← Quay lại trang sách

London, 1860

Trời nổi bão tuyết. Sau một đợt tuyết khá nhẹ chẳng thấm vào đâu thì mấy ngày trước, giữa tháng Một, nhiệt độ bỗng giảm mạnh. Đó là thời điểm London lạnh nhất tôi từng biết kể từ hồi năm 1814, năm của những trò chơi khăm về Napoléon, vụ bê bối tài chính [1] và Hội chợ Băng giá cuối cùng, khi những tiểu thương bán hàng trên dòng sông Thames đóng băng.

Lúc ấy, ở ngoài đường đồng nghĩa với việc gần như không cử động nổi mặt mũi. Ta cơ hồ cảm thấy máu mình bắt đầu đông lại. Tôi hầu như không nhìn thấy gì trong cuốc đi bộ hai dặm tới đường Blackfriars, và tôi được dẫn lối nhờ đèn đường, những cột đèn bằng sắt rèn màu đen thanh lịch đã có thời nom chừng quá hiện đại. Đường Blackfriars là nơi tọa lạc bệnh viện mà bác sĩ Hutchinson công tác vào thời điểm đó, Viện Da liễu London Chuyên Điều trị Bệnh Ngoài da Không lây nhiễm. Quả là một cái tên bắt tai, theo tiêu chuẩn thời Victoria mà nói.

Tất nhiên là tôi không mắc bệnh ngoài da. Da tôi không ngứa ngáy. Tôi không bị nổi mẩn. Chẳng có vấn đề gì với da của tôi hết ngoại trừ việc nó đã hai trăm bảy mươi chín tuổi nhưng trông vẫn trẻ hơn thế hàng thế kỷ; cơ mà, toàn bộ cơ thể tôi cũng có cảm giác trẻ hơn hàng thế kỷ đó thôi. Tinh thần tôi mà cũng như đang vào độ ba mươi thì hay biết mấy.

Lý do tôi liên hệ với bác sĩ Hutchinson là vì công trình của ông ấy về việc phát hiện và nghiên cứu một bệnh lý tương tự, có điều trái ngược, mang tên “progeria”.

Từ này bắt nguồn từ từ “pro” trong tiếng Hy Lạp, không chỉ mang nghĩa là trước mà còn có nghĩa là sớm , cùng với “geras” tức là tuổi già . Già trước tuổi. Về cơ bản thì nó là như vậy đấy. Một đứa trẻ sinh ra và khi mới lẫm chẫm biết đi, các triệu chứng lạ đã bắt đầu xuất hiện. Các triệu chứng này trở nên khiến người ta sửng sốt hơn theo tuổi đời của đứa trẻ.

Triệu chứng bao gồm những biểu hiện liên quan đến lão hóa: tóc rụng, da nhăn nheo, xương yếu, mạch máu nổi rõ, khớp cứng, suy thận và thông thường là mất thị lực. Họ chết yểu.

Vẫn luôn tồn tại những đứa trẻ xấu số như thế. Tuy nhiên căn bệnh này chưa từng được nhìn nhận cho đến khi bác sĩ Hutchinson mô tả nó lần đầu tiên, liên quan đến một cậu bé sáu tuổi bị rụng tóc và teo da.

Vì vậy, trên đường tới gặp ông, tôi khá lạc quan. Nếu có ai giúp được tôi, thì đó chính là ông. Chuyện là, thực ra, gần đây tôi đang khổ sở vật lộn. Tôi đã dành phần lớn thời gian trong hai trăm năm qua lùng sục khắp London và những vùng khác trên đất nước này, truy tìm Marion, thảng hoặc tưởng rằng mình đã gặp ai đó giống con bé, rồi hành xử như kẻ ngốc. Tôi đặc biệt nhớ trận đòn của tay thợ sửa giày say xỉn ở York trên phố Shambles cứ đinh ninh rằng tôi đang gạ tình vợ gã, khi tôi hỏi thăm quê quán cô ta. Tôi chơi nhạc bất cứ khi nào được trả tiền, khăn gói lên đường và thay danh đổi phận hễ có bất kỳ ai sinh nghi. Tôi chưa bao giờ tích lũy của cải. Tiền tôi làm ra luôn bay nhanh như gió, đổ hết vào việc thuê nhà và bia bọt.

Đã nhiều lần tôi mất hết hy vọng vào công cuộc tìm kiếm. Không chỉ kiếm tìm một người thất lạc, mà còn tìm lại thứ tôi đã đánh mất - lẽ sống. Một mũi tên chỉ lối. Tôi cho rằng loài người không sống quá một trăm tuổi bởi một lẽ đơn giản là họ không sẵn sàng cho việc đó. Về mặt tâm lý, ý tôi là vậy. Nói nôm na là ta cạn kiệt . Không còn đủ cái tôi mà sống tiếp. Ta đâm ra quá chán ngán với tâm trí của chính mình. Với cách cuộc sống cứ lặp đi lặp lại. Cái cách mà, sau một thời gian, chẳng có một nụ cười hay cứ chỉ nào mà ta chưa từng thấy qua. Chẳng có thay đổi nào trong trật tự thế giới lại không lặp lại những đổi thay khác trong trật tự thế giới. Và tin tức riết rồi cũng chẳng còn mang tính tức thời nữa. Ngay cái từ “tin tức” cũng trở thành một trò đùa. Hết thảy chỉ là một vòng lặp. Một vòng lặp dần dần đi xuống. Và sự khoan dung của ta dành cho loài người, vốn cứ phạm đi phạm lại phạm đi phạm lại cùng những sai lầm cũ, dần hao mòn. Như thể bị kẹt cứng trong đúng một bài hát, với đoạn điệp khúc ta từng thích mê nhưng giờ đây lại khiến ta muốn rứt béng tai mình ra cho rồi.

Quả thật, thường điều đó đã quá đủ để khiến ta muốn tự sát. Tôi đã thi thoảng nghĩ đến việc biến ham muốn này thành hành động. Nhiều năm sau khi Rose qua đời, tôi thường ra nhà thuốc, nung nấu ý định mua thạch tín. Và gần đây tôi lại trở về trạng thái đó. Đứng trên cầu, mơ tưởng về sự không tồn tại.

Và có thể tôi đã hành sự rồi, nếu không vì lời hứa với Rose và mẹ tôi.

Chỉ là tôi không hề thích tình trạng của mình.

Nó khiến tôi trở nên cô đơn. Và khi tôi nói cô đơn, ý tôi là nỗi cô đơn gào rú khắp tâm khảm ta như một ngọn gió sa mạc. Nó không chỉ là việc mất đi những người tôi từng quen biết mà còn là đánh mất chính bản thân tôi. Đánh mất con người tôi đã từng là khi còn bên họ.

Bạn thấy đấy, tổng cộng có ba người tôi đã yêu chân thành trong cuộc đời mình: mẹ tôi, Rose và Marion. Trong đó, hai người đã mất, người còn lại may chăng thì còn sống. Và không có tình yêu làm nơi neo đậu, tôi thành kẻ phiêu dạt. Tôi đã từng ra khơi, trên hai hải trình khác nhau, chìm trong men rượu, và chỉ có quyết tâm tìm thấy Marion, hy vọng nhân tiện tìm thấy cả bản thân mình nữa, mới thúc đẩy tôi đi tiếp.

Toi băng qua bão tuyết. Tôi đã ngà ngà say. Phải uống nhiều lắm mới khiến tôi ngà ngà say, nhưng tôi luôn nhất quyết nốc cho thật lực. Do trận tuyết, thành phố nom như chỉ còn một nửa, như thể tôi đang đi bên trong một trong những bức họa London mờ ảo mà Monet sắp vẽ. Xung quanh chẳng có ai, ngoại trừ bên ngoài Hội Truyền giáo Cơ Đốc, nơi một đám đàn ông vận com lê thùng thình, rách rưới, đội mũ nồi đang chờ xin thực phẩm. Họ lặng lẽ quá, im ắng quá, ủ dột quá, cứng đờ vì lạnh.

Tôi nhận ra có nhiều khả năng chuyến đi của tôi sẽ thành công cốc. Nhưng tôi có thể làm gì đây? Tôi tha thiết mong được gặp bác sĩ Hutchinson, bởi nếu có ai trên thế giới này có thể nói cho tôi biết về tình trạng của mình thì đó dứt khoát là ông.

Tôi không biết, với cái thời tiết này, liệu ông có ở đó không nữa.

Ngay khi tôi đến, một y tá, cô Forster, cam đoan với tôi rằng bác sĩ Hutchinson lúc nào cũng ở đây.

“Chưa từng nghỉ làm một ngày nào trong đời đâu, tôi dám khẳng định đấy,” cô Forster nói với tôi, cái câu mà tôi chắc mẩm cô đã nói với cả khối người trước đó. Trông cô sạch tinh tươm, trắng muốt, với chiếc mũ cùng tạp dề không tì vết, như thể cô được tạo nên bởi chính trận bão tuyết. “Hôm nay anh gặp may đấy,” cô nói. “Có vẻ như ai ở London cũng muốn nói chuyện với ngài Hutchinson về bệnh tình của mình.” Cô chăm chăm nhìn tôi, cố dò xem chính xác thì tôi mắc vấn đề ngoài da nào.

Tôi theo chân cô Forster lên ba tầng cầu thang rồi được bảo đợi trong một căn phòng tiện nghi, đầy những chiếc ghế lưng cao đắt tiền lót nhung đỏ và giấy dán tường hoa văn gấm cùng một chiếc đồng hồ treo tường trang trọng. “Ông ấy vẫn đang khám,” cô bảo tôi, bằng giọng thì thầm đầy tôn kính ta thường dùng ở nhà thờ. “Chắc anh phải đợi một lúc đấy, anh Cribbs.”

(Hiện giờ tôi là Edward Cribbs, nhằm vinh danh một bạn nhậu cũ ở Plymouth.)

“Chờ đợi là sở trường của tôi mà,” tôi đáp.

“Tốt quá, thưa anh,” cô nghiêm túc nói, rồi rời đi. Tôi nhớ mình đã ngồi trong căn phòng đó với những con người mặt mày chi chít những vết loang lổ và nổi mẩn khủng khiếp.

“Ngoài trời kinh khủng nhỉ?” tôi bắt chuyện với một phụ nữ có đốm phát ban tím bầm lan khắp mặt.

(Có một điều bất di bất dịch, suốt bốn thế kỷ qua, là mong muốn lấp đầy sự lặng im bằng cách nói về thời tiết của một người Anh, và bất cứ thời điểm nào sống ở đây tôi cũng không phải là ngoại lệ với quy tắc này.)

“À vâng, thưa anh,” bà ta đáp, nhưng không tiếp chuyện.

Cuối cùng thì cánh cửa cạnh chỗ tôi đang đợi cũng mở và một bệnh nhân nam bước ra ngoài. Anh ta ăn vận bảnh bao, như chàng công tử, nhưng mặt thì đầy những vết sần sùi, xù xì chẳng khác nào một dãy núi tí hon.

“Một ngày tốt lành,” anh ta nói với tôi, cười tươi hết cỡ khuôn mặt cho phép, rõ ràng đã được trải nghiệm phép mầu nào đó (hoặc lời hứa hẹn về một phép mầu).

Không gian chìm trong sự im lặng êm ru mà chỉ riêng các phòng chờ mới có và đồng hồ đánh dấu sự im lặng trôi qua cho tới khi đến lượt tôi.

Tôi bước vào phòng và điều tôi chú ý trước tiên là chính bác sĩ Hutchinson. Jonathan Hutchinson có tướng mạo hết sức ấn tượng. Kể cả trong thời đại cực thịnh của những quý ông có tướng mạo ấn tượng thì ông vẫn gây choáng ngợp. Ông cao ráo, lịch lãm và có chòm râu dài. Đặc biệt chòm râu khiến người ta phải trầm trồ thán phục. Không giống kiểu một triết gia Hy Lạp hay một kẻ đắm tàu dạt bờ, chòm râu này là thứ được tính toán kỹ lưỡng và lên kế hoạch trước, nó hẹp lại và mỏng dần từ chân xuống dưới ngọn cho đến khi chỉ còn một đường trắng mảnh, một cái đuôi nhạt dần vào hư không. Có lẽ do tính chất khắc nghiệt của buổi sáng hôm nay mà tôi nhìn thấy ở chòm râu ấy một phép ẩn dụ cho sự tồn tại của người phàm.

“Cảm ơn ông đã đồng ý gặp tôi,” tôi mở lời và ngay lập tức hối hận. Nó khiến tôi nghe có vẻ tuyệt vọng.

Bác sĩ Hutchinson kiểm tra đồng hồ bỏ túi. Ông còn làm thế thêm vài lần nữa, trong suốt cuộc gặp. Có khi ông không thực sự quan tâm đến giờ giấc. Tuồng như chỉ là một thói quen. Một thói quen khá phổ biến, thật vậy. Như cách thời nay người ta kiểm tra điện thoại thông minh.

Ông nhìn tôi chăm chú. Rồi ông cầm lá thư trên bàn lên. Lá thư tôi viết. Ông trích đọc lại cho tôi nghe.

“Kính gửi bác sĩ Hutchinson” - giọng ông đằm và khô, như rượu vang Porto vậy - “Tôi rất ngưỡng mộ công việc của ông và tình cờ đọc được một bài báo ông viết về căn bệnh ông mới phát hiện, theo đó cơ thể bị già đi trước tuổi... Bản thân tôi cũng gặp một tình trạng kỳ lạ, dẫu tương tự về bản chất, nhưng - của đáng tội - khó cắt nghĩa hơn bội phần... dường như với tôi ông là người duy nhất trong toàn thể cộng đồng Cơ Đốc có thể cho tôi một lời lý giải và từ đó khép lại bí ẩn cả đời này...”

Ông cẩn thận gập lá thư và đặt sang một bên bàn. Rồi ông săm soi tôi.

“Da dẻ anh rạng rỡ đầy sức sống. Đó là làn da của một người khỏe mạnh.”

“Tôi khỏe mà. Về mặt thể chất. Khỏe hơn phần đông mọi người.”

“Thế vấn đề của anh là gì?”

“Trước khi nói, tôi cần được đảm bảo rằng mình được bảo mật danh tính. Rằng nếu ông có ý định xuất bản bất cứ phát hiện nào có được nhờ những gì ông khám phá ra thì tên tôi cũng sẽ không xuất hiện trên bất cứ tạp chí nào. Đây là điều tối quan trọng. Tôi có được đảm bảo không?”

“Tất nhiên. Giờ thì anh khiến tôi cảm thấy tò mò rồi đấy. Nói tôi nghe vấn đề của anh đi.”

Và thế là tôi nói cho ông nghe. “Tôi già,” tôi nối gọn lỏn.

“Tôi không...”

“Tôi già hơn lẽ thường.”

Mất một giây, nhưng rồi ông có vẻ hiểu ra. Giọng ông sau đó thay đổi. Nghe thiếu chắc chắn hơn. Câu hỏi nhất thiết phải được đặt ra, dù tôi thấy ông sợ phải hỏi nó. “Già nhường nào ?”

“Già hơn mức có thể,” tôi đáp.

“Sự có thể là tất cả mọi thứ từng xảy ra. Mục đích của khoa học là tìm ra đâu là giới hạn của có thể. Khi chúng ta đạt được điều đó - và chúng ta sẽ làm được - thì sẽ không còn phép thuật, không còn mê tín, chỉ còn bản chất của sự việc mà thôi. Đã có thời việc địa cầu ta đang sinh sống không hề phẳng là chuyện bất khả. Khoa học - và chắc chắn là cả y học - không có nhiệm vụ để tâng bốc những kỳ vọng của chúng ta về tự nhiên. Ngược lại là đằng khác.” Ông nhìn tôi hồi lâu. Rồi ông rướn người về phía trước và thì thào. “Cá ươn.”

“Tôi không chắc là mình hiểu.”

Ông ngồi lại, mím môi. Ở ông toát lên vẻ thê lương. “Không ai thấy mối tương quan giữa cá ươn và bệnh phong, thế mà lại có đấy. Nếu ăn quá nhiều cá ươn, ta sẽ mắc bệnh phong.”

“Ồ,” tôi nói. “Tôi không biết điều đó.”

(Tất nhiên là ở hiện tại, từ thế kỷ hai mươi mốt, tôi có thể khẳng định ăn cá ươn không làm ta mắc bệnh phong, tuy nhiên tôi đã sống đủ lâu để biết rằng có khi hai trăm năm nữa, người ta lại chứng minh được rằng ăn cá ươn thực sự gây ra bệnh phong và rằng thực tình bác sĩ Hutchinson đã đúng về điều đó. Nếu sống đủ lâu, anh sẽ ngộ ra rằng mỗi sự việc đã được chứng minh về sau sẽ lại đều bị bác bỏ và rồi được chứng minh lại. Khi tôi còn nhỏ, người bình thường, không thuộc giới khoa học, vẫn tin rằng trái đất phẳng vì người ta đi lại đó đây và họ nhìn thấy như thế. Thế rồi rốt cuộc mọi người cũng hiểu ra được trái đất là hình cầu. Nhưng có một hôm, tôi đọc lướt qua một tờ tạp chí New Scientist ở hiệu sách WH Smith và nó là số chuyên đề về một thứ gọi là “nguyên lý hình chiếu ba chiều”. Nó liên quan đến lý thuyết dây và cơ học lượng tử và cách lực hấp dẫn hoạt động như một hình ảnh ba chiều. Dù sao thì, phần rối não nằm ở chỗ, thuyết này ngầm chỉ ra rằng toàn thể vũ trụ chỉ là thông tin hai chiều về chân trời vũ trụ và rằng mọi thứ chúng ta nghĩ là mình nhìn thấy trong không gian ba chiều thực ra chỉ là ảo ảnh như trong một bộ phim 3D, và tất cả có thể chỉ là mô phỏng. Vậy nên thực sự thì, thế giới (và tất cả mọi thứ) xét cho cùng có thể phẳng. Và rồi có khi lại không.

“Nào nói tôi nghe,” ông nói, nhắc tôi về câu hỏi vẫn đang treo đấy. Một câu hỏi tôi biết phải được trả lời. “Anh bao nhiêu tuổi?”

Và thế là tôi nói cho ông nghe. “Tôi sinh ngày mùng ba tháng Ba, năm 1581. Tôi hai trăm bảy mươi chín tuổi.”

Tôi tưởng ông sẽ cười, nhưng không. Ông chằm chằm nhìn tôi một hồi lâu thật lâu, trong khi tuyết vần vũ bên ngoài cửa sổ, như thể phản chiếu tâm trí đang quay cuồng của tôi. Mắt ông mở to, ngón tay véo véo môi dưới. Và rồi ông lên tiếng, “Ừm. Rồi. Thế là đã rõ vấn đề. Giờ tôi có thể bắt tay vào chẩn đoán cho anh.”

Tôi mỉm cười. Tốt. Sự chẩn đoán đích thị là thứ tôi theo đuổi.

“Nhưng, để được trợ giúp đúng cách, anh sẽ cần đi tới Bethlem.”

Tôi nhớ đã đi qua nơi đó. Loáng thoáng nghe thấy những tiếng gào thét từ bên trong. “Bệnh viện Bethlem ư? Hay còn gọi là... viện Bedlam?”

“Như nhau cả.”

“Nhưng đó là nơi dành cho người tâm thần mà.”

“Đó là trại thương điên, phải. Nơi ấy sẽ cho anh sự giúp đỡ anh cần. Giờ thì làm ơn, hôm nay tôi còn phải khám cho nhiều người nữa.”

Ông hất đầu về phía cửa.

“Nhưng...”

“Làm ơn, tôi khuyên anh nên tới Bethlem. Họ sẽ giúp anh chữa... bệnh hoang tưởng.”

Triết gia có tiếng tăm nhất thời đó là Arthur Schopenhauer người Đức, khi ấy vẫn (đang) còn sống. Tôi đã đọc rất nhiều sách của ông, một việc có lẽ không khôn ngoan chút nào. Đọc Schopenhauer lúc sầu muộn cũng giống như trút bỏ quần áo khi thấy lạnh, nhưng tôi chợt nhớ đến một câu ông viết.

Mọi người đều nhầm tưởng giới hạn tầm nhìn của mình là giới hạn của thế giới.

Khi tới gặp bác sĩ Hutchinson, tôi những tưởng mình sẽ gặp một con người có tầm nhìn khoa học rộng mở bậc nhất, người có khả năng hiểu được tình trạng của tôi hơn cả, và khi niềm tin này vuột mất, nó mang lại cảm giác như thể một nỗi đau. Cái chết của chính hy vọng. Tôi nằm ngoài mọi tầm nhìn. Tôi là một kiểu người vô hình.

Tôi đâm ra kích động. Tôi móc một đồng xu từ trong túi ra.

“Nhìn này. Nhìn đồng xu này đi. Nó từ thời Elizabeth đấy. Nhìn đi. Nhìn đi. Con gái tôi đã cho tôi khi tôi phải đi xa đấy.”

“Đó là một đồng xu cổ. Tôi có người bạn có một đồng xu bạc từ thời Henry VIII. Đồng halfgroat, tôi nghĩ nó được gọi như thế. Và tôi bảo đảm với anh, bạn tôi không sinh vào thời Tudor. Mà đồng halfgroat còn hiếm hơn đồng một xu đấy.”

“Tôi không bị hoang tưởng. Tôi cam đoan với ông. Tôi đã sống rất lâu rồi. Tôi đã sống ở thời điểm người Anh tìm ra đảo Tahiti. Tôi quen thuyền trưởng Cook. Tôi đã làm việc cho đoàn kịch Lord Chamberlain's Men... Xin ông, ông phải cho tôi biết. Có người nào khác tới gặp ông không? Một cô gái... một người phụ nữ... nhắc đến tình trạng tương tự. Tên con bé là Marion nhưng có thể nó đã xưng danh khác. Nó có thể cải dạng dưới một danh tính khác. Để sống sót, chúng tôi thường xuyên phải...”

Bác sĩ Hutchinson lúc này có vẻ lo lắng. “Mời anh đi cho. Tôi thấy anh có phần kích động rồi đấy.”

“Tất nhiên là tôi đang kích động. Ông là người duy nhất có thể giúp tôi. Tôi cần hiểu được bản thân. Tôi cần biết tại sao tôi lại ra nông nỗi này.”

Tôi túm lấy cổ tay ông. Ông rụt tay lại, như thể cơn điên của tôi có thể truyền nhiễm.

“Đồn cảnh sát cách đây không xa đâu. Nếu anh không tự ra ngoài, tôi sẽ kêu cứu và cảnh sát sẽ đến gô cổ anh đi đấy.”

Mắt tôi nhòa lệ. Hình ảnh bác sĩ Hutchinson hoen mờ thành một bóng ma. Tôi biết mình phải rời đi. Tôi biết mình phải từ bỏ hy vọng, ít nhất là trước mắt. Vì thế tôi đứng lên, gật đầu và rời đi mà không nói thêm một lời nào, rồi giữ kín về bản thân mình, lai lịch của mình, thêm ba mươi mốt năm nữa.

[1]

Năm 1814, có người tung tin Napoléon đã tử trận. Trò lừa bịp và tin đồn kết thúc chiến tranh đã có tác động ngay lập tức tới thị trường chứng khoán London. Giá trị của chứng khoán chính phủ đã tăng lên do sự phấn khích của các nhà đầu tư rằng chiến tranh đã kết thúc. Tuy nhiên, sau khi thông tin được đính chính, thị trường chứng khoán lại lao dốc.