← Quay lại trang sách

Chương XI

dịch giả: nguyễn văn dương

Chương XI

hực tế rõ ràng là Talbert Vandling, biện lý tại quận Fresno, dẫu có phạm bất kỳ sai sót gì trong phiên tòa sắp tới, nhưng nhất quyết sẽ không thể nào phạm cái lỗi là đánh giá thấp đối thủ của mình là Perry Mason.

Vandling, con người vốn trầm tĩnh, thoải mái, lịch sự, rất cẩn trọng và đầy cảnh giác, bắt đầu đưa vụ án ra trước tòa với tất cả sự cẩn thận chu đáo tuyệt vời khiến lần này có tính cách một phiên tòa trước một hội đồng thẩm phán chứ không phải chỉ là một phiên tòa vụ sơ thẩm trước một vị thẩm phán độc nhất. Ông nói:

- Nhân chứng đầu tiên của tôi là George Medfold.

George Medfold hóa ra là một chú bé chín tuổi, mặt đầy tàn nhang, trông luống ca luống cuống, cặp mắt lồi, tai vểnh, nhưng gây được cái ấn tượng là sẽ nói trung thực.

Vandling hỏi:

- Em ở đâu?

- Ở Crampton.

- Em ở đó bao lâu rồi?

- Ba năm.

- Em đang ở với bố mẹ?

- Vâng ạ.

- Bố tên gì?

- Martin Medfold.

- Bố làm nghề gì?

- Bố em coi một trạm phục vụ.

- Ở Crampton?

- Vâng ạ.

- Này em George này, tôi xin hỏi là em có cùng đi với bố vào ngày mười ba vừa rồi đến một chỗ cách Crampton năm cây số không?

- Thưa có!

- Em quen thuộc cái chỗ ấy chứ?

- Vâng ạ.

- Nó nằm ở đâu?

- Trên một cái đồi ở chỗ gần giống như bụi cây, na ná vậy. Ông biết đấy, có những cây sồi con còn sống và một số bụi cây thấp. Cháu không rõ, chắc đó là cây ngái đắng hay cây gỗ dâu gì đấy. Thưa ông, đó chỉ là một bụi cây thôi.

- Trước đây em đã ra đó lần nào chưa?

- Thưa rồi.

- Em đi ra bằng gì?

- Xe đạp.

- Có ai cùng đi với em không?

- Có ạ.

- Ai?

- Jimmy Exton.

- Jimmy Exton trạc tuổi em?

- Lớn hơn sáu tháng.

- Chú ấy đi ra đó bằng gì?

- Đi xe đạp của nó.

- Này, thế em ra đó làm gì vậy hở George? Em làm gì ở ngoài ấy?

- Ồ, ra chơi thôi mà.

- Sao em lại ra tận đó chơi?

- Ấy, chỗ ấy đi xe đạp rất tốt. Gần đó có con lộ ít khi có ô-tô qua lại. Người lớn ở đấy không muốn bọn cháu đi xe ở ngoài xa lộ, vì sợ xe với lại... Ấy bọn cháu thường đi ra ngoài ấy. Trên ngọn đồi có một ngôi nhà cũ, người ở đấy đã đi nơi khác, hoặc sao đó, mà căn nhà thì đã bị đổ nát với lại... Ồ, chúng cháu vẫn thường đi ra đó tìm bắt trứng chim, chơi giỡn và nói chuyện gẫu.

- Các cháu ra chơi ngoài đó bao lâu rồi?

- Ồ, khoảng chừng sáu, bảy, tám tháng gì đó.

- Thế cháu có thấy một cái hố đã được đào sẵn ở đó không?

- Thưa có.

- Cháu thấy cái hố lúc nào?

- Ấy, lần đầu cháu thấy là vào thứ Sáu.

- Có phải là thứ Sáu tuần trước, ngày mồng chín? - Vandling hỏi.

- Thưa phải, cháu chắc thế. Ngày mồng chín. Phải đấy.

- Thế cháu ra đó khoảng nào trong ngày hôm ấy?

- Đâu khoảng chiều, chừng ba hay bốn giờ gì đấy.

- Cháu thấy gì?

- Bọn cháu thấy cái hố đó.

- Cháu có thể tả cái hố ấy được không?

- Cái hố lớn lắm.

- Lớn cỡ nào, cháu? Quan trọng đấy nhá. Cháu có thể đưa tay cho thấy cỡ chừng nào không?

Thằng bé dang hai tay ra. Vandling nói:

- Vậy là rộng khoảng một mét rưỡi. Thế dài chừng nào?

- Dài đủ một người nằm xuống dưới đó mà vẫn còn dư.

- Cháu định nói nằm dạng thẳng người ra phải không?

- Vâng ạ.

- Sâu chừng nào?

George đứng lên và đưa bàn tay lên gần ngang với bụng mình:

- Sâu tới ngang chỗ này này.

- Cháu có ra ngoài ấy vào ngày thứ Năm, tức ngày mồng tám không?

- Không ạ.

- Thế cháu có ra đấy vào ngày thứ Tư, tức ngày mồng bảy?

- Có ạ.

- Lúc ấy đã có cái hố chưa?

- Chưa ạ.

- Ở chỗ cái hố có gì?

- Chỉ thấy toàn đất không.

- Thế lúc cháu ra đấy, vào ngày thứ Sáu, lúc bốn giờ, đã thấy cái hố ở đó rồi?

- Vâng ạ.

- Hố ấy đã được đào xong?

- Vâng ạ.

- Cái hố trông ra sao?

- Cái hố đó trông thật khéo.

- Cháu bảo sao?

- Ấy, hố đã được đào sẵn bằng thuổng nên nó thẳng sâu xuống. Bốn bên đều thẳng đứng, các góc hố ngay ngắn rõ ràng. Trông khéo lắm.

- George này, đất lấy dưới hố đó được dùng làm gì vậy?

- Đất đào ở dưới hố lên được để chất đống trên khắp mọi phía.

- Phía nào?

- Cả hai phía.

- Cháu định nói không phải ở đầu và cuối hố mà hai bên mặt hố thôi chứ gì?

- Vâng ạ.

- Thế đáy hố ra sao?

- Trông đẹp và phẳng. Cái hố trông ngon lành lắm.

- Vậy ra cái hố này có ở đó hôm thứ Sáu, ngày mồng chín, vào buổi chiều.

- Vâng.

- Chưa thấy có cái hố ở đó vào ngày thứ Tư?

- Đúng thế ạ.

- Ngày thứ Bảy cháu cũng ra ngoài đó chứ?

- Vâng.

- Các cháu làm gì?

- Chúng cháu chơi ở dưới cái hố ấy.

- Làm sao các cháu chơi ở dưới hố được?

- Ồ, chúng cháu nhảy xuống dưới chơi, coi như đó là cái đồn, chúng cháu nằm xuống để trốn và chờ xem chim có đến gần hay không... Ấy, chúng cháu chơi thôi chứ chẳng có làm gì khác.

- Ngày Chủ nhật các cháu có ra đấy không?

- Thưa không.

- Ngày thứ Hai các cháu có ra đấy không?

- Thưa không.

- Thế ngày thứ Ba, tức ngày mười ba, các cháu có đi ra đó không?

- Ngài muốn nói ngày thứ Ba tuần vừa rồi.

- Phải.

- Vâng, chúng cháu có ra đó.

- Có chuyện gì lạ không?

- Ấy, cái hố bị lấp đất.

- Thế lúc ấy cháu làm gì?

- Ấy, cháu nói với bố cháu rằng...

- Đừng để ý đến chuyện nói với ai những gì cả, George a. Cháu đã làm gì nào?

- Ấy, chúng cháu chơi.

- Rồi sau đó.

- Sau đó chúng cháu về nhà.

- Cháu có quay trở lại ngày hôm đó không?

- Thưa có.

- Bao lâu sau đó thì cháu quay trở ra lại?

- Khoảng một giờ sau.

- Ai đi cùng với cháu?

- Bố cháu và Jimmy.

- Bố cháu là Martin Medfold, người hiện đang có mặt ở tòa.

- Vâng ạ.

Vandling nói:

- Đủ rồi.

Mason nói:

- Không có gì để chất vấn, ít ra là vào lúc này. Thưa ngài, tôi xin phép phát biểu rằng với số nhân chứng này, ở nơi mà việc làm chứng chưa có tầm quan trọng cụ thể, thì tôi xin lần sau được mời họ để chất vấn nếu rõ ràng việc làm chứng này quả có liên quan mật thiết tới những vấn đề xét ra là quan trọng đối với trường hợp của bị can.

Vandling nói:

- Tất cả các nhân chứng ở đây đều rất quan trọng. Tôi có thể bảo đảm với tòa và quý ông trạng sư về điều này. Tôi cũng xin bảo đảm với ông trạng sư rằng phía công tố cũng rất quan tâm như bên biện hộ cho bị cáo là làm sao nắm cho được thực tế của sự việc, và chúng tôi sẽ không phản đối việc luật sư cho gọi lại bất cứ nhân chứng nào thấy cần để chất vấn vào bất cứ lúc nào, miễn là việc chất vấn phải liên quan tới vụ việc.

Thẩm phán Siter, chánh án điều khiển phiên tòa nói:

- Đồng ý, tòa sẽ quan tâm đến việc này theo pháp định. Bên biện hộ có quyền đó.

Vandiing nói:

- Nhân chứng tiếp theo của tôi là Martin Medfold.

Martin Medfold xác nhận mình là cha của chú bé George, vào buổi chiêu ngày mười ba, chú bé có trở về kể cho ông nghe chuyện cái hố đã bị lấp, ông đã quyết định sự việc này cần phải được tra xét, ông đã lấy một cái thuổng và lái xe ra đến nơi, đi cùng với ông có cậu con trai và Jimmy Exton, ông thấy lớp đất phủ trên chỗ chỉ định có hơi xốp và ông đã đào xuống. Xuống sâu gần một mét, ông chạm phải một vật hơi mềm, ông hất lớp đất ở đó đi và phát hiện chân của một người đàn ông. Lập tức, ông ngưng đào và vội bỏ đi gọi điện thoại cho ông Quận trưởng.

Vandling nói:

- Xin mời chất vấn.

Mason hỏi:

- Ông quay trở lại hiện trường cùng với ngài Quận trưởng?

- Vâng.

- Và đứng tại chỗ trong lúc cái hố được đào lên?

- Vâng.

- Ông có phụ sức trong việc đào hố không?

- Vâng, có.

- Thấy gì?

- Xác của một người đàn ông.

- Ăn mặc như thế nào?

- Mặc bộ đồ ngủ.

- Chỉ có thế thôi.

- Chỉ có vậy thôi.

Mason nói:

- Xin hết.

Viên Quận trưởng tiến ra chỗ đứng, kể lại việc cùng đi với hai viên phó quận đến tại địa điểm do Martin Medfold chỉ. Tại đấy họ đào lớp đất rõ ràng vừa mới được bỏ xuống hố, có nghĩa là lớp đất ấy chưa cứng. Nó mềm, mặc dầu đã được giẫm chặt khắp trên mặt hố.

Xác của Edward Davenport đã được phát hiện chôn dưới cái hố này. Xác đã được lấy ra và đem tới nhà xác. Một ngày sau, viên Quận trưởng quay trở lại và rất cẩn thận đào lớp đất rời để đo kích thước của cái hố lúc chưa lấp. Cái hố ở trong lớp đất còn cứng đủ để giữ lại các dấu vết đào trước kia, thấy rõ ràng là một cái hố rộng với kích tấc là bề một mét và bề hai mét, đã được đào rất kỹ lưỡng trước đó theo hình chữ nhật rất rõ.

Trả lời câu hỏi đặc biệt của Vandling, ông nói rằng ông đã thử cố tìm cho ra các dấu vết chôn người nhưng vì các dấu vết của bọn trẻ và của ông Martin Medford để lại lúc ông này đào, nên đã không tìm ra các dấu chân mà theo ông nghĩ rất có ý nghĩa.

Vandling nói:

- Xin mời chất vấn.

Mason nói:

- Cứ trong hiện tình, tôi không có gì để chất vấn vào lúc này.

Vandling lưu ý:

- Tất nhiên, quy định của tôi với trạng sư là nhằm tạo điều kiện cho ông để bảo vệ tốt các quyền lợi của thân chủ ông ta chứ không phải bị đặt vào thế bất ngờ. Đó chẳng phải là một lời mời có tính cách che giấu để bỏ qua tất cả câu chất vấn cho tới khi nào toàn bộ vụ án chúng ta đang xét xử được trình bày đầy đủ rồi mới gọi lại các nhân chứng đâu.

Mason nói:

- Tôi hiểu. Tôi xin bảo đảm với ngài biện lý là tôi sẽ không lợi dụng lòng tốt của ngài trong vụ này. Tôi chỉ gọi lại các nhân chứng là khi có một điểm đặc biệt nào đấy cần nắm vững.

Vandling nói:

- Cám ơn. Chỉ vậy thôi, thưa ngài Quận trưởng.

Bác sĩ Milton Hoxie là nhân chứng tiếp theo.

Ông trình bày tư cách của mình là một y sĩ, nhà giải phẫu và chuyên gia về chất độc. Ông xác minh rằng bản thân đã được mời để tiến hành cuộc xét nghiệm tử thi tại nhà xác vào chiều tối ngày mười ba. Do hoàn cảnh khách quan, ông đã không thực tế tiến hành cuộc xét nghiệm, mãi cho tới gần nửa đêm, tức là lúc ông có thể rời bỏ công tác khám bệnh của mình một thời gian khá lâu để có thể tiến hành cuộc xét nghiệm.

Ông đã thấy xác của một người đàn ông cao một mét bảy mươi tư, nặng bảy mươi ký, tuổi khoảng ba mươi lăm bị chứng xơ cứng động mạch, nhưng rõ ràng là bị chết vì đầu độc. Ông đã tiến hành một số thử nghiệm và đã tìm thấy có chất độc đặc biệt. Ông đi đến kết luận rằng cái chết xảy ra là do chất xi-a-nít pô-tát-xi-um. Trong lúc xét nghiệm, ông có ý kiến là người đàn ông này có lẽ chết đã hai mươi bốn hay hai mươi sáu tiếng đồng hồ.

Vandling đột ngột nói:

- Xin mời chất vấn.

Mason hỏi:

- Bác sĩ đã tiến hành cuộc thử nghiệm đặc biệt để tìm chất xi-a-nít pô-tát-xi-um?

- Vâng. Đầu độc bằng loại chất nước xi-a-nít.

- Thế còn những chất độc khác?

- Tôi đã thử tìm ác-xê-nít.

- Bác sĩ có tìm thấy chất đó không?

- Không. Không có.

- Bác sĩ tìm thấy có chút nào không?

- Không dù lượng để có ý nghĩa về mặt y khoa.

- Bác sĩ có tìm thấy chất độc nào khác không?

- Tôi không thấy. Không có.

- Các cơ quan bên trong cơ thể có được lấy ra không?

- Có chứ. Vâng, có.

- Bác sĩ xử lý những cơ quan này như thế nào?

- Chúng được gửi tới một phòng thử nghiệm tại Trường Đại học California để tiếp tục xét nghiệm.

- Hiện đã có báo cáo gì của đại học này gửi về chưa?

- Theo tôi biết thì chưa.

- Vậy thì bác sĩ đâu có biết rằng nạn nhân đã bị chết là do chất độc mà bác sĩ đã đề cập tới?

- Tôi biết rằng tôi đã tìm thấy đủ số lượng chất độc trong cơ thể để gây ra cái chết, vì thế tôi cho rằng cái chết này là do chất độc ấy gây ra.

- Tại sao bác sĩ gửi các bộ phận trong cơ thể nạn nhân tới Trường Đại học California?

- Tôi cần kiểm tra lại cho hoàn chỉnh.

- Bởi vì bác sĩ muốn tìm xem thử có chất độc nào khác nữa phải không?

- Tôi nghĩ việc cho kiểm tra để tìm xem có chất độc nào khác nữa không là một phương án tốt.

- Vậy là bác sĩ đã không thỏa mãn vì cái chết do chất xi-a-nít pô-tát-xi-um?

- Tôi thỏa mãn chứ. Nhưng tôi muốn xem thử còn có các yếu tố nào khác nữa chăng... có lẽ có những dấu hiệu của các giọt thuốc gây hiện tượng bất tỉnh, tạm gọi như thế, hay chất bác-bi-tuya-rát nào khiến cho sức đề kháng của nạn nhân bị giảm sút tới mức chất độc có thể đã được đưa vào cơ thể có tác dụng.

Mason cau mày suy nghĩ kỹ ý kiến này. Chánh án Siler nói:

- Cứ tiếp tục.

Mason nói:

- Xin phép ngài chánh án. Tôi nghĩ là sự kiện này mở ra một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở đây.

Chánh án Siler nói:

- Tôi chưa rõ.

Mason nói:

- Điều này cho thấy hiển nhiên là ngay từ đầu, văn phòng Quận trưởng đã có sẵn một lý thuyết nào đấy về cách sử dụng chất độc và có một cái gì đó trong những phát hiện của bác sĩ Hoxie rõ ràng không phù hợp với lý thuyết ấy.

Chánh án Siler nói:

- Ấy, quả tôi không nhận ra được chỗ đó. Hãy tiếp tục trình bày kết quả kiểm tra của ông.

Mason mỉm cười:

- Đúng như vậy. Thưa bác sĩ, có phải bác sĩ đã tìm các bằng chứng cho thấy là có chất sôcôla trong bao tử của nạn nhân không?

- Đúng thế. Tôi cố gắng kiểm tra rất kỹ các chất nằm trong bao tử.

- Bác sĩ đã tìm thấy gì?

- Tôi phát hiện là nạn nhân đã chết gần một tiếng đồng hồ sau khi đã ăn một bữa trứng thịt. Tôi không thấy lượng sôcôla đáng kể nào cả.

- Thế bác sĩ có xét nghiệm xác để tìm chất rượu trong máu không?

- Tôi đã làm như vậy.

- Bác sĩ thấy gì?

- Tôi thấy mười lăm phần nghìn rượu.

- Xin bác sĩ diễn tả chỗ này về mặt y học.

Bác sĩ Hoxie nói:

- Theo các nhà thẩm quyền, với lượng rượu một phần nghìn thì con người vẫn bình thường theo sự quan sát bình thường. Tuy nhiên, người đó đã bắt đầu cho thấy có một số dấu hiệu bằng chứng bị độc hại vì rượu theo y khoa, ở lượng rượu hai phần nghìn thì con người đó đã bị ngộ độc vì rượu. Họ có triệu chứng cảm xúc bất ổn, các khả năng kiềm chế của họ bị giảm rất nhiều. Với lượng ba phần nghìn thì có sự rối loạn rõ rệt, cử chỉ điệu bộ lảo đảo, nạn nhân nói lè nhè. Với lượng bốn phần nghìn thì có hiện tượng đờ đẫn mê man, khả năng phản ứng với kích thích bên ngoài bị giảm sút rõ và nạn nhân sắp bại liệt tới nơi.

Từ năm đến sáu phần nghìn, nạn nhân hoàn toàn bị hôn mê và hệ tuần hoàn bị hại. Sau khi có lượng sau phần nghìn rượu nằm trong máu thì nạan nhân có nguy cơ bị chết. C. W. Muchlberger đã lập ra một biểu đồ rất hấp dẫn. Một phần nghìn được gọi là “khô khan và đàng hoàng lịch sự”, hai phần nghìn được gọi là “hân hoan và yêu quý”, ba phần nghìn goi là “choáng váng và ngất ngư”, bốn phần nghìn là “sững sờ và tê tái”, năm phần nghìn là “túy lúy càn khôn”.

Mason hỏi:

- Thế thì trong xác, bác sĩ đã tìm thấy mười lăm phần nghìn rượu, bác sĩ có kết luận gì về hiện tượng ngộ độc vì rượu?

- Nạn nhân đã bắt đầu bị ngộ độc vì rượu. Ông ấy bước vào giai đoạn được Muchlberger mô tả là “hân hoan và yêu quý”.

- Chắc ông cảm thấy có tác dụng của rượu chứ?

- Chắc thế.

- Nạn nhân tất biểu lộ một số hiện tượng cho thấy có tác dụng này?

- Đối với người quan sát vô tâm thì có thể thấy như vậy. Còn người quan sát giàu kinh nghiệm thì chắc chắn là phải thấy rõ điều đó.

Mason nói một cách bình thản tự nhiên:

- Thưa bác sĩ, tôi cho rằng trong lúc bác sĩ quan tâm trước tiên đến việc xác định nguyên nhân của cái chết khi xét nghiệm xác, bác sĩ đã tiến hành một số bước để nhận dạng được cái xác chứ?

- Đúng thế. Tôi có thể nói rằng tôi đã có mặt lúc tiến hành các bước nhận dạng.

- Trong trí bác sĩ không thắc mắc gì về việc cái xác đó là của Edward Davenport chứ?

- Không thắc mắc gì cả.

- Cho phép tôi hỏi một câu hỏi có tính cách giả thuyết, bác sĩ nhé. Giả dụ rằng nạn nhân đã bị đầu độc bằng xi-a-nít pô-tát-xi-um dưới dạng một viên keo cụ thể như loại kẹo đã tìm thấy trong hộp để lẫn với đồ đạc của ông Davenport tại quán trọ ở Crampton, thì cái chết của ông ta diễn ra gần như ngay tức khắc, phải không ạ?

- Tất nhiên là rất nhanh.

- Nói cách khác, trong mỗi viên kẹo có đủ lượng xi-a-nít để gây ra cái chết gần như liền tức thời phải không?

- Ông Mason ạ, không phải là trong mỗi viên kẹo đều có cả đâu. Một số kẹo có chứa ác-xê-níc và...

- Tôi không có ý định nói bẫy ông, thưa bác sĩ. Tôi đang nghĩ đến các viên kẹo có chứa chất xi-a-nít.

- Điều đó là đúng. Vâng, đúng, thưa ông.

- Các triệu chứng và hiện tượng hôn mê phát triển diễn ra rất nhanh sau khi cơ thể thu nhận những lượng xi-a-nít như bác sĩ đã tìm thấy trong các viên kẹo có chứa xi-a-nít, có phải không ạ?

- Vâng, đúng thế.

- Thưa bác sĩ, vậy thì nếu như nạn nhân đã bị chết vì ăn phải một viên kẹo bị bỏ thuốc độc, liệu bác sĩ đã phát hiện ra chút ít sôcôla nào trong bao tử của ông ta chăng?

Bác sĩ Hoxie nói:

- Ấy, tất nhiên có một tình huống rất đỗi lạ lùng đây. Tôi cho là như thế.

- Thế bác sĩ có tìm thấy các bằng chứng nào là có chất sôcôla như thế không?

- Không.

- Bác sĩ ắt đã tin là sẽ tìm thấy một ít chất sôcôla nếu nạn nhân đã ăn một viên kẹo có chất độc chứ?

- Thật tình là tôi, tôi đã có ý tin là mình ắt sẽ tìm ra một mùi vị lạ... trừ phi nạn nhân có lẽ đã cắn sâu vào miếng kẹo có thể làm cho ông ta chết, nhưng ông đã nhả nó ra, tuy vậy ông cũng đã nuốt vào đủ chất nước có chất độc ở trong viên kẹo đó nên ông ta chết. Tôi cho rằng sự việc đã diễn ra như vậy, nhưng không thể tìm thấy bằng chứng trong cơ thể của nạn nhân để giúp tôi xác minh điều đó quả thực đã xảy ra. Tôi không hiểu làm sao mà ông ấy lại nuốt phải chất độc như tôi đã tìm thấy trong bao tử, trừ phi ông ấy đã ăn ít ra là trọn một viên kẹo.

- Vậy thì bác sĩ thực sự không biết nạn nhân bàng cách nào đã ăn phải chất độc khiến ông ta phải chết?

- Vâng, đúng thế.

- Ông ấy chết bao lâu rồi?

- Tôi không thể xác định. Tôi cho là đâu khoảng từ hai mươi bốn đến ba mươi sáu tiếng đồng hồ.

- Thưa bác sĩ, thế còn tình trạng gọi là chết cứng đờ?

- Lúc tôi tiến hành cuộc khám nghiệm thì hiện tượng chết cứng đờ đã thấy rõ ở hai bắp vế và đùi của nạn nhân, nhưng cổ và vai thì vẫn còn mềm.

- Thế còn tình trạng chết tím bầm thì sao?

- Hiện tượng này đã lan nhiều chỗ trên cơ thể, cho thấy sau khi chết, vị trí của xác chết vẫn không bị thay đổi, có nghĩa là trong vòng một thời gian ngắn sau khi chết.

- Theo chỗ tôi hiểu, thì hiện tượng chết cứng đờ diễn ra trước tiên ở mặt và hàm, sau đó dần dần lan xuống dưới.

- Đúng như thế.

- Và nó biến mất khỏi cơ thể cũng cùng một cách?

- Vâng, đúng.

- Hiện tượng chết cứng đờ bao lâu mới phát triển?

- Cái đó còn tùy. Nhưng bình thường thì từ tám đến mười hai tiếng đồng hồ.

- Thế trong trường hợp này hiện tượng chết cứng đờ không chỉ phát triển mà còn lan khắp thân mình, rồi nó biến mất dần? Có đúng vậy không?

- Điều đó rất đúng.

- Theo các vị có thẩm quyền, tôi tin rằng hiện tượng chết cứng đờ diễn ra khắp toàn thân nạn nhân coi như đã xảy ra chừng mười tám tiếng đồng hồ.

- Còn tùy.

Mason hỏi:

- Bác sĩ có thường đọc các bài của bác sĩ Le Moyne Snyder không ạ?

- Vâng, có.

- Tôi tin rằng trong quyển sách Điều tra về việc giết người, bác sĩ Le Moyne Snyder nghiên cứu một trường hợp giả thuyết như bác sĩ đã mô tả ở đây, lúc mà hiện tượng chết cứng đờ vẫn còn diễn ra rõ ràng ở bắp vế và hai chân, và nếu xác định tình huống như thế, sẽ thấy rằng cái chết đã xảy ra trước đó từ hai mươi chín đến ba mươi tư giờ.

- Tôi hoàn toàn quen với cách ước định thời gian của ông ấy trong trường hợp như vậy.

- Nhưng bác sĩ lại cho rằng như thế là rất đúng.

- Tôi muốn nói là nó có thể đúng lắm, quả như thế.

- Bác sĩ đang nhắc đến tình trạng của cái xác vào lúc tiến hành cuộc xét nghiệm?

- Đúng ạ.

- Tôi nhớ rằng bác sĩ có nói là cuộc giảo nghiệm được tiến hành vào khoảng nửa đêm?

- Vâng.

- Và bác sĩ đề cập tới tình trạng của cái xác vào lúc bác sĩ trông thấy nó?

- Vâng, đúng.

- Vậy thì, một cách đại thể, nạn nhân chắc chắn đã chết vào lúc từ hai giờ chiều cho đến bảy giờ tối ngày hôm trước, tức là vào thứ Hai, ngày mười hai. Điều đó đúng không ạ?

- Ấy, nói thế cũng đúng nếu ông có ý định dùng thời gian biểu như vậy, nhưng hiện tượng chết cứng vô cùng biến đổi. Nó tùy thuộc vào nhiệt độ, vào một số điều kiện. Tôi đã từng thấy hiện tượng này phát triển gần như ngay tức khắc, khi cái chết xảy ra sau một hồi vùng vẫy trong những điều kiện nhiệt độ...

- Có bằng chứng gì cho thấy nạn nhân đã vùng vẫy trong trường hợp này chăng?

- Không, không có.

- Bác sĩ không để tâm xác định thời gian cụ thể dựa vào hiện tượng xác cứng đờ phát triển như thế nào sao?

- Không hẳn như thế.

- Nhưng bác sĩ quả có biết rằng, một người có thẩm quyển chuyên môn như bác sĩ Le Moyne Snyder đã từng phát biểu là trong trường hợp bình thường thì sự phát triển của hiện tượng xác bị cứng đờ, như bác sĩ đã nhận thấy ở cái xác lúc ấy, tất đã cho thấy là cái chết đã xảy ra giữa quãng thời gian từ hai đến bảy giờ ngày hôm trước cơ mà?

- Vâng, đúng thế. Tôi đoán là như vậy đó.

- Không phải điều bác sĩ đoán, mà là điều mà bác sĩ biết rõ cơ?

- Vâng, điều đó là đúng.

- Bác sĩ có cho đây là hiện tượng phát triển chăng?

- Thật tình mà nói, tôi cho như thế.

- Tại sao vậy, bác sĩ?

- Bởi thực tế là có bác sĩ đã xác nhận thời gian xảy ra vụ chết người ở giữa khoảng hai và bảy giờ chiều ngày hôm trước, còn thời gian xác bị cứng lại thì chẳng thể thu hẹp cho rõ ràng chính xác. Bác sĩ Le Moyne Snyder và các nhà chức trách khác chỉ đề cập đến những trường hợp chung chung thôi. Họ không thể lập các quy luật để xác minh cụ thể nào. Họ chỉ nói theo các trường hợp chung trong khi đó chẳng có gì dễ dàng gạt ra, tôi có thể nói là chẳng có gì dễ dàng biến đổi theo các điều kiện lúc ấy, cho

bằng sự phát triển của hiện tượng xác bị cứng đờ.

- Bác sĩ có nắm vững các triệu chứng đầu độc bằng chất ác-xê-nít không?

- Có.

- Các triệu chứng ấy ra sao?

- Khái quát thì miệng và cổ của nạn nhân bị cháy phỏng. Bụng dưới bị co thắt kèm theo nôn mửa. Thường xảy ra hiện tượng tiêu chảy. Một số trường hợp các triệu chứng diễn ra hơi chậm, nhưng cứ theo luật chung, thì khi nạn nhân đã trúng phải chất độc, các triệu chứng lúc đầu phát triển rất nhanh.

Mason nói:

- Xin cảm ơn bác sĩ. Các câu hỏi thế là xong.

Vandling nói:

- Mời Harold Citus ra trước tòa.

Citus tiến ra trước, tuyên thệ và xác nhận rằng mình là phó quận, năng lực chuyên môn là nghiên cứu dấu vân tay, ông đã có mặt lúc phát hiện xác của Edward Davenport dưới huyệt cách Crampton chừng năm cây số, đã lấy dấu vân tay của người chết, so sánh dấu một ngón tay cái của người chết với dấu ngón tay cái trên bằng lái cấp cho Edward Davenport, và thấy hai dấu giống nhau.

Vandling hỏi:

- Trước đây ông đã tiến hành điều tra tại một bãi xe ở Crampton. Việc ấy có liên quan tới vụ này không?

- Tôi có làm công tác ấy. Vâng, có liên quan.

- Cuộc điều tra tiến hành vào lúc nào?

- Khoảng ba giờ rưỡi chiều ngày mười hai.

- Tức là thứ Hai trong tuần?

- Vâng.

- Ông đã phát hiện những gì?

- Tôi đã phát hiện một căn phòng bị khóa, bên trong được biết là có một cái xác chết, cửa phòng mở ra thì chẳng thấy cái xác nào ở trong cả. Không có ai ở trong phòng. Có một cửa sổ để mở và một tấm màn che cửa được kéo ra. Trong phòng có quần áo của đàn ông. Có một cái xắc tay, một hộp kẹo. Có một cái túi con đựng các giấy tờ tùy thân, cho thấy căn phòng này đã được thuê do một người mang tên là Edward Davenport.

- Vào lúc đó ông có gặp bị can đây, tức bà Myrna Davenport không?

- Thưa có.

- Bị can có nói với ông về lai lịch của người đàn ông đã ở trong căn phòng ấy không?

- Thưa có.

- Bà ta bảo người đàn ông đó là ai vậy?

- Edward Davenport, chồng bà ta.

- Bà ấy nói gì về tình trạng sức khỏe của ông ấy?

- Nói rằng lúc bà ta cùng người đồng hành là bà Ansel nào đấy đến nơi thì ông ấy đang hấp hối.

- Bà ấy có cho biết là bà và bà Ansel có được phép vào căn phòng đó không?

- Có. Bà ấy bảo rằng cả hai đi vào phòng, sau đấy bà ta rút lui, liền một lúc sau thì chồng bà bị nguy kịch hơn, ông ta thở rất yếu, chỉ còn thoi thóp, bác sĩ được gọi đến, ông này tuyên bố rằng bệnh tình của bệnh nhân rất nguy. Bác sĩ ở cạnh bệnh nhân lúc ông này chết. Rồi thì ông bác sĩ khóa cửa phòng lại sau khi tuyên bố rằng trường hợp chết của bệnh nhân rất đỗi kỳ dị khiến không thể ký giấy khai tử được.

- Bà ấy có nói gì khác nữa không?

- Bà ấy phát biểu một số câu cho biết là hành vi thái độ của ông bác sĩ khiến bà ta nghĩ rằng ông này đang cố ý kết tội mình đã giết chồng và bà rất tức giận về chuyện ấy.

- Thế lập trường của ông lúc bấy giờ ra sao?

Citus cười và nói:

- Chúng tôi đựợc biết Edward Davenport là một tay nghiện rượu. Chúng tôi đi vòng khu vực chung quanh và tìm được một nhân chứng, người này đã trông thấy một người mặc bộ đồ ngủ có mẫu hình đã tả, trèo ra cửa sổ phòng trọ ấy, chúng tôi tin rằng người này đã nốc rượu và đã bỏ đi trong lúc say bí tỉ.

- Thế rồi các ông làm gì?

- Ấy, theo lời yêu cầu khẩn thiết của bác sĩ Renaule, chúng tôi giữ lại chìa khóa phòng này trong lúc tiếp tục điều tra.

- Thế các ông có hạn chế việc đi lại của bị can hoặc người bạn của bị can là bà Ansel không?

- Hoàn toàn không.

- Thế họ làm gì?

- Họ được yêu cầu ở trong một phòng trọ khác.

- Các ông không đưa cho bà ta chiếc chìa khóa?

- Không.

- Các ông giữ chìa khóa?

- Thưa vâng.

- Các ông hành động gì để kiểm soát bị can không?

- Lúc ấy thì không, về sau mới làm thế.

- Sự việc ra sao?

- Ấy, bà ấy bảo chúng tôi là có ý định ở lại đêm tại quán trọ, nhưng... Ồ, tôi không rõ lắm, đâu khoảng bảy giờ thì người chủ quán điện thoại báo cho chúng tôi hay bà ấy và bà Ansel đã bỏ đi. Chúng tôi theo dõi họ đến tận Fresno và được biết họ đã dùng máy bay đi San Francisco.

- Các ông đã làm gì?

- Chúng tôi điện thoại đến San Francisco để tìm họ khi máy bay đáp xuống và bám sát họ.

- Chỉ chừng ấy thôi.

- Ấy, dĩ nhiên hiện giờ tôi chỉ được biết qua các báo cáo.

- Tôi hiểu. Tôi không có ý hỏi ông là ai đã làm những công việc ấy đâu. Sau đó các ông trông thấy bị can vào lúc nào?

- Vào ngày mười bốn.

- Lúc mấy giờ?

- Lúc bốn giờ rưỡi chiều.

- Ông thấy bà ta ở đâu?

- Trong văn phòng của ông.

- Ông có nói chuyện với bà ấy?

- Có.

- Đại khái lúc ấy bị can nói gì về hộp kẹo đã được đưa ra?

- Bà ấy nói là đã mua hộp kẹo và đã bỏ nó vào trong cái xắc du lịch của chồng, ông này lúc nào cũng mang theo một hộp kẹo, ông vốn nghiện rượu và uống đều đều. Có những lúc ông ấy quá thèm rượu và lúc đó thì có thể ăn kẹo, và nhờ cứ ăn kẹo như say rượu đó mà có thể kiềm chế cơn ghiền.

- Bà ấy xác nhận với ông là đã mua hộp kẹo ấy?

- Vâng.

- Ông có hỏi bà ấy có mở gói kẹo hay sờ đến những miếng sôcôla không?

- Bà ấy bảo với tôi là chỉ mua hộp kẹo sôcôla và đã bỏ hộp kẹo vào túi xắc du lịch của chồng, cứ để nguyên thế không mở, còn nguyên như lúc lấy ở cửa hàng về. Bà ấy có tháo tờ giấy bọc ngoài vì đã mua hai hộp cùng lúc, nhưng không hề đụng tới lớp giấy bóng bọc ngoài.

- Ông có kiểm tra hộp kẹo sôcôla ấy không?

- Thưa có.

- Với mục đích tìm dấu tay?

- Vâng.

- Ông có phát hiện gì không?

- Tôi thấy có hai miếng sôcôla có dấu ngón cái và ngón trỏ của tay phải.

- Ông có chụp ảnh các dấu tay ấy chứ?

- Thưa có.

- Ông có mang theo các tấm ảnh đó không?

- Có.

- Yêu cầu ông đưa chúng cho trạng sư của bị can xem, sau đấy tôi sẽ yêu cầu dùng chúng làm bằng chứng.

- Không phản đối. - Mason nói, và vội vã kiểm tra các tấm ảnh.

- Sau đấy, ông có mặt lúc những miếng kẹo có mang dấu tay chìm này được đưa đi thử nghiệm để tìm xem có chất độc không?

- Thưa có.

- Thế ông có tìm cách xác định những miếng kẹo sôcôla đặc biệt này không?

- Thưa có. Chúng tôi có dán một mảnh giấy nhỏ ở dưới mặt của các miếng sôcôla, một miếng chúng tôi đánh số một, miếng kia đánh số hai. Tôi ghi những chữ đầu của tên mình bằng mực trên mảnh giấy đó.

- Hai miếng sôcôla ấy đã được xét nghiệm tìm chất độc đều có sự hiện diện của ông chứ?

- Thưa vâng.

Vandling nói:

- Yêu cầu chất vấn.

Mason nói như trong lúc trò chuyện:

- Ông có biết họ đã phát hiện có những gì liên quan đến chất độc ở trong hai miếng sôcôla ấy không?

- Chỉ nghe nói là có.

- Chỉ là nghe nói từ miệng của chuyên viên xét nghiệm chất độc tiến hành cuộc xét nghiệm đó?

- Vâng.

- Nhưng lúc ấy ông có mặt ở đó cơ mà?

- Vâng.

- Ông ấy nói sao?

- Ông ấy nói rằng cả hai miếng sôcôla đều chứa chất xi-a-nít pô-tát-xi-um, còn tất cả những miếng khác thì chứa ác-xê-nít.

- Ông biết rằng chất ác-xê-nít thường gây ra cái chết hơi chậm đấy chứ?

- Thưa vâng.

- Còn chất xi-a-nít thì gây ra cái chết rất nhanh?

- Thưa vâng.

- Với tư cách là nhân viên điều tra, ông có làm gì để xác định tại sao hai miếng kẹo chứa chất độc kia, vốn có khả năng gây ra cái chết gần như tức thời, lại được để lẫn chung với số kẹo gây ra cái chết chậm không?

- Thưa không. Tôi có hỏi bị can về chuyện này thì bà ta cứ nhất mực bảo rằng bà không mở hộp kẹo, không hề đụng đến một miếng sôcôla nào cả.

Mason nói:

- Thế là đủ. Không chất vấn gì nữa.

Vandling nói:

- Xin mời bà Sara Ansel ra trước tòa.

Bà Sara Ansel từ nãy giờ ngồi ở cuối phòng, lúc này đứng dậy, nói bằng giọng như muốn gây gổ:

- Tôi không muốn làm nhân chứng trong vụ này đâu. Tôi không hay biết chuyện gì có thể giúp ích cho công tố tí xíu nào cả. Cái cô đang bị tòa xử kia là cháu của chị tôi, cô bé tội nghiệp nào có tội tình gì.

Vandling nói:

- Yêu cầu ra trước tòa và tuyên thệ.

- Tôi đã thưa với ngài là tôi đâu có muốn làm nhân làm chứng, tôi...

- Yêu cầu ra trước tòa và tuyên thệ - Chánh án Siler tuyên bố và trong lúc bà này còn chần chừ, ông nói tiếp - Nếu không, bà sẽ bị tòa xử về tội coi thường tòa án. Đây là một phiên tòa. Bà được gọi ra làm nhân chứng. Bà hiện đang có mặt. Nào, mời bà ra trước đi.

Bà Sara Ansel chần chừ bước ra lối đi, qua cánh cứa xoay ở khu dành riêng cho các luật sư và các nhân chứng, rồi đến tận bục đứng của nhân chứng. Bà đưa bàn tay phải lên tuyên thệ, miệng nở nụ cười nhìn sang Myrna có ý trấn an, đoạn ngồi xuống và trừng trừng nhìn công tố viên Vandling. Vandling nói:

- Bà là Sara Ansel? Hiện nay bà đang ở trong thành phố Los Angeles cùng với bị can trong vụ án này, tại căn nhà trước đây thuộc tài sản của ông William C. Delano. Đúng như vậy không?

Bà Ansel xẵng giọng:

- Đúng.

- Bà có quan hệ gì với ông William C. Delano?

- Tôi chẳng có quan hệ gì cả, cũng không hắn như thế. Chị tôi lấy chồng là anh của ông William C. Delano.

- Hiện nay cả hai người này đều chết?

- Cả hai đều chết.

- Lúc chết ông Delano có thân nhân nào đến ở cạnh không?

- Lúc chết ông ấy chẳng có ai là thân nhân, ngoài Myrna, đó là nếu các ngài không thể cho tôi là bà con qua liên hệ hôn nhân.

- Bà là em vợ của ông ấy?

- Gần gần như thế.

- Ông ấy cũng coi bà như thế?

- Phải.

- Bà đã gặp William C. Delano nhiều lần lúc ông ấy còn sống?

- Nhiều lần.

- Thế gần trước ngày ông ấy chết, bà có gặp ông ta không?

- Có.

- Trước đó bao lâu?

- Gần một tháng.

- Bây giờ bà có thể tả khái quát tình trạng gia sự của William C. Delano trong tháng ấy không? Ai có mặt ở đó?

- Tôi có mặt ở đó, và cô cháu của ông ấy là Hortense Paxton có mặt, có cả Myrna và Davenport. Myrna đến đó phụ giúp công việc.

- Thế chuyện gì đã xảy ra cho cô Hortense Paxton?

- Cô ấy chết.

- Sau đó thì ông William C. Delano chết?

- Phải.

- Hortense Paxton chết bao lâu rồi đến William Delano?

- Sau hai tuần.

- Trong thời gian hai tuần ấy ông ta bị sốt nặng?

- Vâng.

- Ông ấy sửa đổi di chúc, tức là ông ấy làm một bản di chúc mới trong thời gian ấy?

- Tôi không biết.

- Ông ấy có nói với bà trước mặt bị can đây là Myrna Davenport, là ông ấy đang thảo di chúc mới không?

- Ông ấy có nói sơ thôi. Các luật sư đến nhà và ông ấy đang lo một văn kiện. Ông ấy bị ốm nặng.

- Theo các khoản trong bản di chúc thì bà được hưởng một khoản tiền, có phải vậy không?

- Đó đâu phải là việc của ngài.

- Theo các khoản trong bản di chúc ấy thì bà được hưởng một số tiền, có phải vậy không?

Chánh án Siler giục:

- Yêu cầu trả lời câu hỏi.

Bà Ansel xẵng giọng:

- Thưa có.

- Bao nhiêu?

- Một trăm ngàn đô-la và một phần năm lợi tức trong căn nhà to lớn của ông ấy.

- Bà gặp bị can Myrna Davenport lần đầu tiên vào lúc nào?

- Chúng tôi đến thăm William Delano.

- Bà ấy đang ở tại ngôi nhà đó trong thời gian ấy?

- Không phải trong thời gian ấy. Cô ấy có mặt ở đó để giúp đỡ công việc, giúp Hortense, nhưng...

- Khoan đã. Nói rằng bà ấy lúc bấy giờ đang phụ giúp cô Hortense, bà có ý bảo rằng bà Myrna Davenport đang giúp cô Hortense Paxton là cô cháu bị chết phải không?

- Vâng.

- Còn cô Hortense Paxton lúc ấy đang điều khiển toàn bộ công việc nhà, cai quản đám gia nhân phục vụ ông William Delano?

- Vâng.

- Cô ấy đã làm công việc đó trong thời gian khá lâu?

- Cô ấy ở với ông ta đã trên hai năm rồi. Cô ấy được ông ta rất quý mến. Họ rất thân nhau.

- Sau khi bà đến tại căn nhà để thăm ông William Delano, thì bị can là bà Myrna Davenport cũng đến ở với ông ấy, có phải như vậy không?

- Ấy, đâu có đơn giản như vậy. Có nghĩa là ngài không thể chia rõ ràng từng thời kỳ như thế được. Trước tiên, Myrna đến thăm và giúp đỡ Hortie...

- Khoan, bà nói Hortie tức là Hortense Paxton phải không?

- Tất nhiên rồi.

- Được. Cứ nói tiếp.

- Cô này có mặt ở đó là để thăm viếng và giúp đỡ, rồi sau đó mới quyết định ở lại luôn. Chuyện này... Ấy, có thể là vào thời gian gần trước ngày tôi đến hay khoảng thời gian ngắn sau đó, tôi chẳng còn nhớ rõ. Nhưng dầu sao thì cô ta và Ed tức là chồng đã đến ở đó và rồi ở luôn trong nhà.

- Nhưng ông Davenport vẫn còn lo công việc văn phòng của mình ở tại nơi mà ông ta và Myrna Davenport bao lâu nay vẫn dùng làm chỗ ở, mãi tận Paradise trong bang này cơ mà?

- Phải.

- Vậy từ lúc đầu, tức là trong thời gian đầu bà đến thăm, Ed Davenport có mặt ở đó cùng với vợ phải không?

- Vâng.

- Thời gian bao lâu?

- Cũng khá lâu.

- Sau ngày bà đến, và vừa sau ngày ông Delano chết, Davenport bắt đầu vắng nhà phải không?

- Ngài bảo “nhà” là ý nói sao?

- Vào lúc đó, tức là chỗ ông William Delano đã qua đời, có phải vậy không?

- Tôi chắc vậy. Đúng thế.

- Tôi nói nhà của ông ấy là nghĩa như thế đấy. Chỗ ở Paradise thì tôi sẽ gọi là văn phòng kinh doanh mỏ của ông ta.

- Được thôi.

- Sau khi đến ở một thời gian ngắn thì bà nhận ra rằng Davenport bắt đầu bỏ đi vắng, phải vậy không?

Sara Ansel nói:

- Tôi không rõ là ngài có chủ ý gì đây, song tôi nói thật cho ngài rõ là Ed Davenport với tôi chẳng hợp ý nhau, nhưng cái đó chẳng liên quan gì đến những chuyên đi đây đi đó của anh ta. Ed Davenport không ưa gì tôi. Chuyện đó cũng chẳng có gì là bí mật phải che giấu cả, lúc đầu tôi đã cố đối xử tử tế với anh ta, nhưng anh chàng lại tưởng tôi cố tâm xúi giục Myrna chống lại mình. Thật ra, tất cả những gì tôi làm lúc bấy giờ là cố để cho Myrna sớm nhận biết chuyện đang xảy ra thôi.

- Chuyện gì đang xảy ra?

- Anh chàng đang diễn trò vơ vét hết từng đồng xu của Myrna, vớ được bao nhiêu liền đem bỏ chung với tiền riêng của mình rồi xáo trộn và tung hô lên như tay biểu diễn ảo thuật để chẳng còn ai biết đâu mà mò nữa. Nếu ngài hỏi y về tài sản kinh doanh và y đang làm gì, hoặc Myrna có được bao nhiêu tiền của, thì y sẽ câm miệng hến hoặc nhảy cỡn lên rồi bỏ chạy ra khỏi phòng. Chẳng hiểu mấy hôm sau thì anh chàng lại bỏ đi với lý do về công chuyện làm ăn. Nếu ngài thực sự cố tìm cách “chốt” y thì ngài sẽ nghe những câu tránh né. Ngài sẽ chẳng còn biết ất giáp gì nữa. Tôi biết cái trò đang diễn, còn y thì cũng biết là tôi biết y đang giở trò gì.

Sara Ansel hầm hầm nhìn Vandling như nhìn đối thủ. Vandling hỏi:

- Bà biết ông ấy làm trò gì?

- Tất nhiên là tôi biết y đang giở trò gì chứ. Tôi đâu phải là con nít con thơ gì.

- Làm sao bà biết được việc ông ấy làm.

- Ủa, thì cứ hỏi y chuyện này nọ, nghe y trả lời, trông cách y đang hành động, với bao nhiêu cái trò khác.

- Có thực ông ấy biết là bà biết chuyện ông ta đang làm không?

- Tất nhiên là y biết. Tôi có giấu diếm gì đâu. Nói thế có nghĩa là, tôi có hỏi y những câu thật sát.

- Ngay trước mặt vợ ông ấy?

- Tất nhiên. Cô này là nhân vật tôi đang cố tìm cách làm thức tỉnh cơ mà.

- Rồi sau đó bà nói chuyện riêng với bà ta?

- Phải.

- Bà có đề nghị bà ấy tìm luật sư để góp ý kiến?

- Phải.

- Còn gì nữa không?

- Tôi đề nghị cô ta thuê thám tử riêng để theo dõi ông chồng. Y lúc bấy giờ đang đi lung tung khắp xứ. Y thường bảo Myrna sắp đặt cho y một va-li áo quần - ăn nói với vợ như thể con ở ấy, báo cho cô ta biết là y sắp đến một cái mỏ. Y cũng chẳng thèm nói với vợ là chỗ nào nữa, chỉ báo là “một trong những cái mỏ” thôi.

- Ông ấy có nhiều mỏ thế à?

- Có được nhiều mỏ là sau khi vơ vét hết tiền của vợ. Đó là lúc y bắt đầu phát triển cơ nghiệp. Mà như tôi nói đấy, y chỉ cần nói huyên thuyên loạn xạ về các vụ thương lượng mua bán là chẳng còn ai hiểu mô tê ất giáp gì nữa.

- Ông ấy dùng tiền của vợ?

- Tất nhiên là như vậy rồi. Y có tiền riêng của tư gì đâu. Tất cả tài sản của y là mấy cái mỏ đang tậu và điều khiển lèm nhèm. William Delano vừa chết xong thì y khởi sự trở thành một tay quản lý cỡ bự ngay. Y bạ đâu vay mượn đó nhờ ở khối tiền từ tay vợ. Y xúi cô này vay một số lớn ở ngân hàng rồi sau đấy liền diễn cái trò chia chác một phần tài sản để Myrna có thể lấy được tiền, đến khi tiền nằm vào trương mục của vợ ở ngân hàng thì y liền tìm cách rút ngay.

- Bà có biết ông ta tổ chức những cuộc mua bán trao đổi ấy như thế nào không? Ông ấy có gửi cho bà vợ một cái giấy báo hay một cái gì đó hay không?

- Chắc chắn là không. Y chỉ xúi vợ bỏ tiền vào trương mục chung. Cô vợ chỉ dùng mục chung này để chi vào những món chi tiêu trong nhà, lâu lắm mới sắm cái áo cái quần thôi.

- Vậy bà có lưu ý bà Davenport về chuyện đó?

- Đúng như thế.

- Vậy thì, vào một lúc nào đấy, cho là cách đây một tuần, Myrna Davenport đã có đủ lý do để không còn tin tưởng chồng, để ghét ông ta và muốn ông ta đi khuất mắt. Có phải như vậy không?

- Ngài đang có mưu tính gì đây? Ngài đang bỏ lời bỏ lẽ vào miệng tôi đấy chắc?

- Tôi chỉ làm cái việc đơn giản là tóm tắt những gì bà đã kể cho tôi nghe thôi. Bà có nói với bà Davenport rằng chồng bà ấy đang biển thủ tiền của bà ấy.

- Vâng.

- Còn ông ấy thì đang lăng nhăng với mấy bà?

- Tôi nghĩ thế thôi.

- Ông ấy đang tìm cách lấy món tiền thừa kế của vợ để góp chung vào quỹ riêng và làm trò hoa mắt để cô vợ bay hết tiền của?

- Ấy, tôi không hẳn dùng đúng y những lời lẽ như vậy.

- Nhưng đó là ý bà muốn nói ra chứ gì?

- Vâng.

- Cách đây chừng mười ngày, Edward Davenport có tuyên bố rằng ông ta sẽ quay về văn phòng tại Paradise?

- Phải.

- Và nhờ vợ sửa soạn cái xắc cho mình?

- Phải.

- Có nói gì đến kẹo không?

- Y có bảo với vợ là cần một ít kẹo mới, số kẹo trong hộp y đã ăn hết chỉ còn một hai miếng thôi.

- Theo chỗ bà biết, thì bà Davenport có làm gì liên quan đến việc sắp đặt các túi xắc du lịch hay lấy kẹo cho ông ấy?

- Không phải do tôi tự biết, mà mãi sau đó tôi mới hay là cô vợ đã mua hai hộp kẹo.

- Và một hộp kẹo thì được bỏ vào va-li của ông ấy?

- Tôi tin là như vậy thôi, tôi không tận mắt chứng kiến.

- Bà có biết gì về chuyện Davenport có thuốc độc không?

- Cô ta là người mê công việc vườn tược, làm thí nghiệm với một số thuốc phun khác nhau do chính cô ta tự pha chế. Cô ta thí nghiệm một loại thuốc dùng để phun vào cây.

- Bà ấy có nói với bà là bà ấy có ác-xê-nít và xi-a-nít pô-tát-xi-um không?

Mason nói:

- Thưa ngài chánh án, dường như công tố đang có ý chất vấn nhân chứng của mình thì phải?

Vandling nói:

- Bà này là một nhân chứng thiếu thiện cảm.

Chánh án Siler tuyên bố:

- Tòa không đồng ý phản đối. Rõ ràng đây là một nhân chứng không được thiện cảm.

Vandling hỏi:

- Bà ấy có nói với bà rằng bà ta có xi-a-nít pô-tát-xi-um và ác-xê-nít không?

- Có.

- Bà ấy có thảo luận với bà về việc thực tế là chính bà ấy đã cất những chất độc này, đem chôn giấu chúng để nhà chức trách khỏi phát hiện?

Phiên tòa yên lặng một lúc khá lâu. Vandling nói:

- Yêu cầu trả lời câu hỏi.

Sara Ansel đáp:

- Có.

- Và bà có thực sự trông thấy bà ấy chôn một số gói chứa chất độc không?

- Cô ấy không muốn bị tra hỏi lôi thôi.

- Bà có thực sự trông thấy bà ấy chôn những chất độc đó không?

- Tôi thấy cô ấy đang đào một cái hố. Tôi không biết cô ấy chôn gì ở dưới đó.

- Bà ấy có nói với bà hay là đã bỏ dưới hố những thứ gì không?

- Có

- Bà ấy nói là đã bỏ dưới hố những gì?

- Chất độc.

- Vậy thì, xin hãy chú ý đến ngày thứ Hai trong tuần, tức là ngày mười hai. Bà và bà Davenport có mặt tại gia đình ông Delano?

- Vâng.

- Thế thì vào buổi sáng hôm ấy, khoảng chín giờ, bà nhận một cú điện thoại của ông bác sĩ nào đó ở Crampton, ông bác sĩ Herkimer C. Renault nào đó?

- Vâng. Có điện thoại như thế.

- Bà hay là bà Myrna Davenport đã nói chuyện điện thoại vào ngày hôm đó?

- Tôi.

- Bác sĩ Renault nói gì với bà?

- Ông ấy đòi gặp vợ của Davenport. Tôi bảo cho ông ta rằng tôi là cô của Myrna Davenport, có thể chuyển lời được. Ông ta nói nội dung nhắn lại là những tin tức hệ trọng có liên hệ đến chồng của cô ta.

Vandling nói với chánh án Siler:

- Bây giờ hãy đề cập đến cuộc nói chuyện qua máy điện thoại. Tôi nghĩ đó chỉ là bằng chứng nghe nói, nhưng theo những gì mà nhân chứng này nói với bị can có liên hệ đến cuộc nói chuyện qua điện thoại ấy thì đây chỉ là sự hiểu biết và tâm trạng của bị can...

Mason cắt ngang:

- Tôi không có gì để phản đối. Xin cứ tiếp tục.

- Được lắm. Nội dung của cuộc điện đàm như thế nào?

- Bác sĩ Renault bảo tôi rằng Davenport hiện đang ở tại quán trọ Crampton, ông ấy bị ốm nặng, rất trầm trọng, ông hiểu là ông này bị huyết áp cao và các động mạch bị chai cứng, theo ông nghĩ thì người vợ cần phải đến ngay.

Vandling nói:

- Tôi không muốn mất thì giờ với quá nhiều chi tiết như vậy, nhưng bà và bà Davenport lập tức chuẩn bị hành trang, thu xếp công việc để đón máy bay đi Fresno ngay sau buổi trưa hôm ấy. Bà chụp ngay một xe tắc xi và sau đó thuyết phục bà Davenport là bà này cần phải ghé lại văn phòng của một luật sư, và hai người đã ghé vào văn phòng của Perry Mason, có phải vậy không?

- Vâng.

- Trước đó bà đã mơ hồ nhận ra thực tế là ông Davenport có để lại một bức thư gì đấy, bức thư này dặn phải chuyển giao. cho nhà chức trách trong trường hợp ông ấy chết?

- Y đã buộc tội Myrna về... vô số chuyện, y bảo là có lưu lại một lá thư để giao cho nhà chức trách nếu có chuyện gì xảy đến với y.

- Và thế là bà dì đi đến văn phòng của Perry Mason cùng với bà Davenport, ông Mason được các bà yêu cầu đi lên Paradise nhằm lấy lá thư đó để thư đó khỏi bị giao cho nhà chức trách trong trường hợp ông Davenport chết. Có đúng như vậy không?

Mason nói:

- Xin phép công tố, tôi buộc lòng phải ngắt lời ở đây để xin phản đối, bởi vì việc này liên can tới sự thông tri kín giữa luật sư và thân chủ của mình.

Vandling bảo Sara Ansel:

- Bà không mướn ông Mason, phải không?

- Tôi ư? Làm gì có. Tôi cần luật sư làm gì chứ.

- Nhưng bà Myrna Davenport thì mướn.

- Cô ấy cho ông Mason biết cần làm những gì thôi.

- Còn bà thì bảo ông ấy những gì cần phải làm, có đúng vậy không?

- Ấy, có lẽ tôi đã giải thích với ông ấy một đôi điều.

- Bà có mặt tại chỗ trong suốt cuộc nói chuyện.

- Vâng.

- Cho chúng tôi biết nội dung cuộc nói chuyện.

Mason nói:

- Tôi phản đối. Chuyện này thuộc phạm vi trao đổi kín.

Vandling đáp:

- Không phải như thế vì có nhân vật thứ ba tại chỗ.

Chánh án Siler hỏi:

- Lời chất vấn này có liên quan đến những điều dặn dò cho ông Mason là trạng sư do thân chủ là bà Davenport yêu cầu thực hiện không?

- Thưa ngài chánh án, đúng thế, có sự hiện diện của bà Sara Ansel, nhân vật thứ ba.

Chánh án Siler nói:

- Tôi không nghĩ rằng có thể chấp nhận lời chất vấn này.

Vandling nói:

- Xin tòa cho phép, tôi được có thẩm quyền về vấn đề này. Tôi nghĩ rằng câu chất vấn của tôi rõ ràng là chấp nhận được.

Chánh án Siler:

- Tôi sẽ cứu xét các thẩm quyền đó, song tôi muốn cần phải có chút thời gian để suy xét lại những quyền ấy. Tôi không hoan nghênh ý định dùng những lời lẽ của thân chủ bàn bạc với trạng sư của mình để đưa ra làm bằng chứng ở đây.

- Tôi sẽ trình ngài chánh án các thẩm quyền và ngài có thể...

Chánh án Siler:

- Khoan đã. Tại sao lại không tra cứu các thẩm quyền ấy vào giờ nghỉ trưa? Tại sao ông lại nêu câu hỏi ấy vào lúc này? Ông có thể rút lui nhân chứng này và đưa nhân chứng khác ra được không?

Vandling nói:

- Vâng, chắc là được thôi.

- Tốt lắm. Tại sao không rút nhân chứng này? Chúng ta có một câu chất vấn. Chúng ta đã nghe ông Mason phản đối câu chất vấn. Ông có một số thẩm quyền về câu chất vấn này. Sau giờ nghỉ trưa, tôi sẽ quyết định về câu chất vấn này là lúc ấy nhân chứng có thể hoặc trả lời hoặc không, tùy quyết định của tôi, và trạng sư phía bị can có thể chất vấn lại.

Vandling nói:

- Tốt lắm. Bà Ansel hãy bước xuống. Bà được phép rời khỏi bục.

Sara Ansel di chuyển ra khỏi bục nhân chứng, cặp mắt tóe lửa nhìn Vandling. Vandling cảnh cáo:

- Bà không được rời khỏi thành phố này. Hãy nhớ cho là bà hiện đang được tòa đòi. Bà phải ở lại để dự phiên tòa ở đây trong tất cả các phiên xử và có mặt tại đây sau khi tòa hoãn vào buổi trưa.

Chánh án Siler nói:

- Phải. Bà đang được tòa đòi. Đừng tìm cách ra khỏi nơi này. Bà cần phải có mặt tại đây trong suôt phiên xử. Bà hiểu không?

Sara Ansel ngắm kỹ quan chánh án với thái độ khinh mạn.

- Hiểu chưa? - Chánh án Siler lớn tiếng, mặt lộ vẻ giận.

Bà đáp:

- Vâng.

- Phải liệu có mặt ở đây.

Ông Vandling, gọi nhân chứng tiếp theo.

Vandling nói:

- Bây giờ xin mời bác sĩ Renault tiến lên bục.

Bác sĩ Renault, một người mảnh dẻ, trạc năm mươi, phong thái gọn gàng, trông có vẻ nhà nghề một cách lạnh lùng, tiến lên bục nhân chứng, cặp mắt đen không biểu lộ chút tình cảm nhìn viên biện lý ra vẻ dò xét. Phong thái của ông rõ ràng là phong thái nghề nghiệp đã được tạo dựng tích lũy cẩn thận của một y sĩ đã từng đứng trên bục nhân chứng trước đây. Trong khi chuẩn bị cân nhắc các câu hỏi và câu trả lời rất mực thận trọng, ông ít nhiều tỏ ra vẻ cao ngạo của người thạo nghề.

Vandling nói:

- Ông là bác sĩ Herkimer Corrison Renault?

- Đúng thế. Vâng...

- Ông được cấp giấy hành nghề tại bang này với tư cách là một y sĩ chữa bệnh đa khoa, một bác sĩ y khoa?

- Thưa vâng.

Mason nói:

- Ồ, theo quyền được chất vấn, chúng ta cần làm rõ các yêu cầu về tư cách hành nghề của bác sĩ này.

- Bác sĩ hành nghề ở đâu?

- Tại Crampton.

- Ông ở đó bao lâu.

- Chừng ba năm.

- Vào sáng ngày mười hai, ông được mời đến để săn sóc một bệnh nhân đang ngụ tại một quán trọ ở Crampton?

- Thưa vâng.

- Bệnh nhân ấy là ai?

- Edward Davenport.

- Lúc ấy ông có quen biết ông này không?

- Thưa không.

- Ông có nhìn thấy xác của Edward Davenport sau khi được khai quật và trước khi mổ xét nghiệm không?

- Thưa có.

- Ông có mặt lúc mổ xét nghiệm?

- Thưa không.

- Cái xác mà ông nhìn thấy lúc đó có phải là xác của người được ông chữa trị ngày mười hai không?

- Thưa phải.

- Ông có nói chuyện với bị can trong ngày mười hai đó không?

- Thưa có.

- Bà ấy có trông thấy người mà ông đang chữa trị không?

- Thưa có.

- Bà ấy có nhận dạng con người đó không?

- Thưa có.

- Bà ấy bảo đó là ai?

- Bà ấy nhận dạng đó là Edward Davenport chồng của bà.

- Bây giờ tôi muốn ông trình bày một cách trung thực những gì đã diễn ra có liên quan tới việc chữa trị cho bệnh nhân của ông và tình trạng sức khỏe của ông Davenport.

Bác sĩ Renault nói:

- Ấy, tôi không thể làm việc này một cách đầy đủ nếu không kể cho ngài rõ bệnh nhân đã nói với tôi những