← Quay lại trang sách

Chương 3 - Bất Ngờ Ngày Sinh Nhật.

Dặt bút xuống,” cô Peters đứng trước lớp ra lệnh. Học trò của cô đang làm bài kiểm tra toán và cô đã giám sát cả lớp chặt chẽ như một quản ngục suốt quãng thời gian đó. “Chuyền bài kiểm tra lên trước.”

Bài kiểm tra trông như thể đã viết bằng chữ tượng hình cổ với Conner vậy. Hầu hết phần trả lời bỏ trống, cậu chỉ nguệch ngoạc vào những chỗ còn lại để trông có vẻ như đã cố gắng. Cậu lẩm nhẩm một lời cầu nguyện rồi chuyển bài kiểm tra lên trước với các bạn khác.

Tất cả các bài kiểm tra đều được chuyền đến chỗ Alex, em xếp gọn chúng thành chồng cho cô Peters. Alex luôn cảm thấy thật tỉnh táo sau khi làm kiểm tra, đặc biệt là với những bài đơn giản như thế này.

Bài kiểm tra của cậu em làm Alex chú ý vì đó là bài bỏ trống nhiều nhất. Alex biết ở trường Conner luôn cố gắng hết mình, nhưng có vẻ cái hết mình của cậu không bao giờ là đủ. Cô bé nhìn em trai, ước gì có thể giúp được… và rồi em nảy ra một ý: Có thể đấy.

Alex nhìn lên cô Peters và thấy cô đang bận bịu với mớ ghi chép trong giáo án của mình. Cô giáo có nhận ra nếu Alex điền nhanh vài đáp án cho em trai không? Alex có thể làm một điều rõ là sai trái thế không?

Có được coi là gian lận không nếu ta làm thế trên bài kiểm tra của người khác? Cử chỉ cao thượng có xóa nhòa được tội lỗi không, nếu xét trên tất cả mọi mặt?

Alex vẫn hay lo nghĩ quá đáng về mọi thứ, vậy nên em cứ thế mà làm, không nghĩ ngợi nữa; Alex điền thật nhanh vào vài ô đáp án trong bài làm của cậu em, viết cẩu thả hơn thường lệ, rồi nộp chồng bài kiểm tra cho cô Peters.

Đó là hành động mang tính bộc phát nhất mà cô bé từng làm.

“Cảm ơn, trò Bailey,” cô Peters nói, nhìn vào mắt cô học trò. Alex cảm thấy như thể ruột gan mình lộn tùng phèo. Chút hưng phấn trong cơn bốc đồng giờ đây lại bị lấn át bởi cảm giác tội lỗi.

Cô Peters luôn tin tưởng Alex; làm sao em có thể làm một việc thiếu suy nghĩ đến thế? Alex có nên tự thú việc vừa làm chăng? Hình phạt cho lỗi lầm của Alex là gì? Lẽ nào em phải chịu đựng mặc cảm tội lỗi này suốt đời sao?

Alex nhìn lại em mình. Conner vừa buột ra một tiếng thở dài lặng lẽ, Alex cảm nhận được nỗi buồn và sự hổ thẹn của em trai; cô bé có thể thấu cảm nỗi tuyệt vọng của Conner như thể của chính mình.

Những day dứt trong đầu Alex không còn nữa. Cô bé biết mình đã làm điều đúng đắn – không phải như một học sinh, mà trong tư cách một người chị.

“Cô muốn tất cả các em lấy bài tập về nhà tối qua ra,” cô Peters yêu cầu, “và trình bày ngắn gọn bài làm của mình trước lớp.”

Cô giáo vẫn thường làm cả lớp ngạc nhiên với những bài thuyết trình đột xuất để học sinh không dám lơ là. Cô ngồi vào một chiếc ghế cao ở cuối lớp, gần một cách đáng ngại với chỗ ngồi của Conner, như thế, cô có thể để mắt xem cậu có tỉnh táo hay không.

Lần lượt từng học sinh một trình bày bài làm của mình trước lớp. Ngoại trừ một đứa con trai tưởng truyện “Jack và Cây đậu thần” kể về một vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh và một cô nhỏ dám khẳng định “Chú mèo đi hia” là một ví dụ sớm sủa về bạo hành động vật, cả lớp có vẻ đều hiểu đúng các truyện kể.

“Thật khó để chọn chỉ một truyện cổ tích để viết bài,” Alex cất giọng trình bày một cách sinh động bài làm bảy trang của mình trước lớp. “Vì vậy, tôi chọn truyện mà chủ đề của nó xuất hiện trong hầu hết tất cả các truyện cổ tích và mọi câu chuyện từng được viết ra, “Cô bé Lọ Lem”!”

Sự sôi nổi của cô bé không được các bạn học hưởng ứng.

“Đã có nhiều người khó chịu với “Cô bé Lọ Lem”, cho rằng nó chứa đựng những yếu tố chống lại quan niệm nam nữ bình quyền,” Alex tiếp. “Nhưng tôi cho rằng việc đó hoàn toàn vô lý! “Cô bé Lọ Lem” không kể về chuyện một người nam cứu lấy một người nữ, nó bàn về luật nhân quả!”

Phần đông cả lớp bắt đầu mơ màng về những thứ khác. Cô Peters là người duy nhất trong phòng học tỏ vẻ có chút hứng thú với phát biểu của Alex.

“Hãy nghĩ về nó mà xem,” Alex tiếp tục. “Ngay cả sau nhiều năm chịu sự hành hạ từ mẹ kế và các chị, Lọ Lem vẫn là một người tốt và nuôi dưỡng niềm tin. Cô không bao giờ thôi tin tưởng vào bản thân và vào cái thiện trên đời. Dù cuối cùng cô đã cưới hoàng tử nhưng lúc nào trong thâm tâm Lọ Lem cũng hạnh phúc. Câu chuyện của cô chứng tỏ là ngay cả trong hoàn cảnh tồi tệ nhất – ngay cả khi có vẻ không ai trên thế giới này coi trọng bạn – chỉ cần có niềm tin, mọi thứ có thể trở nên tốt đẹp hơn…”

Alex để tâm trí nấn ná trên những lời vừa nói. Cô bé nghi ngờ luận điểm cuối cùng mình đã khẳng định trong phần trình bày. Có thật đó là ý nghĩa của “Cô bé Lọ Lem” không, hay chỉ là những gì Alex tha thiết mong là ý nghĩa của “Cô bé Lọ Lem”?

“Cảm ơn em, Bailey! Nói hay lắm,” cô Peters nhận xét với cái gần nhất với nụ cười mà khuôn mặt cô có thể nặn nên được.

“Cảm ơn vì đã dành thời gian lắng nghe,” Alex nói và gật đầu với cả lớp.

“Tới lượt em đấy, trò Bailey,” cô giáo thông báo. Cô đang ngồi gần cậu bé đến độ cậu có thể cảm thấy hơi thở âm ấm của cô trên cổ mình.

Conner tiến lên trước lớp, kéo lê chân như thể chúng bị bao bọc trong một khối bê tông. Cậu bé chưa bao giờ gặp khó khăn gì trong việc nói năng trước lớp, nhưng cậu thà ở bất kỳ nơi nào khác hơn là thuyết trình trước một giáo viên. Alex gửi đến cậu em trai một cái gật đầu khích lệ.

“Tôi chọn “Chú bé chăn cừu và chó sói”,” Conner nói, đi ngược lại với lời khuyên của chị cậu hôm trước.

Alex xuội người xuống trên ghế và cô Peters đảo tròn mắt. Việc này thật đáng thất vọng.

“Tôi biết mọi người đều đang nghĩ tôi đã chọn truyện dễ nhất,” Conner tiếp. “Tuy nhiên, khi đọc lại, tôi không cho là câu chuyện nói về tầm quan trọng của tính trung thực. Tôi nghĩ nó nói về sự kỳ vọng.”

Cả Alex và cô Peters đều nhướng mày lên. Cậu ta đang muốn nói ý gì chứ?

“Tất nhiên, chú bé chăn cừu là đứa bé hư. Tôi không thể phủ định điều đó,” Conner tiếp tục, ra hiệu về bài làm nửa trang cậu đã viết. “Nhưng ai có thể trách chú vì đùa vui chút xíu chứ? Rõ ràng là làng của chú đang gặp chút rắc rối với chó sói, và mọi người vì thế mà trở nên căng thẳng. Chú ta chỉ là trẻ con; làm sao họ có thể trông đợi chú lúc nào cũng hoàn hảo chứ?”

Bài thuyết trình của cậu bé có lẽ không phải là hay nhất, nhưng nó rõ ràng đã khiến cả lớp phải chú ý.

“Và truyện khiến tôi tự hỏi, vì sao không có ai trông chừng chú bé cả?” Conner thêm vào. “Có lẽ nếu cha mẹ chú ta để mắt tới, chú bé đã không bị sói ăn thịt. Tôi nghĩ câu chuyện cố gắng bảo chúng ta phải trông chừng con cái, đặc biệt nếu chúng là những tay nói dối bệnh lý. Cảm ơn.”

Conner chẳng bao giờ cố tỏ ra hài hước cả. Cậu chỉ quá sức thật thà khi nói ra những ý nghĩ và quan điểm của mình thôi. Sự thành thật này luôn khiến cả lớp thích thú, nhưng với cô giáo thì không bao giờ.

“Cảm ơn trò Bailey,” cô Peters nói gay gắt. “Em có thể ngồi xuống rồi.”

Conner biết mình đã làm hỏng bét cả. Cậu về chỗ ngồi, trở lại vị trí của mình dưới cái nhìn lạnh lùng và hơi thở ấm của cô giáo. Chẳng biết cậu cứ phải cố gắng mãi để làm gì nữa?

Chẳng có ngày nào mà sau buổi học, Conner không cảm thấy mình hoàn toàn vô dụng. Chỉ có một người có thể làm cậu bé cảm thấy khá hơn những lúc thế này.

Conner chỉ ước gì người đó vẫn còn ở đây…

Ông Bailey luôn biết được khi nào con trai cần được trò chuyện với ông. Óc quan sát hay linh cảm chẳng liên quan gì ở đây cả, mà là địa điểm. Thỉnh thoảng, ông Peters đi làm về và thấy con trai ngồi vắt vẻo trên cây sồi ở sân trước với vẻ trầm tư trên gương mặt.

“Conner?” ông Bailey sẽ hỏi, tiến lại chỗ cái cây. “Mọi chuyện có ổn không, anh bạn?” “Ừ hử,” Conner sẽ lầm bầm.

“Con có chắc không đấy?” ông Bailey hỏi.

“Dạ.” Conner đáp chẳng mấy thuyết phục. Cậu bé không hay nói thẳng những rắc rối của mình ra như chị, nhưng người ta có thể thấy nó trên mặt cậu. Ông Peters sẽ trèo lên và ngồi vào chỗ cạnh con trai trên cành cây, nhẹ nhàng dỗ cậu nói ra những điều phiền muộn.

“Con có chắc con không muốn nói về nó không?” Ông

Bailey tiếp. “Có chuyện gì xảy ra ở trường hôm nay à?” Conner sẽ gật đầu.

“Con bị điểm kém một bài kiểm tra,” cậu bé thú nhận vào một dịp nọ.

“Con có học bài để làm kiểm tra không?” cha cậu hỏi.

“Có ạ,” Conner đáp. “Con đã học rất kỹ, cha ơi. Nhưng chẳng ích gì cả. Con sẽ không bao giờ thông minh như chị Alex.” Má của cậu ửng đỏ vì xấu hổ.

“Conner, để cha nói cho con biết một điều mà phải rất lâu cha mới học được,” ông Bailey nói. “Những người phụ nữ trong đời con sẽ luôn có vẻ thông minh hơn; đơn giản thế thôi. Cha đã lấy mẹ con hơn 13 năm rồi, vậy mà cha vẫn gặp khó khăn trong việc sánh bằng mẹ. Con không thể cứ so sánh mình với người khác.”

“Nhưng con thật ngốc, cha ạ,” Conner thốt lên, mắt đẫm lệ.

“Cha thấy điều đó thật không tin được,” ông Bailey nói. “Cần có trí thông minh mới trở nên hài hước và có được lời nói đùa hay, mà con là đứa trẻ hài hước nhất cha biết đấy!”

“Tính hài hước chằng giúp ích gì cho môn lịch sử hay toán học hết,” Conner nói. “Chẳng có ích gì việc ở trường con cố gắng thế nào. Con sẽ luôn là đứa trẻ ngớ ngẩn trong lớp học thôi…”

Gương mặt Conner trở nên trắng nhợt và vô cảm; cậu nhìn chằm chằm vào khoảng không, hổ thẹn đến mức đau lòng. May cho cậu, ông Bailey luôn có một câu chuyện khích lệ tinh thần cho mỗi tình huống.

“Conner, cha có kể con huyền thoại về Chú cá biết đi chưa?” ông Bailey hỏi con trai.

Cậu ngước nhìn lên cha. “Chú cá biết đi à?” Conner hỏi. “Cha ơi, con không có ý làm mất lòng cha đâu, nhưng con không nghĩ một câu chuyện của cha có thể làm con vui lên vào lúc này.”

“Được rồi, tùy con thôi,” ông Peters đáp.

Một lúc sau, sự tò mò đã xui khiến cậu nhượng bộ.

“Được rồi, cha có thể kể con nghe chuyện Chú cá biết đi,” Conner cất tiếng.

Mắt ông Bailey sáng lên như chúng vẫn luôn thế khi ông sắp kể một câu chuyện. Conner có thể đoán được đó sẽ là một câu chuyện hay.

“Ngày xửa ngày xưa, có một con cá lớn sống một mình trong một cái hồ,” ông Bailey kể. “Mỗi ngày, con cá đều nhìn đầy ao ước cảnh một cậu bé đến từ ngôi làng gần đó chơi với lũ ngựa, chó và sóc trên bờ…”

“Có con chó nào sẽ chết trong câu chuyện này hở cha?” Conner cắt ngang. “Cha biết con ghét các chuyện mà trong đó lũ chó phải chết…”

“Để cha kể xong đã nào,” ông Bailey tiếp tục. “Một ngày kia, một nàng tiên đến chỗ cái hồ và cho con cá một điều ước…”

“Tùy tiện quá vậy,” Conner thốt lên. “Sao các vị tiên cứ xuất hiện và làm việc tốt cho những người họ chẳng quen biết thế?”

“Nghĩa vụ của họ chăng?” ông Bailey nhún vai. “Nhưng để khỏi tranh luận, cứ coi như nàng tiên đánh rơi đũa thần trong hồ và con cá đã lấy lại nó cho nàng, vì thế, nàng cho con cá một điều ước để trả ơn. Được rồi chứ?”

“Thế được hơn rồi,” Conner nói. “Tiếp tục đi cha.”

“Con cá, dễ đoán thôi, ước có được chân để nó có thể chơi với cậu bé đến từ ngôi làng,” ông Bailey kể. “Vì thế, nàng tiên biến vây của nó thành chân và nó trở thành Con cá biết đi.”

“Việc đó thật quái dị,” Conner nói. “Để con đoán nhé, con cá trông dị hợm quá, cậu bé không muốn chơi với nó?”

“Không, họ trở thành bạn tốt và cùng chơi đùa với các loài động vật trên bờ khác,” ông Bailey kể cho con. “Nhưng một ngày kia, cậu bé ngã vào hồ và không biết bơi! Chú cá biết đi cố cứu cậu bé, nhưng không được; chú ta chẳng còn vây nữa! Đáng buồn thay, cậu bé chết đuối.”

Miệng của Conner há hốc như cái ngăn chứa đồ nhỏ trên xe hơi bị hư.

“Con thấy đấy, nếu con cá đã ở lại hồ và không ước mình biến thành thứ khác, nó đã có thể cứu lấy mạng sống của cậu bé,” ông Bailey kết thúc.

“Cha ơi, đó là một câu chuyện kinh khủng,” cậu bé thốt lên. “Làm sao một cậu bé sống gần một cái hồ lại không biết bơi? Chó biết bơi! Một trong những chú chó không thể cứu cậu bé sao? Nàng tiên đó ở đâu khi cậu bé đang chết đuối chứ?”

“Cha nghĩ con đã bỏ qua ý chính của câu chuyện rồi,” ông Bailey nói. “Đôi khi, chúng ta quên mất ưu điểm của mình vì ta chỉ chú ý đến cái mà ta không có. Chỉ vì con phải nỗ lực hơn khi việc đó với người khác có vẻ dễ dàng không có nghĩa là con không có năng khiếu của riêng mình.”

Conner nghĩ về điều này một chốc. “Con nghĩ con hiểu rồi ạ,” cậu bé nói.

Ông Bailey mỉm cười với cậu. “Giờ thì sao ta không trèo xuống cái cây này, và cha sẽ giúp con học để làm bài kiểm tra tiếp theo?”

“Con nói với cha rồi, học cũng không ích gì đâu,” Conner nói. “Con đã cố, cố và cố. Chẳng ích gì cả.”

“Thế thì ta sẽ nghĩ ra cách học riêng vậy,” ông Bailey bảo cậu. “Chúng ta sẽ xem ảnh những người trong sách lịch sử của con và đặt ra những truyện cười về họ để con nhớ tên họ. Và ta sẽ tạo ra những bối cảnh hài hước để giúp con nhớ tất cả các công thức toán đó.”

Conner gật đầu từ từ nhưng đầy quả quyết và đồng ý làm thế.

“Được rồi,” cậu bé hơi nhoẻn cười nói. “Nhưng để cha tham khảo sau này, con thích câu chuyện về Cái cây cong của cha hơn.”

Chuyến đi bộ về nhà hôm ấy rất im ắng. Alex có thể nhận thấy bài thuyết trình của em trai đã khiến cậu hơi căng thẳng. Từng chút một, cô bé thử phá vỡ sự im lặng bằng những lời nhận xét khích lệ - hay ít ra em nghĩ đó là khích lệ.

“Chị nghĩ là em có ý hay đấy,” Alex lên tiếng. “Tất nhiên đó không phải là ý chị sẽ đưa ra đâu.”

“Cảm ơn,” Conner đáp. Chị cậu chẳng giúp ích gì.

“Em có lẽ đã phân tích hơi xa quá,” Alex lại nói. “Chị cũng làm thế hoài. Đôi khi chị đọc một truyện và diễn giải nó theo ý chị muốn, thay vì theo ý mà tác giả muốn chị hiểu. Cần phải luyện tập nhiều mới được.”

Cậu bé không trả lời. Chị cậu vẫn chẳng giúp ích gì cả.

“Ừ thì, hôm nay là sinh nhật chúng ta đấy,” Alex nhắc cậu. “Em có háo hức khi lên 12 tuổi không?”

“Không hẳn,” Conner thú nhận. “Cũng như 11 vậy thôi. Mà mình chẳng phải sắp có thêm răng hàm rồi sao?”

“Thôi nào, hãy suy nghĩ tích cực lên,” Alex kiên quyết. “Mặc dù chúng ta không có gì hào hứng để làm ngày sinh nhật, mình vẫn nên lạc quan. Có rất nhiều thứ đáng trông đợi mà! Một năm nữa là ta thành thiếu niên rồi!”

“Thì thế,” Conner đáp. “Chỉ bốn năm nữa là mình có thể lái xe!”

“Và sáu năm nữa chúng ta có thể bầu cử và vào đại học!” Alex thêm vào.

Đó là tất cả những gì chúng nghĩ ra được. Sự hồ hởi của chúng là giả tạo, chúng đều biết thế, vậy nên cả hai giữ im lặng suốt quãng đường còn lại. Ngay cả nếu có một bữa tiệc hoành tráng nhất thế giới chờ chúng ở nhà thì ngày sinh nhật luôn thật khó khăn với hai chị em.

Trường học cũng như dự đoán. Chuyến đi bộ về nhà như mọi khi. Cả ngày qua có vẻ bình thường. Chẳng có gì khác thường để làm cho ngày sinh nhật của chúng có vẻ đặc biệt… cho đến khi chúng về tới nhà và thấy một chiếc xe hơi màu xanh nhạt rẽ vào lối đi.

“Bà nội?” cặp sinh đôi đồng thanh thốt lên.

“Ngạc nhiên không nào?” bà của chúng reo lên, bước ra khỏi xe. Bà to tiếng đến độ cả khu nhà này có thể nghe được.

Cặp song sinh chạy đến chỗ bà với nụ cười toe toét trên mặt. Chúng chỉ được gặp bà vài lần một năm và thật ngạc nhiên khi thấy bà trên lối đi mà chẳng có thông báo trước.

Bà ôm chúng thật chặt đến nỗi hai đứa tưởng sẽ nổ tung mất. “Xem hai cháu kìa!” bà nói. “Hai cháu đều cao lên ba tấc kể từ lần cuối gặp bà đấy!”

Bà của chúng là một người phụ nữ nhỏ bé với mái tóc nâu ngả xám dài được tết thành bím thật chặt. Bà có nụ cười ấm áp nhất và ánh mắt hiền từ nhất thế giới, đôi mắt nheo nheo vui vẻ mỗi khi bà cười, hệt như mắt của cha Alex và Conner. Bà vui vẻ và sôi nổi, vốn chính là cái mà bọn trẻ cần.

Bà luôn mặc những bộ váy màu sáng và đôi giày mang đậm dấu ấn riêng với dây trắng và gót nâu. Bà không bao giờ ở cách xa hơn vài tấc chiếc túi du lịch xanh lục to lớn và cái ví của bà. Và dù ông nội đã mất nhiều năm trước, bà luôn đeo chiếc nhẫn cưới trên tay.

“Chúng cháu chẳng hề biết bà tới!” Conner nói.

“Còn gì là bất ngờ nếu các cháu biết bà tới chứ,” bà đáp.

“Bà tới đây làm gì vậy bà?” Alex hỏi.

“Mẹ các cháu gọi điện cho bà và nhờ bà ở bên các cháu khi mẹ đi làm,” bà bảo chúng. “Bà sao có thể để các cháu một mình vào ngày sinh nhật chứ? Ơn trời bà đang ở trong nước!”

Bà chúng đã về hưu và dành phần lớn thời gian trong năm du lịch vòng quanh thế giới với những người bạn hưu khác. Họ đến các nước đang phát triển, đọc truyện cho trẻ em ở các bệnh viện và dạy những trẻ khác của cộng đồng biết đọc và viết.

“Đến giúp bà mang đồ đạc vào nào,” bà bảo cặp song sinh. Bà mở cốp xe và bọn trẻ bắt đầu dỡ xuống hết túi này đến túi khác đầy ắp thức ăn mang vào nhà. Có đủ thức ăn để nuôi sống chúng hàng tuần.

Bà Bailey đang ngồi ở bàn bếp, xem qua một chồng thư khác có dán nhãn cảnh báo đỏ chói. Bà nhanh chóng cất chúng qua một bên khi cặp song sinh và bà nội nối nhau vào bếp, mang theo các túi thức ăn.

“Tất cả những thứ này là gì vậy ạ?” Bà Bailey hỏi.

“Chào con yêu!” Bà nội nói với mẹ Alex. “Mẹ định nấu cho bọn trẻ một bữa tối sinh nhật hoành tráng và không chắc trong nhà con có gì, nên mẹ đã tới cửa hàng và chọn ra vài món.”

Bà nội của chúng vốn khéo ăn nói.

“Mẹ không cần phải mất công vậy đâu,” bà Bailey nói, lắc đầu, bất ngờ trước hành động này.

“Không mất công gì cả,” bà nội nói với một nụ cười nhẹ trấn an. “Alex, Conner, sao các cháu không đi lấy quà sinh nhật từ ghế trước xe bà nhỉ, để bà hỏi thăm mẹ các cháu một chút? Nhưng đừng mở chúng trước tối nay đấy!” Bọn trẻ vui sướng làm theo lời bà. Quà là một từ đã biến mất khỏi từ điển của chúng bấy lâu nay.

“Thấy không, chị đã bảo mà!” Alex nói với Conner trên đường ra xe của bà. “Sự lạc quan luôn được đền đáp đấy!” “Rồi, biết rồi…” Conner đáp.

Nửa tá quà được gói với những cái nơ sặc sỡ, được đánh dấu riêng, đang chờ chúng trong ghế trước xe.

Bọn trẻ trở vào nhà với đống quà của mình. Bà nội và mẹ chúng vẫn đang trò chuyện mà chắc hẳn chúng không nên nghe.

“Mọi chuyện vẫn còn khó khăn,” bà Bailey nói. “Ngay cả sau khi bán hiệu sách, nhà bị tịch thu, tụi con vẫn còn vài món nợ và vài thứ chưa trả được sau lễ tang. Nhưng tụi con sẽ tìm ra cách. Trong vài tháng nữa tụi con sẽ vực dậy được.”

Bà nội nắm lấy đôi tay mẹ Alex.

“Nếu con cần thứ gì, con yêu quý, và ý mẹ là mọi thứ, con biết phải tìm mẹ ở đâu mà,”

“Mẹ đã giúp đỡ nhiều quá rồi,” bà Bailey đáp. “Con không biết giờ chúng con đang ở đâu nếu không nhờ có mẹ. Con không thể đòi hỏi nhiều hơn từ mẹ nữa.”

“Con không đòi hỏi, mẹ cho con đấy chứ,” bà nội vỗ về mẹ Alex.

Bọn trẻ biết sẽ bị phát hiện nếu còn nghe trộm thêm chút nữa, nên chúng ôm quà trở lại nhà bếp.

“Rồi, mẹ phải trở lại chỗ làm đây,” bà Bailey nói rồi hôn lên đầu cả hai đứa. “Có một đêm tuyệt vời nhé, các con!

Mẹ sẽ gặp các con ngày mai. Chừa lại cho mẹ chút tiệc tùng nhé!” Bà thu dọn đồ đạc và thầm gửi một lời cảm ơn đầy ý nghĩa đến bà nội bọn trẻ trên đường ra ngoài.

Bà nội xếp gọn đồ đạc của mình vào phòng ngủ dành cho khách rồi trở lại nhà bếp, nơi bà tìm thấy một chồng hóa đơn bà Bailey đã đặt qua một bên. Bà thả mớ thư từ đó vào ví của mình với một nụ cười. Thế đấy. Bà yêu thích việc giúp đỡ mọi người, đặc biệt là khi người ta không muốn thế.

“Bắt đầu làm bữa tối nhé, các cháu?” Bà nội cất lời, vỗ tay.

Alex và Conner ngồi vào bàn và trò chuyện với bà trong khi bà nội chúng làm việc thoăn thoắt. Bà kể cho chúng nghe tất tần tật về những chuyến đi vừa qua của bà, những khó khăn mà bà và bạn của bà vấp phải và những người thú vị đã gặp trên đường.

“Bà chưa bao giờ gặp ai mà lại không học được điều gì từ họ cả!” Bà nội nói. “Ngay cả những người đơn điệu nhất cũng sẽ làm các cháu phải ngạc nhiên. Hãy nhớ đấy!”

Bà làm nhiều món khác nhau, không thể biết được nguyên liệu nào sẽ cho vào đâu. Mọi thứ bà làm đều rất nhanh và bà sử dụng hầu hết chảo và đĩa có trong bếp. Với mỗi giây trôi qua, bụng của bọn trẻ lại réo to hơn, miệng chúng lại ứa nước miếng nhiều hơn.

Cuối cùng, sau vài tiếng bị hành hạ với mùi thơm đầy khiêu khích, chúng cũng được ăn. Alex và Conner đã trở nên quá quen với những bữa tối đông lạnh và đồ ăn mua về đến nỗi chúng đã quên mất thức ăn ngon thì có vị thế nào.

Có các dĩa khoai tây nghiền với mì ống và pho mát, gà nướng bỏ lò với cà rốt và đậu, lại có bánh mì nóng hổi. Bàn ăn nhà bọn trẻ trông như trang bìa một cuốn sách dạy nấu ăn vậy.

Ngay khi bọn trẻ nghĩ chúng không thể ăn thêm được nữa, bà lại mang một chiếc bánh sinh nhật khổng lồ ra từ trong lò. Cặp song sinh rất ngạc nhiên; chúng thậm chí không nhận ra bà đã nướng một ổ bánh. Bà hát “Chúc mừng sinh nhật” và bọn trẻ thổi nến.

“Giờ thì mở quà của các cháu ra đi!” Bà nói. “Bà đã thu thập chúng cho các cháu cả năm đấy!”

Bọn trẻ mở những gói quà và ngập trong đủ thứ quà lưu niệm nhỏ từ mọi đất nước bà chúng đã đến.

Alex được tặng bản in những cuốn sách yêu thích nhất của cô bé trong các ngôn ngữ khác: Alice ở xứ sở thần tiên bằng tiếng Pháp, Phù thủy xứ Oz tiếng Đức và Những người phụ nữ nhỏ bé tiếng Hà Lan. Conner được một đống kẹo và áo thun lòe loẹt có những dòng chữ đại loại như “Người bà điên rồ của tôi đã đến Ấn Độ và tất cả những gì tôi nhận được chỉ là cái áo sơ mi mèng này”.

Chúng đều nhận được nhiều bức tượng nhỏ hình các kiến trúc nổi tiếng như tháp Eiffel, tháp nghiêng Pisa và đền Taj Mahal.

“Thật điên rồ khi nghĩ rằng những nơi như thế này là có thật trên thế giới,” Alex nói, cầm cái tháp Eiffel trong tay.

“Cháu sẽ ngạc nhiên khi biết còn biết bao nhiêu thứ đang chờ được khám phá ngoài kia đấy,” bà nội nói với nụ cười và ánh mắt lấp lánh.

Một ngày chẳng đáng trông đợi mấy đã trở thành một trong những sinh nhật tuyệt nhất mà bọn trẻ từng có.

Đêm về khuya, chuyến thăm của bà dần kết thúc trong vui buồn lẫn lộn. Từ khi cha chúng mất, bọn trẻ chưa bao giờ được gặp bà lâu hơn một ngày mỗi lần, và lúc nào cũng có khoảng cách đến vài tháng giữa các chuyến thăm. Bà lúc nào cũng bận bịu với các chuyến đi của mình.

“Khi nào thì bà lại đi ạ?” Alex hỏi bà.

“Ngày mai,” bà đáp. “Ngay sau khi bà đưa các cháu đến trường.”

Lưng của bọn trẻ chùng xuống một chút.

“Sao thế?” bà chúng hỏi, cảm thấy tinh thần bọn trẻ đang xuống thấp.

“Chúng cháu chỉ ước bà có thể ở lại lâu hơn, bà ơi. Chỉ thế thôi,” Conner đáp.

“Chúng cháu rất nhớ bà khi bà đi xa,” Alex thêm vào. “Mọi thứ ở đây thật ảm đạm khi không có cha, nhưng bà khiến cho mọi thứ có vẻ như ổn thỏa cả.”

Nụ cười thường trực trên gương mặt bà nội thoáng mờ đi, và ánh nhìn của bà trôi ra ngoài cửa sổ. Bà nhìn chăm chú lên bầu trời đêm và hít vào một hơi dài.

“Ôi, bọn trẻ của bà, nếu có thể dành mọi ngày bên các cháu, bà sẽ làm thế,” bà nói đầy ao ước, có lẽ buồn bã hơn bà định thể hiện ra. “Nhưng đôi khi cuộc sống trao cho ta những trách nhiệm nhất định – không phải vì chúng ta muốn thế, mà bởi vì mục đích của chúng ta là có chúng – và nhiệm vụ của chúng ta là phải thực hiện chúng. Tất cả những gì bà có thể nghĩ đến là bà sẽ nhớ hai cháu và cha các cháu đến thế nào khi bà đi xa.”

Thật khó để Alex và Conner hiểu được điều đó. Bà không muốn đi xa nhiều như bà đã làm sao?

Bà lại nhìn chúng; đôi mắt bà sáng lên với một ý tưởng mới.

“Bà suýt quên mất. Bà còn một món quà nữa cho các cháu!” Bà nói, bật dậy và nhún nhảy đi vào phòng kế bên.

Bà trở lại mang theo một cuốn sách to lớn và cũ kỹ với bìa màu ngọc lục bảo sẫm có tựa đề Miền Cổ Tích viết bằng chữ vàng. Alex và Conner nhận ra quyển sách ngay khi chúng vừa thấy nó. Nếu tuổi thơ của bọn trẻ có thể được biểu tượng hóa bằng một vật gì thì đó là cuốn sách này.

“Đó là cuốn truyện cũ của chúng cháu!” Alex thốt lên. “Cháu đã không thấy nó nhiều năm rồi!”

Bà nội gật đầu. “Nó đã cũ lắm và đã ở trong gia đình chúng ta từ lâu rồi,” Bà kể. “Bà mang chúng theo mình mọi nơi và đọc truyện cho trẻ em ở các nước khác nghe. Nhưng bây giờ thì bà muốn hai cháu giữ nó.”

Cặp song sinh rất ngạc nhiên với nghĩa cử đó.

“Gì ạ?” Conner hỏi. “Chúng cháu không thể lấy cuốn sách của bà được. Đó là Miền Cổ Tích. Nó là sách của bà. Nó luôn rất quan trọng với bà mà.”

Bà nội mở cuốn sách ra và lật qua vài trang. Cả căn phòng lập tức tràn ngập mùi giấy cũ.

“Thật thế,” bà nói. “Cuốn sách này và bà đã ở bên nhau nhiều năm nay, nhưng khoảng thời gian tốt đẹp nhất là khi bà đọc nó cho các cháu. Vì vậy, bà muốn để nó lại cho các cháu. Bà không cần nó nữa; hơn nữa, bà đã nhớ tất cả các truyện rồi.”

Bà đưa cuốn sách cho bọn trẻ. Alex ngập ngừng nhưng rồi cũng nhận cuốn sách từ tay bà. Có vẻ không đúng lắm khi nhận nó. Cứ như là nhận được một món đồ gia truyền từ một người bà con vẫn còn sống vậy.

“Mỗi khi các cháu thấy buồn, vào những ngày các cháu nhớ cha nhất hay khi các cháu ước gì bà có ở đây, tất cả những gì các cháu phải làm là mở sách ra và chúng ta sẽ được ở bên nhau trong tâm tưởng, cùng đọc sách,” bà bảo chúng. “Giờ thì trễ rồi, mà các cháu phải đến trường ngày mai đấy. Hãy chuẩn bị vào giường đi nào.”

Bọn trẻ làm theo lời bà bảo. Mặc dù chúng đã quá lớn để làm thế, bà vẫn kiên quyết đưa chúng vào giường như những ngày thơ bé.

Alex mang Miền Cổ Tích lên giường với mình đêm đó. Em nhẹ nhàng lật qua các trang giấy cũ, cẩn thận không làm rách chúng.

Xem lại những minh họa đầy màu sắc về nơi chốn và nhân vật khiến cô bé cảm thấy như mình đang đọc một quyển lưu ảnh cũ vậy. Alex yêu thích được dành thời gian đọc về các nhân vật cổ tích hơn bất cứ thứ gì khác.

Họ luôn có vẻ rất thật và gần gũi với em. Họ là những người bạn tốt nhất Alex từng có được.

“Mình ước gì được chọn thế giới mà mình sống,” Alex nói, lướt nhẹ ngón tay trên những hình minh họa. Chúng thật cuốn hút.

Trong tay cô bé là một thế giới khác hẳn thế giới em đang sống. Đó là một thế giới không bị tác động bởi chính trị hay công nghệ, thế giới mà điều tốt lành luôn đến với những người tốt bụng, thế giới mà trọn vẹn con người cô bé khao khát được là một phần trong đó.

Alex mường tượng sẽ như thế nào nếu được là một nhân vật trong truyện cổ tích của chính mình: những khu rừng sẽ chạy qua, những lâu đài sẽ sống và những sinh vật mà Alex sẽ kết bạn.

Dần dà, mi mắt của Alex bắt đầu trĩu nặng. Cô bé khép lại Miền Cổ Tích, đặt nó lên đầu giường, tắt đèn và bắt đầu trôi dạt vào giấc ngủ. Cô bé sắp sửa chìm vào cõi vô thức thì nghe thấy một tiếng động lạ.

Một âm thanh ngân nga trầm ấm lấp đầy phòng.

“Cái gì đấy?” Alex hỏi và mở mắt ra xem. Không thấy gì cả. “Lạ thật,” em lẩm bẩm.

Alex lại nhắm mắt và bắt đầu thả mình vào giấc ngủ. Tiếng ngân nga lại bắt đầu vang khắp phòng.

Alex ngồi dậy, nhìn quanh phòng và rốt cuộc cũng thấy cái gì đang tạo ra tiếng ồn. Nó đến từ bên trong cuốn Miền Cổ Tích bên đầu giường cô bé và, trước sự ngạc nhiên của em, các trang giấy rõ ràng đang phát sáng.