúng không?”
Đêm hôm đó, khi Rebecca và Cara-Ann đã ngủ say, Alex lôi mình ra khỏi sự ấm nóng nghẹt thở của chiếc giường họ ngủ chung trong một cái màn kín bưng và đi ra phòng khách/phòng chơi/phòng làm việc. Khi đứng gần cửa sổ chính giữa và ngước nhìn thẳng lên, anh có thể thấy đỉnh của tòa nhà Empire State, đêm nay sáng ánh đèn vàng và đỏ. Cái view hình chữ V này đã rất hút khách thời mà cha mẹ Rebecca mua cho cô căn hộ một phòng ngủ ở Garment District nhiều năm trước, ngay sau vụ khủng bố. Alex và Rebecca đã lên kế hoạch bán căn hộ này đi khi cô mang thai, nhưng rồi biết ra rằng tòa nhà thấp tè mà tòa nhà của họ nhìn xuống trông thấy đã được bán cho một tay thầu, kẻ lên kế hoạch san phẳng nó đi để xây một tòa nhà chọc trời rồi đây sẽ bưng bít ánh sáng và không khí của họ. Căn hộ này không thể bán được nữa. Giờ đây, hai năm sau, cuối cùng tòa nhà chọc trời đó cũng khởi công, một thực tế bao phủ Alex vừa với cảm giác sợ hãi và sụp đổ vừa với nỗi say mê chao đảo - mỗi giây ánh nắng ấm áp chiếu qua ba cửa sổ hướng đông nhà họ đều thật ngọt ngào, và ánh bạc của màn đêm lấp lánh này, thứ mà bao năm anh đã ngắm từ một cái gối dựa vào bậu cửa, thường là trong lúc hút cần sa, giờ đây hiện lên đẹp đẽ đến chua xót, một ảo ảnh.
Alex yêu buổi đêm tàn. Không có tiếng ầm ầm của công trường xây dựng kia và tiếng môtô chopper khắp nơi, các ngõ ngách âm thanh ẩn khuất tự chúng đưa vào trong tai anh: tiếng ấm siêu tốc hú và tiếng bàn chân đi tất chạy bình bịch của Sandra, bà mẹ đơn thân sống trong căn hộ ngay tầng trên; tiếng rì rì đều đều mà Alex đoán là cậu con trai tuổi teen của Sandra đang vọc vạch cái handset của nó trong phòng kế bên. Từ dưới đường, chuỗi tiếng chuyện trò lào khào bệ rạc duy nhất: “...anh đang đòi hỏi em phải thành con người khác đấy...” và “Tin hay không thì tùy, rượu chè khiến anh tỉnh táo.”
Alex dựa vào cái gối và đốt một điếu cần sa. Suốt cả chiều anh đã cố gắng - và thất bại - giải thích với Rebecca việc anh đã đồng ý làm cho Bennie Salazar. Bennie chưa bao giờ dùng tới từ parrot - con vẹt; vì từ khi xuất hiện các bloggescandal, thuật ngữ đó trở thành một thứ khốn nạn. Ngay cả các tuyên bố hé lộ vấn đề tài chính mà các blogger mảng chính trị đã được yêu cầu đăng tải cũng không ngăn cản được mối nghi ngờ rằng ý kiến con người đưa ra không phải là ý kiến thật của họ. “Ai đang trả tiền cho anh thế?” là lời căn vặn thường đến sau bất cứ cơn hăng hái nhiệt tình nào, kèm theo tiếng cười - ai lại để bản thân không thể mua chuộc chứ? Nhưng Alex đã hứa có cho Bennie năm mươi parrot để tạo ra thông tin truyền miệng “chân thực” cho live concert đầu tiên của Scotty Hausmann, sẽ được tổ chức ở Lower Manhattan tháng sau.
Anh sử dụng handset để bày ra một hệ thống lựa chọn parrot tiềm năng từ 15.896 bạn của mình. Anh dùng ba hạng mục khác nhau: họ cần bao nhiêu tiền (“Cần”), sức kết nối và mức độ được kính trọng (“Kết nối”), và khả năng họ cởi mở để bán tầm ảnh hưởng đó (“Mua chuộc”). Anh chọn ngẫu nhiên một số người rồi xếp mỗi người vào từng hạng mục với điểm số từ 0 đến 10, rồi dựng trên handset biểu đồ không gian ba chiều các kết quả thu được, tìm kiếm một cụm dấu chấm mà ở đó ba đường thẳng giao nhau. Nhưng trong mọi trường hợp, có điểm số tốt ở hai hạng mục thì đều có điểm số tồi ở mục thứ ba: những người nghèo và dễ mua chuộc - ví dụ, Finn - bạn anh, một diễn viên thất bại và nghiện ma túy khá nặng, người từng đăng tải trên trang cá nhân một công thức pha trộn cocaine và heroin, người sống chủ yếu nhờ vào lòng tốt của đám bạn cùng lớp trường Wesleyan (Cần: 9, Mua chuộc: 10) - không có Kết nối (1). Những người nghèo, có sức ảnh hưởng như Rose, một nghệ sĩ cello/múa cột, người mà hễ style tóc thay đổi là lập tức được bắt chước ở một số khu nhất định của East Village (Cần: 9, Kết nối: 10), thì không thể mua chuộc (0) - thật ra, trên trang cá nhân của Rose có một chỗ dành cho những tin đồn kiểu như một quyển sổ nháp nguệch ngoạc của cảnh sát, ghi lại bạn gái nào bị bạn trai đánh tím mắt, ai đã mượn rồi đập nát một bộ trống, chó của người nào bị cột vào máy thu tiền đỗ xe suốt nhiều giờ trong mưa. Lại có những người có sức ảnh hưởng và dễ mua chuộc như Max, bạn anh, từng là ca sĩ của nhóm Pink Buttons, giờ là vua điện gió, chủ nhân của dinh thự ba căn hộ ở Soho và bữa tiệc Giáng sinh rải-thảm-caviar mỗi năm khiến cho thiên hạ phải bợ đít hắn từ tháng tám hòng mong được mời tham dự (Kết nối: 10; Mua chuộc: 8). Nhưng Max nổi tiếng là bởi hắn giàu (Cần: 0) và không có động cơ để bán.
Alex mở to mắt nhìn chằm chằm vào màn hình handset. Có ai đồng ý làm chuyện này không nhỉ? Rồi anh chợt nhận ra là đã có sẵn một người: chính anh. Alex dựng biểu đồ chính mình theo cách mà có lẽ Rebecca nhìn nhận về anh: Cần: 9; Kết nối: 6; Mua chuộc: 0. Alex là một người thuần túy chủ nghĩa, giống như Bennie từng nói: Anh đã tránh khỏi những ông chủ dối trá (trong thương mại âm nhạc) theo đúng cách mà giờ đây anh hằng ngày tránh khỏi những phụ nữ lấy làm tò mò trước hình ảnh một người đàn ông bế con gái nhỏ trong giờ làm việc. Chết tiệt, trước đây anh đã gặp được Rebecca sau khi ra sức đuổi theo một gã đeo mặt nạ sói giật ví của cô ngay hôm trước Halloween. Nhưng Alex đã quy phục Bennie Salazar mà không hề kháng cự. Tại sao? Bởi vì chẳng bao lâu nữa căn hộ này sẽ tối tăm ngột ngạt? Bởi vì trông Cara-Ann trong khi Rebecca làm việc toàn thời gian, đi dạy và viết lách, khiến anh thấy bứt rứt? Vì anh không bao giờ có thể quên đi rằng mọi byte thông tin mà anh đã đăng tải lên mạng (màu sắc, món ăn, tư thế làm tình yêu thích) đã được lưu trữ trong kho dữ liệu của các công ty đa quốc gia, những kẻ thề bồi rằng họ sẽ tuyệt đối không bao giờ sử dụng nó - rằng, nói theo cách khác, anh đã bị sở hữu, đã vô tình bán mình ở chính thời điểm mà anh cảm thấy nổi loạn nhất? Hay đây là một sự đối xứng kỳ quặc với khởi nguồn là nghe tên Bennie Salazar lần đầu từ cô gái đã biến mất trong lần duy nhất anh hẹn gặp, và cuối cùng là giờ đây gặp gỡ ông sau mười lăm năm, qua một sân chơi?
Alex không biết. Anh không cần biết. Điều anh cần biết là tìm thêm năm mươi người nữa giống như anh, những người đã thôi không còn là chính mình mà chẳng hề hay biết.
“Vật lý là bắt buộc. Ba học kỳ. Ai trượt thì sẽ bị loại khỏi chương trình.”
“Cho một chứng chỉ marketing?” - Alex ngạc nhiên.
“Trước đây thường là dịch tễ học” - Lulu nói. - “Anh biết đấy, khi mà hiệu ứng virus vẫn còn thịnh hành.”
“Giờ mà người ta vẫn còn dùng từ ‘virus’ sao?” - Alex ước gì mình có một cốc cà phê thật, chứ không phải thứ rượu xoàng mà họ đang rót trong bữa tối với món Hy Lạp này. Trợ lý của Bennie, Lulu, có vẻ như đã có mười lăm hay hai mươi - trừ khi đó là người của cô.
“Chẳng ai nói ‘virus’ nữa” - Lulu đáp. - “Ý tôi là, có thể chỉ là vô tình thôi, như cách chúng ta vẫn dùng các từ ‘kết nối’ và ‘truyền tải” - những ẩn dụ mang tính cơ học cũ kỹ đó chẳng liên quan gì tới sự lan tỏa của thông tin cả. Thấy không, kết nối không còn dùng để miêu tả phương diện nguyên nhân và kết quả được nữa: cả hai diễn ra cùng lúc. Nó nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng, điều đó đã được chứng minh. Thế nên giờ đây chúng ta nghiên cứu vật lý hạt cơ bản.”
“Tiếp theo là gì? Lý thuyết dây?”
“Đó là một môn tự chọn.”
Lulu mới hai mươi mấy tuổi đầu, mới tốt nghiệp trường Barnard và là trợ lý toàn thời gian của Bennie: Một hiện thân sống của thế hệ “nhân viên handset” mới - không giấy tờ, không bàn làm việc, không sáng đi chiều về, và theo lý thuyết là có mặt ở khắp nơi, dù dường như Lulu đang phớt lờ tiếng tít tít liên tục từ handset. Các ảnh trên trang cá nhân của cô không thể hiện được nét cân xứng quyến rũ cùng đôi mắt to tròn, mái tóc óng ả rực rỡ của cô.
Cô “trơn tru”: không xỏ khuyên, không xăm trổ, hay xăm rạch thịt. Ngày nay tất cả thanh niên đều như thế. Ai mà trách được họ, Alex nghĩ, sau khi chứng kiến ba thế hệ xăm mình ủy mị suy sụp như những miếng nệm tả tơi qua những bắp vế tồi tàn và những bộ mông chảy xệ?
Cara-Ann đang ngủ trên địu, khuôn mặt con bé nép giữa cằm và xương đòn của Alex, hơi thở thơm mùi bánh quy và trái cây của nó đưa lên mũi anh. Anh có ba mươi phút, cũng có thể là bốn mươi lăm, trước khi nó thức giấc và đòi ăn trưa. Nhưng Alex cứ có cảm giác khăng khăng muốn đi ngược thời gian, muốn hiểu Lulu, muốn chỉ ra chính xác tại sao cô khiến anh bối rối.
“Làm sao cô quen được Bennie?” - Anh hỏi.
“Vợ cũ của ông ấy từng làm việc cho mẹ tôi” - Lulu nói - “nhiều năm trước, khi tôi còn là cô bé con. Tôi biết Bennie từ xưa tới giờ, cả con trai ông ấy nữa, Chris. Anh ấy hơn tôi hai tuổi.”
“À” - Alex nói. - “Thế mẹ cô làm gì?”
“Mẹ tôi từng là đại diện truyền thông, nhưng bà đã từ bỏ công việc đó” - Lulu đáp. - “Bà sống ở phía bắc bang New York.”
“Tên bà ấy là gì?”
“Dolly.”
Alex định tiếp tục dòng chất vấn này cho tới khi trở lại được thời điểm Lulu thụ thai, nhưng anh ngừng lại. Khoảng im lặng rơi xuống, kết thúc bằng sự xuất hiện của thức ăn. Alex đã định gọi súp, nhưng như vậy nghe ẻo lả quá, thế nên vào phút chót, anh đã chọn Reuben sandwich, quên mất rằng nếu nhai thì thể gì anh cũng đánh thức Cara-Ann. Lulu gọi bánh trứng đường chanh; cô dùng nĩa khẩy từng mẩu trứng đường để ăn.
“Thế” - cô cất tiếng, khi Alex không biết phải nói gì. - “Bennie nói chúng ta sẽ tạo ra một đội ngẫu nhiên, trong đó anh là đội trưởng ẩn danh.”
“Ông ấy dùng những thuật ngữ đó à?”
Lulu cười to. “Không, đó là những thuật ngữ marketing. Từ trường học.”
“Thật tình, đó là những thuật ngữ thể thao. Từ... thể thao” - Alex nói. Anh đã là đội trưởng nhiều lần, tuy nhiên trước mặt một người trẻ thế này thì có cảm giác như chuyện đó đã quá xa xưa để tính tới.
“Các ẩn dụ thể thao vẫn được dùng” - Lulu đáp lại.
“Vậy đây là một điều đã phổ biến?” - Anh hỏi. - “Đội ngẫu nhiên?” Alex đã nghĩ Đội ngẫu nhiên - Blind team là sáng kiến của chính anh: giảm cảm giác xấu hổ và có lỗi khi trở thành con vẹt bằng cách thành lập một đội mà không biết mình là một đội - hoặc không biết mình có một đội trưởng. Mỗi thành viên trong đội sẽ làm việc trực tiếp với Lulu, còn Alex thì bí mật dàn xếp từ trên.
“Ồ, đương nhiên” - Lulu nói. - “Các đội ngẫu nhiên hoạt động đặc biệt tốt với người đứng tuổi. Ý tôi là” - cô mỉm cười - “người ngoài ba mươi.”
“Tại sao lại thế?”
“Người đứng tuổi có khả năng chịu đựng cao hơn với...” - Dường như cô bí chữ.
“Việc bị mua chuộc?”
Lulu mỉm cười. “Đấy, đó là thứ mà chúng tôi gọi là ẩn dụ dối trá - disingenuous metaphor” - cô nói. - “Nó có vẻ giống như các mô tả, nhưng thực tế chúng là những phán xét. Ý tôi là, một người bán cam có thể bị mua chuộc không? Phải chăng người sửa dụng cụ nọ đang bán rẻ bản thân?”
“Không, vì việc họ làm là ngay thẳng” - Alex nói, nhận ra rằng anh đang ra vẻ hợm mình. “Tất cả đều diễn ra công khai.”
“Đó, thấy chưa, các ẩn dụ ấy - ‘ngay thẳng’ và ‘diễn ra công khai’ - đều là bộ phận của một hệ thống mà chúng ta gọi là chủ nghĩa thuần túy lại giống - atavistic purism (AP). AP ám chỉ sự tồn tại của một trạng thái hoàn hảo về mặt đạo đức, thứ không chỉ không tồn tại và không bao giờ tồn tại, mà còn thường được dùng để chống đỡ cho định kiến của những ai chuyên đưa ra phán xét.”
Alex cảm thấy Cara-Ann ngọ ngoạy bên cổ mình, nên vội nuốt chửng một lát thịt bò hun khói dài béo ngậy. Họ đã ngồi đây bao lâu rồi nhỉ? Lâu hơn anh định, chắc chắn là thế, nhưng Alex không thể chống lại được thôi thúc muốn ra sức đối diện với cô gái này và tiếp tục câu chuyện. Vẻ tự tin của cô dường như mãnh liệt hơn hệ quả của một tuổi thơ hạnh phúc; đó là sự tự tin từ trong tế bào, như thể Lulu là một nữ hoàng trong đồ cải trang, không có nhu cầu hay ước muốn được nhận ra.
“Thế” - anh cất tiếng. - “Cô nghĩ chẳng có gì sai sẵn với việc tin vào một điều gì đó - hay nói trắng ra - với tiền?”
“Sai sẵn. Ôi, đó là một ví dụ vĩ đại về đạo đức tha hóa. Tôi phải nhớ điều đó cho thầy giáo già môn đạo đức hiện đại của tôi, thầy Bastie; ông sưu tầm những chuyện như thế. Nghe này” - cô nói, thẳng sống lưng lên và nhấp nháy đôi mắt xám khá nghiêm nghị (dù khuôn mặt làm ra vẻ thân thiện) - “nếu tôi tin, thì tôi tin. Anh là ai mà phán xét các lý lẽ của tôi?”
“Vì nếu lý lẽ của cô là tiền bạc, thì đó không phải là niềm tin. Đó là rác rưởi.”
Lulu nhăn mặt. Một điều nữa về thế hệ cô: Không ai chửi thề. Thật ra Alex đã từng nghe thấy đám choai choai nói những từ như “ôi chao” hay “trời ơi” mà không hề có vẻ mỉa mai. “Đây là điều chúng ta dễ gặp” - Lulu trầm ngâm, nhìn Alex chăm chú. - “Tính hai mặt của đạo đức - ethical ambivalence - chúng tôi gọi là EA - khi đương đầu với hành động marketing mạnh bạo.”
“Đừng bảo tôi: strong marketing action - SMA.”
“Chính thế đấy” - cô đáp. - “Điều mà với anh có nghĩa là tìm ra đội ngẫu nhiên đó. Bề ngoài có vẻ như anh thậm chí không thể làm được việc đó, anh quá lừng khừng, nhưng tôi nghĩ mọi chuyện sẽ ngược lại: Tôi nghĩ EA sẽ là một dạng tiêm chủng, một cách miễn thứ cho bản thân trước khi thực hiện một điều mà ta thực sự muốn làm. Không có ý xúc phạm gì” - cô nói thêm.
“Giống kiểu thường nói ‘không có ý xúc phạm’ khi ta vừa nói điều gì đó xúc phạm à?”
Mặt Lulu chín hồng ở mức Alex chưa từng thấy: một sức nóng đỏ lựng ùa lên khắp mặt cô nhanh đến nỗi mang lại cảm giác như một điều gì rất khủng khiếp đang diễn ra, như thể cô đang nghẹt thở hoặc sắp chảy máu. Alex kéo mình ngồi thẳng dậy và kiểm tra Cara-Ann. Anh thấy mắt con bé đã mở to.
“Anh nói đúng” - Lulu nói, hít vào một hơi yếu ớt. - “Tôi xin lỗi.”
“Không sao” - Alex nói. Cơn đỏ mặt ấy còn khiến anh bất an hơn cả sự tự tin của Lulu. Anh quan sát nó tan biến khỏi gương mặt cô, để lại làn da trắng ngần đối lập. “Cô ổn chứ?” - Anh hỏi.
“Tôi không sao. Tôi chỉ thấy mệt vì nói chuyện.” “Tương tự” - Alex nói. Anh cảm thấy kiệt sức.
“Có quá nhiều con đường dẫn tới cái sai” - Lulu nói. - “Tất cả những gì chúng ta có là các phép ẩn dụ, mà chúng thì chẳng bao giờ tiệm cận cái đúng. Ta không bao giờ có thể đơn thuần Nói. Ra. Điều. Đó.”
“Ai đấy?” - Cara-Ann hỏi, chằm chằm nhìn Lulu.
“Đó là cô Lulu.”
“Tôi T[20] anh được chứ?” - Lulu hỏi.
“Ý cô là...”
“Ngay bây giờ. Tôi T bây giờ được chứ.” - Câu hỏi đó là một thủ tục; cô đã khởi động handset rồi.
Một thoáng sau handset của Alex rung lên trong túi quần; anh phải đẩy Cara-Ann lên mới lấy được nó ra. U hav sum nAms 4 me? anh đọc trên màn hình.
hEr thA r, Alex gõ, rồi chuyển danh sách năm mươi liên lạc đó, kèm theo các ghi chú, manh mối về góc độ tiếp cận và những điều cấm kỵ cá nhân, sang handset của Lulu.
GrAt. Il gt 2 wrk[21].
Họ nhìn nhau. “Việc đó đã rất dễ” - Alex nói.
“Tôi hiểu” - Lulu đáp. Cô có vẻ ngái ngủ với cảm giác nhẹ nhõm. - “Nó thuần túy - không triết học, không ẩn dụ, không phán xét.”
“Gì vậy” - Cara-Ann nói. Con bé chỉ vào handset của Alex, món đồ mà anh đang vô tình sử dụng cách mặt con bé mươi phân.
“Không” - anh nói, bỗng nhiên lo lắng. - “Chúng tôi, chúng tôi phải đi.”
“Chờ đã” - Lulu nói, dường như để ý thấy Cara-Ann lần đầu tiên. - “Tôi sẽ T con bé.”
“Ôi, chúng tôi không...” - nhưng Alex cảm thấy không thể giải thích với Lulu những niềm tin mà anh chia sẻ với Rebecca về con cái và handset. Giờ thì handset của anh lại rung; Cara-Ann ré lên vui sướng rồi đưa ngón trỏ mũm mĩm chọc vào màn hình. “Con làm được rồi” - nó thông báo với anh.
Litl grl, U hav a nyc dad[22], Alex đọc to lên theo nghĩa vụ, và lập tức một cơn đỏ mặt ùa lên khuôn mặt của chính anh. Cara-Ann bấm thùm thụp lên các phím với cơn phấn khích hăng say của một con chó đói vào được khu giết mổ. Lúc này một rắc rối xuất hiện, một trong những bức ảnh động vật mà người ta gửi cho trẻ con: con sư tử nằm dưới ánh nắng lấp lánh. Cara-Ann zoom vào các phần khác nhau của con sư tử như thể con bé đang làm thế từ lúc lọt lòng. Lulu vừa T: Nvr met my dad. Dyd b4 I ws brn[23]. Alex đọc thầm câu này.
“Ôi. Tôi rất tiếc” - anh nói, ngước nhìn Lulu, nhưng giọng anh dường như quá to, một sự xâm phạm lỗ mãng. Anh cụp mắt xuống, và trong khi Cara-Ann nhấp trỏ loạn xị, anh tìm cách T được: Sad[24].
Ancnt hstry[25], Lulu T lại.
“Của con!” - Cara-Ann gào lên tức tối hết cỡ, nhoài ra khỏi địu và chọc ngón trỏ vào túi quần Alex. Bên trong đó, cái handset đang rung - đã rung liên tục suốt nhiều giờ kể từ lúc anh và Cara-Ann rời khỏi quán ăn. Có lẽ nào con gái anh cảm nhận được sự rung đó qua cơ thể anh?
“Kẹo que của con!” - Alex không rõ tại sao con bé lại gọi handset như vậy, nhưng tất nhiên anh không chỉnh con bé.
“Con muốn gì vậy, con yêu?” - Rebecca hỏi theo cái cách quan tâm quá đà mà cô vẫn thường nói chuyện với con gái sau khi trải qua một ngày làm việc.
“Kẹo que của bố.”
Rebecca nhìn Alex với ánh mắt châm chọc. “Anh có kẹo que đấy à?”
“Tất nhiên là không.”
Họ đang đi vội về hướng tây, cố gắng tới được dòng sông trước khi mặt trời lặn. Hiện tượng khí hậu nóng lên tác động đến quỹ đạo trái đất đã khiến ngày mùa đông ngắn lại, thế nên giờ đây, tháng một, hoàng hôn đang buông xuống vào lúc 4:23.
“Em bế con nhé?” - Rebecca hỏi.
Cô nhấc Cara-Ann ra khỏi địu và đặt con bé xuống bên vệ đường đen thui. Con bé đi vài bước lẫm chẫm, rời rạc. “Chúng ta sẽ lỡ mất nếu con bé đi bộ” - Alex nói, và Rebecca bế con bé lên rồi đi nhanh hơn. Alex đã khiến vợ ngạc nhiên khi không tới thư viện, một việc mà gần đây anh bắt đầu làm thường xuyên để tránh tiếng ồn của công trình xây dựng bên căn hộ của họ. Nhưng hôm nay anh có một lý do khác: Anh cần nói với cô về thỏa thuận giữa anh với Bennie.
Ngay bây giờ, không trì hoãn thêm chút nào nữa.
Mặt trời đã lặn sau thác nước khi họ tới được sông Hudson, nhưng khi họ trèo bậc thang lên WATERWALK! - con đường lát ván trên bức tường thành nổi tiếng vang dội ấy, họ thấy mặt trời vẫn đủng đỉnh, màu đỏ cam và tròn như lòng đỏ trứng, ngay trên thành phố Hoboken. “Xuống” - Cara-Ann ra lệnh, và Rebecca thả con bé xuống. Nó chạy tới bên hàng rào sắt kéo dài dọc mép ngoài của bức thành, nơi cứ giờ này là luôn đông nghịt những người mà có lẽ (giống Alex) hiếm khi để ý thấy mặt trời trước khi bức tường này dựng lên. Giờ thì si mê nó. Khi theo Cara-Ann vào giữa đám đông, Alex nắm tay Rebecca. Kể từ khi anh quen biết cô, cô đã bù lại vẻ đẹp quyến rũ của mình bằng đôi kính mắt mèo, lúc thì trông giống như nhân vật Dick Smart, lúc thì lại giống như Miêu nữ. Alex đã yêu cặp kính ấy vì sự bất lực của nó trong việc hạ bệ vẻ đẹp gợi cảm của Rebecca, nhưng gần đây anh không còn chắc lắm; cặp kính, cùng với mái tóc xám và thực tế là cô thường thiếu ngủ, đe dọa hiện thực hóa sự hóa trang đó thành nhân dạng: một giảng viên đại học mệt mỏi, yếu ớt đầu tắt mặt tối viết cho xong một cuốn sách trong khi dạy hai khóa và làm chủ tọa nhiều hội đồng. Vai trò của Alex trong hoạt cảnh này chính là điều khiến anh tuyệt vọng nhất: một kẻ luống tuổi say mê âm nhạc, kẻ chẳng thể kiếm nổi tiền nuôi thân, bòn rút cuộc đời (hay ít nhất là nhan sắc gợi cảm kia) của vợ.
Rebecca rất nổi tiếng trong giới học thuật. Cuốn sách mới của cô viết về hiện tượng vỏ bọc ngôn ngữ, một thuật ngữ cô sáng tạo ra để nói về những từ mà giờ đây không còn có nghĩa nếu bỏ ngoài ngoặc kép. Tiếng Anh đầy rẫy những từ trống rỗng như thế - “bạn” và “thực” và “câu chuyện” và “thay đổi” - những từ đã lột bỏ ý nghĩa và chỉ còn là những cái vỏ khô. Một số từ, ví như “nhân dạng”, “tìm kiếm” và “đám mây” rõ ràng đã bị khai tử qua việc sử dụng chúng trên Internet. Với những từ khác, các lý do phức tạp hơn; từ đâu “người Mỹ” trở thành một thuật ngữ mai mỉa? Từ đâu mà “dân chủ” được sử dụng theo lối nhạo báng châm chọc?
Như thường lệ, sự yên lặng bao trùm cả đám đông trong những phút cuối cùng trước khi mặt trời lặn hẳn. Ngay cả Cara-Ann, trên vòng tay Rebecca, cũng im phắc. Alex cảm thấy bóng nắng tỏa trên mặt mình nên nhắm mắt lại, nhấm nháp hơi ấm thoang thoảng, đôi tai anh ngập tiếng ầm ầm của con phà đang băng qua. Ngay sau khi mặt trời lặn, mọi người đột ngột di chuyển, như thể một lời nguyền đã bị phá bỏ. “Xuống” - Cara-Ann nói rồi đi dọc Waterwalk. Rebecca chạy theo con bé, cười to. Alex vội vã kiểm tra handset.
JD nEds 2 thnk
Yep frm Sancho
Cal: no f-way[26]
Trước mỗi hồi đáp, anh lại trải nghiệm một hỗn hợp cảm xúc vốn đã trở nên quen thuộc vào những buổi chiều: niềm hân hoan chiến thắng hòa lẫn với sự khinh thường trước những lời đồng ý, nỗi thất vọng pha trộn thoáng ngưỡng mộ với những lời từ chối. Anh đang bắt đầu gõ một lời đáp thì nghe thấy tiếng bước chân thình thịch, rồi đến tiếng hét đầy khao khát của con gái anh: “Kẹoooo QUE!” Alex vội cất handset đi, nhưng quá trễ rồi: Cara-Ann đang lục túi anh.
“Của con” - con bé nói.
Rebecca lặng lẽ đi tới. “Ra đó là kẹo que.”
“Hẳn vậy.”
“Anh cho con dùng nó?”
“Một lần thôi, được chưa?” - Nhưng tim anh đang đập thình thịch.
“Anh vừa tự ý thay đổi quy định?”
“Anh chẳng thay đổi gì cả, anh chỉ sơ ý. Được chưa? Anh có được phép sơ ý một lần không đây?”
Rebecca nhướn mày. Alex cảm thấy cô đang soi mói anh. “Tại sao lại là bây giờ?” - Cô hỏi. - “Hôm nay, sau bao nhiêu thời gian, em không hiểu.”
“Chẳng có gì mà hiểu!” - Alex gắt, nhưng anh đang nghĩ: Làm sao cô ấy biết được? Và rồi: Cô ấy biết được điều gì?
Họ đứng đó, nhìn thẳng vào mắt nhau trong ánh sáng dần tàn. Cara-Ann chờ đợi trong im lặng, hẳn đã quên bẵng cái kẹo que. Waterwalk người đã về gần hết. Đây là lúc nói cho Rebecca biết về thỏa thuận với Bennie - ngay, ngay! Nhưng Alex cảm thấy tê liệt, như thể sự tiết lộ này đã bị phá hỏng rồi. Anh có một ý muốn điên rồ là T cho Rebecca, thậm chí anh còn thấy mình đang soạn trong đầu một tin nhắn: Nu job in th wrks. big $ pos. pls kEp opn mind[27].
“Đi thôi” - Rebecca nói.
Alex bế Cara-Ann vào lại địu, rồi họ đi xuôi Waterwalk vào vùng bóng tối. Khi họ đi qua những con đường tối tăm, Alex thấy mình nghĩ về ngày anh và Rebecca gặp nhau. Sau nỗ lực thất bại truy đuổi gã giật ví hóa trang đầu hói, Alex dỗ dành cô đi uống bia và ăn bánh cuốn nhân thịt, rồi làm tình với cô trên nóc tòa nhà của cô trên Avenue D, để tránh ba người bạn cùng phòng của cô. Lúc đó anh còn chưa biết họ của Rebecca. Đang nghĩ tới đây, bất ngờ Alex nhớ ra tên của cô gái từng làm việc cho Bennie Salazar: Sasha. Alex giữ cái tên đó thật cẩn thận trong đầu, và quả nhiên, những gợi ý đầu tiên về ký ức ấy ồ ạt theo chân nó hiện ra ánh sáng: một sảnh khách sạn; một căn hộ nhỏ ngột ngạt. Cảm giác giống như đang cố nhớ lại một giấc mơ. Anh có làm tình với cô chứ? Alex nghĩ là có, hầu như tất cả các cuộc hẹn thời kỳ đầu đều đã kết thúc với sex - một điều thật khó mà ngẫm nghĩ được trên chiếc giường ngủ chung ngập ngụa mùi em bé và lớt phớt màu hóa chất của tã tự hủy ở nhà anh. Nhưng Sasha quyết không nhượng bộ với vấn đề tình dục; chừng như cô nháy mắt với anh (đôi mắt xanh lục?) rồi lẩn mất.
u herd th nUs? Alex đọc trên handset vào một đêm muộn, khi anh ngồi ở chỗ quen thuộc bên cửa sổ.
yup i herd[28]
“Tin mới” là Bennie đã chuyển concert của Scotty Hausmann ra ngoài trời, tới tòa nhà Footprint, một sự thay đổi đòi hỏi các parrot ngẫu nhiên của Alex phải vươn xa hơn (nhưng thù lao không tăng) để bất cứ người tham dự concert tiềm năng nào cũng sẽ biết nơi cần đến.
Bennie đã nói với Alex về sự thay đổi địa điểm từ trước đó, qua điện thoại: “Scotty không khoái những không gian khép kín. Tôi đang nghĩ có thể anh ấy sẽ hạnh phúc hơn ở không gian mở.” Đây là đợt tấn công mới nhất của những đòi hỏi gia tăng và những yêu cầu đặc biệt. “Anh ấy là một người cô độc” (Bennie, giải thích chuyện Scotty cần một xe moóc). “Anh ấy mệt mỏi khi giao tiếp” (tại sao Scotty từ chối phỏng vấn). “Anh ấy ít khi ở bên trẻ con” (tại sao Scotty khó chịu với “tiếng ồn nhấp trỏ”). “Anh ấy cảnh giác với công nghệ” (tại sao Scotty từ chối tạo dòng hoạt động hay trả lời các T người hâm mộ gửi qua trang mà Bennie đã lập cho ông ta). Ảnh của ông ta trên trang đó - tóc dài, vui nhộn, cười ngoác cả hai hàm răng sứ, và bao bọc xung quanh toàn là những quả bóng màu sặc sỡ - gây ra cảm giác bực bội râm ran mỗi khi Alex nhìn vào ông ta.
wat nxt? Anh T lại cho Lulu. oystrs?
only Ets chInEs
!
...
tel me hEs betr in prsn nevr met 4 rEl?? shy #@&*
...[29]
Rõ ràng là những cuộc trò chuyện như thế này có thể lắt léo, và trong những khoảng lặng mà Alex giám sát các parrot ngẫu nhiên của mình: kiểm tra trang của họ và dòng hoạt động mà họ khuếch trương những ủng hộ của công chúng với Scotty Hausmann, cho những kẻ trốn việc vào danh sách “người vi phạm”. Anh chưa bao giờ gặp hay thậm chí nói chuyện với Lulu kể từ cuộc gặp của họ ba tuần trước; cô là một người sống trong túi quần anh, người mà anh đã cài cho một kiểu rung đặc biệt.
Alex ngước mắt lên. Giờ đây công trường xây dựng đã che mất nửa dưới các cửa sổ nhà anh, bóng tối lởm chởm những xà dầm ống sắt của nó mà phía trên đó vẫn còn trông thấy chóp nhọn của Empire State Building. Chỉ mấy ngày nữa thôi, chóp nhọn ấy sẽ biến mất. Cara-Ann đã sợ hãi khi công trình nhung nhúc công nhân đó bắt đầu lộ bộ dạng gớm ghiếc của nó lên bên ngoài cửa sổ nhà họ, thế nên Alex đã nỗ lực tuyệt vọng để pha trò. “Tòa nhà mọc lên!” - Anh nói thế hằng ngày, như thể tiến trình ấy rất đáng mong chờ, phấn khích, và Cara-Ann làm theo anh, vỗ tay cổ vũ - “Lên! Lên!” up gOs th bldg, lúc này anh T cho Lulu, nhận thấy lời nựng trẻ con tự nó có thể dễ dàng phù hợp với khoang T đến vậy.
...bldg? Lulu nhắn lại. nxt 2 myn. no mOr Ar/lyt cn u stp it?
tryd cn u move?
stuk nyc[30], Lulu viết, một từ thoạt đầu khiến Alex bối rối; lời chế nhạo này không giống con người cô. Rồi anh nhận ra, cô không nói “nice”. Cô nói “New York City.”
Ngày diễn ra concert trời ấm “một cách vô lý”: 89°F và khô, với ánh sáng vàng rực rọi nhức mắt họ và kéo bóng của họ ra dài đến nực cười. Những hàng cây, nở hoa rực rỡ trong tháng một, giờ đây ngập ngừng ra chồi. Rebecca đã nhồi Cara-Ann vào chiếc váy từ hè năm ngoái, có một con vịt phía trước, và cùng với Alex, họ đã nhập vào đám đông những gia đình trẻ khác trên sân thượng tòa nhà chọc trời trên Sixth Avenue, Cara-Ann cưỡi trên lưng Alex trong cái bọc bằng titan mà anh mới mua để thay cho cái địu. Xe đẩy bị cấm ở những nơi tụ tập công cộng vì cản trở lưu thông.
Alex đã ngẫm nghĩ mãi xem làm cách nào để tiết lộ được về concert này với Rebecca, nhưng cuối cùng anh chẳng cần phải nói; một đêm anh lướt handset khi Cara-Ann đã ngủ, vợ anh nói: “Scotty Hausmann... đó là người mà Bennie Salazar đã mở cho chúng ta nghe, phải không?”
Alex cảm thấy như có một vụ nổ nhỏ bên tim mình. “Chắc thế. Sao vậy?”
“Em nghe suốt về concert miễn phí mà ông ấy tổ chức vào thứ bảy này ở Footprint, cho cả trẻ con và người lớn.”
“Ừ.”
“Biết đâu cho anh cơ hội gặp lại Bennie đấy.” - Cô vẫn đau lòng, thay cho Alex, vì Bennie đã không thuê anh. Điều này khiến lòng Alex thắt lại cảm giác có lỗi mỗi lần nói tới chủ đề này.
“Phải” - anh đáp.
“Thế thì chúng ta đi đi” - cô nói. - “Tại sao không, khi mà nó miễn phí?”
Nơi vốn là Fourteenth Street, các tòa nhà chọc trời đã bị phá bỏ, và mặt trời nghiêng nghiêng chiếu phía trên họ, vẫn còn quá thấp trên bầu trời tháng hai để phải che chắn bằng mũ lưỡi trai. Trong ánh sáng, Alex suýt không nhận ra người bạn cũ Zeus, rồi cố gắng tránh mặt anh ta - Zeus là một trong những parrot ngẫu nhiên của anh. Quá muộn rồi; Rebecca đã gọi tên anh ta. Cô bạn gái người Nga của Zeus, Natasha, đang đi cùng anh, mỗi người địu một đứa trong cặp sinh đôi sáu tháng tuổi của họ.
“Cậu đang đi nghe Scotty đấy à?” - Zeus hỏi, như thể Scotty Hausmann là một nhân vật cả hai người bọn họ đều biết.
“Ừ” - Alex e dè đáp. - “Còn cậu?”
“Ôi trời ơi” - Zeus nói. - “Một nghệ sĩ lap steel guitar với slide, cậu chưa bao giờ nghe trực tiếp concert nào à? Mà thậm chí không phải chúng ta đang nói về rockabilly đâu đấy.” Zeus làm việc cho một ngân hàng máu và trong thời gian rảnh anh ta hỗ trợ trẻ em bị Down làm và bán áo nỉ in. Alex tìm kiếm trên gương mặt Zeus dấu hiệu ẩn khuất của một parrot, nhưng bạn anh có vẻ như đồng nhất từ ngoài cho tới tận đáy tâm hồn, nơi anh đã cất giữ bao nhiêu năm tháng, kể từ khi chúng trở nên lỗi thời.
“Nghe đâu anh ấy diễn live hay lắm” - Natasha nói với giọng nặng trịch.
“Tôi cũng nghe thế” - Rebecca nói. - “Từ khoảng tám người khác nhau. Lạ thật.”
“Không lạ đâu” - Natasha nói, cười gằn. - “Người ta được trả tiền đấy.” Alex thấy mặt nóng bừng và không thể nhìn thẳng vào Natasha. Tuy nhiên, rõ ràng là cô nói mà không hay biết gì; Zeus đã giữ bí mật vai trò của mình.
“Nhưng đó là những người tôi quen” - Rebecca nói.
Đó một ngày trong những ngày tháng mà mọi giao lộ đều làm xuất hiện một gương mặt quen khác nữa, bạn cũ và bạn của bạn, người quen biết, và cả những người chỉ trông quen quen. Alex đã sống ở thành phố này đủ lâu để biết tất cả bọn họ: Từ những club mà anh từng làm DJ? Văn phòng luật nơi anh từng làm thư ký? Sân bóng rổ tự phát mà anh chơi suốt nhiều năm ở Tompkins Square Park? Anh đã cảm thấy mình sẽ sớm rời khỏi New York kể từ ngày anh mới đến, năm hai mươi tư tuổi - ngay cả bây giờ, anh và Rebecca lúc nào cũng lửng lơ trên dây, mong đợi một công việc tốt hơn kèm theo nơi sống rẻ hơn - nhưng chẳng hiểu sao, năm tháng xoay sở trôi qua đã đủ dài để anh cảm thấy như thể mình đã gặp từng người ở Manhattan ít nhất một lần. Anh tự hỏi không biết Sasha có ở đâu đó trong đám đông này. Alex thấy mình đảo mắt tìm kiếm khắp những khuôn mặt láng máng quen để tìm cô dù chẳng biết cô trông thế nào, như thể phần thưởng của anh khi nhận ra được Sasha, sau bấy nhiêu năm, sẽ là có được câu trả lời cho câu hỏi đó.
Anh xuống phố đấy à?... chúng tôi nghe tin này... không chỉ cho các pointer đâu... nghe đâu ông ấy sẽ biểu diễn live...
Sau chín hay mười câu trao đổi kiểu này, nghe được quanh Washington Square, Alex bỗng hiểu ra rằng tất cả mọi người, người làm cha mẹ và người không con, người độc thân và người có đôi, cong và thẳng, trơn tru và đeo khuyên, đều đang trên đường đi nghe Scotty Hausmann. Không sót một ai. Khám phá này phủ chụp lấy anh một nỗi hoài nghi, theo sau là con sóng quyền lực và sự sở hữu - anh đã tạo ra nó, Chúa ơi anh là một thiên tài trong việc này - theo sau là cảm giác buồn nôn (đây là một thắng lợi mà anh chẳng lấy làm tự hào), theo sau là nỗi sợ: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Scotty Hausmann không phải là một nghệ sĩ xuất chúng? Sẽ thế nào nếu ông ta tầm thường, hoặc tệ hơn? - theo sau là một liều thuốc tự thoa dưới dạng thức một T trong não: no 1 nOs abt me. Im invysbl[31].
“Anh ổn chứ?” - Rebecca hỏi.
“Ừ. Sao?”
“Anh có vẻ căng thẳng.”
“Thật à?”
“Anh đang siết tay đấy” - cô nói. - Rồi mỉm cười dưới cái kính có viền giống đường thùa khuyết, nói thêm - “Đáng yêu lắm.”
Khi họ băng qua Canal và tiến vào Lower Manhattan (nơi giờ đây có mật độ trẻ con cao nhất cả nước), Alex, Rebecca và Cara-Ann hòa vào một đám người đông nghẹt tràn khắp vỉa hè và khắp các con đường. Giao thông ngưng trệ, xe mô tô chopper đang ùa tới trên đầu họ, xé không trung bằng một âm thanh mà những năm đầu dạng xe này xuất hiện Alex không thể chịu nổi - quá to, quá ồn - nhưng qua thời gian anh đã dần quen: cái giá của sự an toàn. Ngày nay tiếng gào rú tuần tra của chúng có vẻ hợp lý lạ lùng - Alex nghĩ, liếc nhìn quanh biển địu trước địu sau và những đứa trẻ lớn hơn thì cõng đứa nhỏ - chẳng phải đây là một dạng quân đội sao? Một đội quân trẻ em: hóa thân của niềm tin vào những con người chưa từng biết đến mất mát.
if thr r childrn, thr mst b a fUtr, rt?[32]
Trước mặt họ, các tòa nhà mới ấy xoắn ốc lộng lẫy in trên nền trời, đẹp hơn nhiều so với các tòa nhà cũ (mà Alex chỉ được thấy qua tranh ảnh), giống công trình nghệ thuật hơn là tòa nhà, vì chúng trống không. Khi tiến vào trong chúng, đám đông bắt đầu chậm lại, dồn vào nhau khi những người đi trước tiến vào khoảng trống nằm giữa hồ bơi lấp lóa, mật độ cảnh sát và bảo vệ (có khả năng nhận dạng mọi người bằng handset chính phủ) tăng vọt đột xuất, cùng với các thiết bị dò quét thị giác gắn vào các gờ trần nhà, cột đèn, và cây cối. Sức nặng của những chuyện đã xảy ra ở đây hơn hai mươi năm trước vẫn còn hiện diện lờ mờ với Alex, như nó vẫn luôn thế mỗi khi anh bước vào Footprint. Anh cảm nhận về nó như một âm thanh ngoài tầm nghe, sự rung của một nhiễu loạn cũ. Lúc này đây nó dường như kéo dai dẳng hơn bao giờ hết: một tiếng ngân trầm sâu thẳm thoạt đầu nghe rất quen, như thể nó đang cuộn bên trong tất cả những âm thanh mà Alex đã tạo ra và thu nhận qua bấy nhiêu năm: mạch đập ngầm của chúng.
Rebecca siết chặt bàn tay của anh, những ngón tay mảnh mai của cô ẩm ướt. “Em yêu anh, Alex” - cô nói.
“Đừng nói điều đó như thế. Như thể có chuyện gì xấu sắp xảy ra vậy.”
“Em đang căng thẳng” - cô nói. - “Giờ em cũng thấy căng thẳng.”
“Đó là vì chopper” - Alex nói.
“Tốt lắm” - Bennie lầm bầm. - “Đợi ngay đó nhé, Alex, nếu cậu không phiền. Ngay bên cạnh cửa.”
Alex đã để Rebecca và Cara-Ann cùng bạn bè của họ giữa một đám đông đã tăng lên tới mấy nghìn người, ai nấy đều kiên nhẫn chờ đợi - rồi bớt kiên nhẫn - khi thời gian khai mạc concert đến rồi trôi qua, quan sát bốn nhân viên thiết bị tỏ vẻ bồn chồn trong khi bảo vệ sân khấu được dựng cao lên, nơi đáng lẽ lúc này Scotty Hausmann đã phải biểu diễn. Sau một T từ Lulu cho biết Bennie cần hỗ trợ, Alex đã len lỏi qua một rừng kiểm tra an ninh để tới chỗ xe moóc của Scotty Hausmann.
Bên trong, Bennie và một nhân viên thiết bị già nua đang ngồi gò lưng trên ghế gấp màu đen. Không thấy bóng dáng của Scotty Hausmann đâu. Cổ họng Alex khô cong. Im invsbl, anh nghĩ.
“Bennie, nghe tôi này” - ông già kia nói. Hai tay ông ta run rẩy dưới cổ tay của chiếc áo sơ mi sọc vuông.
“Cậu có thể làm chuyện này” - Bennie nói. - “Tôi đang nói với cậu đấy.”
“Nghe tôi đã, Bennie.”
“Đứng yên bên cửa, Alex” - Bennie nói lại, và ông có lý - Alex đã định bước lại gần hơn, để hỏi Bennie nghĩ ông đang cố làm cái quái gì: Đặt ông già hom hem này vào vị trí của Scotty Hausmann? Để đóng vai người đó? Một kẻ mà hai má trũng sâu và hai tay đỏ lựng nhăn nheo tới nỗi trông như ông đánh một ván bài còn khó, nói gì tới đánh một nhạc cụ lạ lùng cuốn hút mà ông phải kẹp giữa hai đầu gối? Nhưng khi Alex chạm mắt vào dụng cụ đó, anh bỗng hiểu ra, với một cơn sợ hãi trào lên trong dạ: Ông già hom hem này chính là Scotty Hausmann.
“Mọi người đều ở đây” - Bennie nói. - “Mọi sự đang tiến triển. Tôi không thể dừng lại được.”
“Quá muộn rồi. Tôi đã quá già. Tôi chỉ... tôi không thể.”
Giọng Scotty Hausmann nghe như vừa khóc hoặc sắp khóc - có thể là cả hai. Ông ta có mái tóc dài ngang vai vuốt ra sau và đôi mắt trống rỗng khinh khi, tất cả những điều đó gộp thành ấn tượng về một kẻ lang thang, dù ông ta đã cạo râu. Tất cả những gì Alex nhận ra là hàm răng của ông ta: trắng bạch và lấp lánh - khiến ta bối rối, như thể chúng biết ta chỉ có thể làm bấy nhiêu nữa thôi với khuôn mặt rã rời này. Và Alex hiểu rằng Scotty Hausmann không tồn tại. Ông là một vỏ bọc từ ngữ trong hình dạng con người: Một cái vỏ mà đặc tính của nó đã biến mất.
“Cậu có thể, Scotty, cậu phải làm” - Bennie nói, với vẻ bình tĩnh như thường, nhưng qua mái tóc bạc mỏng của ông, Alex thấy mồ hôi lấm tấm trên đỉnh đầu. “Thời gian là một kẻ khủng bố, phải không? Cậu sẽ không để hắn xô ngã cậu chứ?”
Scotty lắc đầu. “Kẻ khủng bố ấy đã thắng.”
“Cậu đã tới chỗ tôi, Scotty, nhớ chuyện đó không?” - Bennie nói. - “Hai mươi mấy năm chết tiệt về trước, cậu tin nổi đã lâu thế rồi không? Cậu mang cho tôi một con cá.” “Ừ.”
“Tôi đã nghĩ cậu sẽ giết tôi.”
“Đáng lẽ là thế đấy” - Scotty nói. Rồi cười khan một tiếng. - “Tôi đã muốn thế.”
“Và khi tôi bĩ cực, khi Steph quẳng tôi ra đường và tôi bị sa thải khỏi Sow’s Ear - tôi đã lần tìm cậu. Và tôi đã nói gì? Cậu nhớ không, khi tôi tìm ra cậu đang câu cá ở East River? Bất ngờ chứ? Tôi đã nói gì?” Scotty lẩm bẩm gì đó.
“Tôi đã nói: ‘Đã tới lúc cậu trở thành một ngôi sao.’ Và cậu đã nói gì với tôi?” - Bennie ghé sát vào Scotty, nắm lấy cổ tay run rẩy của ông ta trong tay mình, bàn tay thanh lịch hơn nhiều, và nhìn sâu vào mặt ông ta. - “Cậu đã nói: ‘Tôi thách cậu đấy.’”
Một khoảng im lặng kéo dài. Rồi, bất ngờ, Scotty đứng lên, hất nghiêng cái ghế khi ông ta lao ra cửa xe moóc. Alex đã sẵn sàng bước qua bên cho ông ta đi qua, nhưng Scotty tới nơi trước và bắt đầu cố xô anh ra khỏi lối đi, tới đây thì Alex nhận ra nhiệm vụ của mình - lý do duy nhất mà Bennie đã bảo anh đứng đó - là khóa cửa lại không cho ca sĩ này chạy trốn. Họ vật lộn trong sự im lặng giận dữ, khuôn mặt nhăn nheo của Scotty gần mặt Alex tới nỗi anh hít cả hơi thở của ông ta, có mùi bia, hoặc mùi hơi của bia.
Rồi anh sửa lại ý kiến của mình: rượu thảo mộc Jägermeister.
Bennie chộp lấy Scotty từ phía sau, nhưng đó không phải là sự níu giữ - Alex khám phá ra điều này khi Scotty xoay sở quay lại được và thụi đầu vào huyệt đan điền của ông. Alex thở hổn hển và gập người xuống. Anh nghe thấy Bennie lẩm bẩm với Scotty như thể đang cố kiềm chế một con ngựa.
Khi ông thở lại được, Alex cố gắng tư vấn một lời với ông chủ của mình. “Bennie, nếu ông ấy không muốn...”
Scotty quay ngoắt lại nhắm vào mặt Alex, nhưng Alex đã lao nhanh qua bên và cú đấm của tay nhạc sĩ đâm sầm vào cửa xem mỏng mảnh. “Bennie, chuyện này có vẻ như là một kiểu...”
Scotty vùng thoát khỏi Bennie và thụi đầu gối vào hạ bộ của Alex, khiến anh ngã sụp xuống sàn nhà trong cơn đau thắt ruột. Scotty đá anh qua một bên rồi bật mở cửa.
“Xin chào” - một giọng từ bên ngoài vang lên. Một giọng cao, trong, hơi quen quen. - “Tôi là Lulu.”
Trong cơn đau phát điên, Alex cố gắng quay được đầu lại và nhìn xem chuyện gì đang xảy ra bên ngoài xe moóc. Scotty đang đứng im ở bậc cửa, nhìn xuống. Ánh nắng mùa đông nghiêng nghiêng làm tóc Lulu rực lên, tạo nên bao nhiêu hào quang quanh cô. Cô đang chặn lối đi của Scotty, hai tay đặt hai bên lan can cầu thang bằng kim loại mỏng. Scotty có thể dễ dàng hạ gục cô, nhưng ông không làm thế. Và trong sự ngập ngừng, nhìn suốt hơn một giây xuống cô gái xinh đẹp đang chặn lối đi ấy, Scotty thất bại.
“Tôi đi cùng ông được không?” - Lulu hỏi.
Bennie đã trườn tới lấy được cây guitar, giờ đưa cho Scotty qua tấm thân nghiêng ngả của Alex. Scotty cầm lấy nhạc cụ, áp vào ngực, hít một hơi dài rung chuyển. “Chỉ khi em khoác tay tôi, em yêu” - ông ta đáp, và một phiên bản ma trơi của Scotty Hausmann nháy mắt với Alex từ những gì còn sót lại, quyến rũ và ngang tàng.
Lulu khoác tay Scotty, và họ đi thẳng qua đám đông: Ông già lẩn thẩn đó cầm cái nhạc cụ dài, lạ lùng, và cô gái trẻ cỡ tuổi con gái ông. Bennie kéo Alex đứng lên, rồi họ đi theo, hai chân Alex ướt đẫm và co cứng. Cùng lúc đó biển người cũng dạt ra, rẽ một lối đi tới sân khấu, nơi đã đặt sẵn một cái ghế và mười hai micro khổng lồ.
“Lulu” - Alex nói với Bennie, rồi lắc lắc đầu.
“Cô ấy sẽ điều khiển thế giới này” - Bennie nói.
Scotty lên sân khấu và ngồi xuống ghế. Không hề liếc nhìn khán giả và không một lời giới thiệu, ông bắt đầu chơi “I Am a Little Lamb” một bản nhạc mà sự thơ trẻ đã thành ra trái ngược dưới nét chạm khắc bập bùng của cây slide guitar, sự phức tạp réo rắt cuồn cuộn của nó. Tiếp theo ông chơi “Goats Like Oats” và “A Little Tree Is Just Like Me.” Bộ khuếch đại chuẩn và mạnh đủ để lấn át tiếng chopper ầm ầm và lan tỏa âm thanh tới tận những ngóc ngách xa nhất của đám đông, nơi ẩn khuất giữa các tòa nhà. Alex lắng nghe mà lòng co rúm lại, chờ tiếng gào rống xua đuổi từ hàng nghìn người mà anh đã bí mật xoay sở đưa họ tụ tập về đây, thiện ý của họ đã bị đánh thuế bằng việc phải chờ đợi lâu. Nhưng chuyện đó không xảy ra; các pointer, vốn đã biết các bài hát này, vỗ tay và hú hét tán thưởng, người lớn thì dường như thích thú, đắm mình trong các lời hát ý nhị và ẩn dụ, thứ vốn không khó nhận ra. Và rất có thể là một đám đông ở một th?