← Quay lại trang sách

Vịnh Byron, Australia, hiện tại

Chúng tôi ngồi ngoài hiên, bao quanh là những dây đèn đom đóm và tiếng rì rầm trò chuyện vui vẻ.

Lần cuối cùng tôi gặp Omai, Australia, trong tâm trí tôi, là một phát kiến mới. Ấy vậy mà đến giờ trông Omai vẫn chẳng hề thay đổi. Mặt anh to ra một chút - không phải béo lên, chỉ là to ra theo tuổi tác - và có vài nếp nhăn quanh mắt vẫn ở đó kể cả khi anh thôi cười, nhưng tôi nghĩ một người ngoài cuộc ngây thơ sẽ đoán anh chừng ba mươi sáu tuổi. Anh mặc áo phông bạc màu in chân dung tự họa của Frida Kahlo, quảng cáo cho một triển lãm các tác phẩm của bà tại Phòng trưng bày Nghệ thuật New South Wales, Sydney.

“Đã lâu không gặp,” Omai nói vẻ bồi hồi. “Tôi nhớ anh lắm, bồ tèo.”

“Tôi cũng nhớ anh. Chà. Anh vừa nói bồ tèo à? Hợp với anh đấy.”

“Từ thập niên sáu mươi rồi. Kiểu như ở đây là phải nói thế ấy. Những thứ liên quan đến lướt sóng.”

Chúng tôi bắt đầu bằng món cocktail Martini ớt dừa mà Omai đã thử trước đây và đòi tôi cũng thử cho bằng được. Từ đây tôi có thể nhìn thấy biển, bên kia những thân cọ mập mạp và bãi biển rộng lớn, lấp ló dịu dàng dưới nửa vầng trăng.

“Trước giờ tôi chưa bao giờ uống Martini ớt dừa,” tôi nói với anh. “Già đi là như thế đấy. Ta hết những thứ mới để thử.”

“Ồ, tôi không biết nữa,” anh đáp, vẫn là người lạc quan. “Hầu như cả cuộc đời này tôi đã sống bên đại dương này đến đại dương khác mà vẫn chưa nhìn thấy cùng một con sóng hai lần. Là do mana đấy anh bạn ạ. Nó ở mọi nơi. Nó không bao giờ đứng yên. Nó giữ cho thế giới luôn mới mẻ. Cả hành tinh này là một ly Martini ớt dừa.”

Tôi phì cười.

“Vậy anh làm Sol Davis được bao lâu rồi?”

“Độ mười bảy năm. Đó là khi tôi đến Byron.” Tôi nhìn tất cả những người Australia vui vẻ đang tận hưởng tối thứ Sáu xung quanh. Đang có tiệc sinh nhật. Tiếng hò reo phấn khích đồng loạt nổ ra khi chiếc bánh xuất hiện với ba cây pháo cắm phía trên. Tiếng vỗ tay rào rào vang lên khi chiếc bánh được đặt xuống trước mặt người phụ nữ ở cuối bàn. Cô cài một chiếc huy hiệu ngoại cỡ trên áo gi lê. Sinh nhật mừng cô bước sang tuổi bốn mươi.

“Con nít con nôi,” tôi nói.

“Mốc bốn mươi tuổi,” Omai hóm hỉnh nói. “Nhớ chứ?”

Tôi gật đầu. “Có,” tôi buồn bã nói. “Tôi nhớ chứ. Anh thì sao?”

Mặt anh cũng toát lên vẻ buồn bã. “Có, đó là năm tôi phải rời Tahiti.”

Anh đưa mắt nhìn xa xăm, như thể khoảng không gian và thời gian khác ấy có thể được nhìn thấy đâu đó trong bóng tối ngoài hiên. “Tôi từng là một nhân thần. Mặt trời vì tôi mà tỏa sáng. Tôi liên minh với thời tiết và đại dương và hoa trái trên cây. Mà cậu phải nhớ rằng, hồi đó, trước khi người châu Âu đến Cơ Đốc giáo hóa chúng tôi, ừm, nhân thần không phải là quá hiếm. Thần thánh không cứ là phải thứ gì đó ở tít trên mây. Ý tôi là, nhìn tôi xem, tôi cũng ra dáng thần đấy chứ, nhỉ?”

“Món Martini này mạnh thật đấy,” tôi lựa lời.

“Có lẽ tất cả những điều này tôi từng nói với anh rồi.”

“Có lẽ. Lâu lắm rồi.”

“Lâu lẩu lầu lâu lâu lắm rồi.”

Một cô phục vụ đi tới. Tôi gọi món salad bí đỏ để khai vị và cá tráp làm món chính còn Omai chọn hai món mà, theo cô phục vụ, “đều có thịt ba chỉ”.

“Tôi biết,” anh nói, toét miệng cười. Anh vẫn là người điển trai nhất tôi từng gặp.

“Tôi chỉ nói cho rõ thôi ạ, phòng khi quý khách muốn thử các món đa dạng.”

“Vẫn đa dạng mà. Hai món khác nhau.”

“Vâng, thưa quý khách.”

“Và thêm hai ly này nữa,” anh nói, đoạn nâng ly.

“Có liền ạ.”

Anh chăm chú nhìn cô phục vụ. Cô cũng nhìn anh.

“Tôi biết anh,” cô nói. “Anh là người lướt sóng phải không?”

Omai cười. “Đây là vịnh Byron mà. Ai mà chả lướt sóng.”

“Không. Anh thì khác. Anh là Sol Davis, đúng chứ?”

Anh gật đầu, bẽn lẽn nhìn tôi. “Lỗi của tôi.”

“Ái chà. Anh nổi tiếng ở vùng này phết đấy chứ.”

“Làm gì có.”

“Có, chắc chắn là có. Tôi đã thấy anh lướt ống. Thật tuyệt . Trên mạng ấy.”

Omai lịch sự mỉm cười, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự lúng túng của anh. Cô phục vụ đi khỏi, anh cứ nhìn chằm chằm xuống bàn tay phải của mình. Anh xòe rộng các ngón tay, như mô phỏng một con sao biển, rồi khép thành nắm đấm, lật tay lại. Da dẻ anh mịn màng, màu bánh mật và trông trẻ trung. Được đại dương bảo tồn. Được chứng anageria bảo tồn.

Chúng tôi trò chuyện thêm.

Món khai vị đến.

Anh bắt đầu đánh chén. Anh nhắm mắt lại khi ăn miếng đầy ứ miệng đầu tiên và bật ra tiếng kêu khoan khoái. Tôi ghen tị với cách anh dễ dàng thỏa mãn đến vậy.

“Vậy,” anh nói, “dạo này anh thế nào?”

Tôi bèn kể anh nghe. Về cuộc đời nhà giáo của mình. Về cuộc sống trước đây. Lịch sử gần đây. Iceland. Canada. Đức. Hồng Kông. Ấn Độ. Mỹ. Rồi tôi nói về năm 1891. Về Hendrich. Hải âu Hội.

“Đó là những người như chúng ta. Có rất nhiều người. Ừm, có lẽ cũng không nhiều lắm.”

Tôi giải thích khi làm thành viên hội sẽ được giúp đỡ thế nào. Về Quy tắc Tám Năm. Về hải âu và phù du. Omai nhìn tôi, tròn xoe mắt và bối rối.

“Vậy các anh làm gì?” anh hỏi. “Ý tôi là anh ấy?”

“Tôi đến nơi mà Hendrich, ông chủ, cử tôi đến. Tôi làm nhiệm vụ . Tôi dẫn người vào. Việc đó cũng không quá tệ. Gần đây tôi đã đến Sri Lanka. Cuộc sống đó thoải mái lắm.”

Ngay cả với tai tối, “thoải mái” nghe như một uyển ngữ vậy.

Anh cười, với vẻ hoang mang. “Dẫn họ vào đâu?”

“Đó không phải nơi nào cụ thể. Ý tôi là: tôi khiến họ gia nhập hội.”

“Khiến? Bằng cách nào?”

“Ừm, thông thường thì dễ thôi. Tôi giải thích cách hội có thể bảo vệ họ, xử lý việc thay đổi danh tính - Hendrich có đủ kiểu mối liên lạc. Nó giống như một công đoàn vậy. Tiền bảo hiểm. Ngoại trừ việc chúng ta được trả tiền, chỉ để sống.”

“Anh bán hàng khéo thật. Anh thực sự bắt kịp thời đại đấy nhỉ?”

“Nghe này, Omai. Đây không phải trò đùa. Giờ chúng ta không còn được an toàn như trước kia đâu.”

“Phải. Cơ mà chúng ta vẫn ở đây đấy thôi. Vẫn hít thở. Hít vào thở ra.”

“Có những mối nguy. Anh - ngay lúc này - đang gặp nguy hiểm. Có một viện nghiên cứu ở Berlin. Họ biết về anh. Họ đã bắt bớ người suốt những năm qua đấy.”

Omai bật cười. Anh thực sự đang cười . Nghĩ tới Marion đang mất tích và theo những gì tôi biết thì có thể đã bị bắt, tôi cảm thấy giận dữ. Tôi cảm giác anh đang thách thức tôi, như một người vô thần trước mặt một người Công giáo. “Bắt người cơ á? Chà.”

“Thật mà. Và dạo này không chỉ mình họ đâu. Có những công ty công nghệ sinh học ở thung lũng Silicon và những nơi khác muốn lợi thế cạnh tranh tối đa, mà chúng ta thì có thể mang lại điều đó cho họ. Với họ chúng ta không phải là con người. Chúng ta là chuột thí nghiệm.”

Anh dụi mắt. Đột nhiên trông anh có vẻ mệt mỏi. Tôi đang làm anh mệt mỏi.

“Được rồi. Vậy để được ‘bảo vệ’ anh phải làm gì? Cái giá phải trả là gì?”

“Cái giá phải trả là có những nghĩa vụ nhất định.”

Anh bật cười, dụi mắt, như thể muốn xua đi lời tôi nói như xua cơn buồn ngủ. “Nghĩa vụ?”

“Thỉnh thoảng anh phải làm gì đó cho Hải âu Hội.”

Anh cười to hơn. “Cái tên đó.”

“Ừ, nghe hơi cổ lỗ.”

“Anh phải làm những việc gì?”

“Những việc khác nhau. Như thế này. Nói chuyện với mọi người. Cố gắng để họ đăng ký.”

“Đăng ký? Có đơn từ nào không?”

“Không, không, không có giấy tờ gì cả. Chỉ cần thiện chí. Lòng tin. Loại hợp đồng lâu đời nhất.” Tôi nhận ra mình nói nghe giống Hendrich đến chừng nào. Lần cuối cùng tôi có cảm giác đó là vụ Arizona, và vụ đó kết thúc không lấy gì làm êm thấm cho lắm.

“Nếu người ta từ chối thì sao?”

“Nhìn chung thì không ai từ chối. Đó là một thỏa thuận có lợi mà.” Tôi nhắm mắt. Nhớ lại mình đã nổ súng trên sa mạc. “Nghe này, Omai, tôi nói anh nghe này. Anh không được an toàn đâu.”

“Vậy tôi phải làm gì?”

“Ừm, tựu trung là đừng để mình mọc rêu. Hendrich ấy mà, ông ấy luôn nói rằng đừng quá gắn bó với người khác. Và cũng hợp lý nếu mọi người cứ tám năm lại di chuyển một lần. Bắt đầu ở nơi nào đó mới mẻ. Trở thành người khác. Mà anh đã ở đây hơn...”

“Tôi không làm được đâu. Ba cái chuyện di chuyển ấy.”

Anh có vẻ khá kiên quyết. Tôi biết mình phải thẳng thắn.

“Không có lựa chọn nào cả. Tất cả các thành viên của hội đều...”

“Nhưng tôi đâu có quyết định trở thành thành viên của hội.”

“Anh nghiễm nhiên là thành viên rồi. Ngay khi một hải âu được xác định thì họ đã trở thành thành viên rồi.”

“Hải âu, hải âu, hải âu... hẩu ai, hẩu ai, hẩu ai...”

“Biết đến sự tồn tại của hội tức là thành một phần của hội rồi.”

“Phần nào giống cuộc sống nhỉ.”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Vậy chính xác chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi nói không? Nếu tôi từ chối?”

Tôi đợi một lúc lâu không trả lời.

Anh ngả người ra ghế và lắc đầu với tôi. “Chà, bồ tèo. Nghe cứ như mafia ấy. Anh đã gia nhập mafia rồi.”

“Tôi chưa bao giờ chọn nhập hội cả,” tôi nói với anh. “Đó là toàn bộ vấn đề. Nhưng tin tôi đi, việc này hợp lẽ mà... Anh thấy đấy, nếu một hải âu bị bại lộ thì sẽ gây nguy hiểm cho toàn bộ các hải âu. Nhưng anh biết là anh phải trốn còn gì. Anh đã trốn bao lâu nay. Anh chẳng bảo tôi...”

Anh lắc đầu. “Tôi đã ở Australia ba mươi năm nay.”

Tôi ngẫm nghĩ về điều đó.

Tôi đã ở Australia ba mươi năm nay.

“Tôi nghe nói là hai mươi mà.”

Mặt anh hơi đanh lại. Không ổn rồi. Chuyện này không có gì ổn hết. Tôi nghĩ về chúng tôi trên tàu, cười vang. Tôi nghĩ về sau đó, tại Hiệp hội Hoàng gia ở London, khi Omai khăng khăng đòi tôi ở đó với anh. Niềm vui mà chúng tôi đã có. Uống rượu gin và nói dối Samuel Johnson và những người nổi tiếng thời đó. “Nghe nói? Ai nói? Tôi bị theo dõi à?”

“Tôi chỉ không hiểu anh xoay xở thế nào trong ba mươi năm thôi. Di chuyển hết nơi này đến nơi khác à?”

“Ở Sydney mười ba năm rồi ở Byron mười bảy năm. Rong ruối ven biển một chút. Đi lên dãy núi Lam. Nhưng tôi chủ yếu ở một ngôi nhà thôi.”

“Mà không ai nghi ngờ?”

Anh nhìn tôi chằm chằm. Tôi có thể thấy lỗ mũi anh nở ra co vào theo cường độ hơi thở.

“Người ta thường thấy những gì họ muốn thấy mà.”

“Nhưng anh xuất hiện trên mạng, cô phục vụ thậm chí đã xem được. Ai đó đã quay phim anh. Anh đang thu hút quá nhiều sự quan tâm.”

“Anh. Anh vẫn nghĩ rằng trong tay mình có lửa. Tôi vẫn là ‘Kẻ khác’ mà anh muốn lái theo ý mình. Chà, anh có thể mang ngọn lửa đó đi mà ném xuống biển ấy.”

Vững vàng nào.

“Chúa ơi, Omai. Tôi đang cố giúp anh. Không phải tôi. Ở đây tôi chỉ là người trung gian. Mà là Hendrich. Ông ta biết mọi thứ. Ông ta có thể ngăn những điều khủng khiếp xảy ra, nhưng cũng có thể” - sự thật khủng khiếp ập đến với tôi - “ông ta cũng có thể khiến những điều rất khủng khiếp xảy ra.”

“Anh biết gì không?” Anh rút ví ra, thọc sâu vào trong rút ra ít tiền mặt đặt lên bàn rồi đứng lên. “Nếu không phải thật ra người tôi đang nói chuyện là anh thì làm thế này cũng không bị coi là thô lỗ phải không?”

Tôi chỉ ngồi đó sau khi anh đi. Đồ ăn được bưng lên và tôi nói với cô phục vụ rằng tôi nghĩ anh sẽ quay lại. Nhưng tất nhiên là không.

Thành thật mà nói, tôi những tưởng mọi chuyện sẽ đi theo hướng khác. Tôi cứ ngỡ chúng tôi sẽ ôn lại chuyện cũ, hàn huyên về đủ những thứ chuyện tốt đẹp và kinh hoàng từng xảy ra mà chúng tôi không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ nói chuyện xe đạp hoặc ô tô hoặc máy bay. Tàu hỏa, điện thoại, ảnh, bóng đèn điện, các chương trình truyền hình, máy tính, tên lửa lên mặt trăng. Nhà chọc trời. Einstein. Gandhi. Napoléon. Hitler. Quyền công dân. Tchaikovsky. Rock. Jazz. Kind of Blue. Revolver. Anh có thích “The Boys of Summer” không? Hiphop. Sushi bình dân. Picasso. Frida Kahlo. Biến đổi khí hậu. Phủ nhận biến đối khí hậu. Star Wars . Khủng hoảng tên lửa Cuba. Beyoncé. Twitter. Biểu tượng cảm xúc. Truyền hình thực tế. Tin giả. Donald Trump. Sự trồi sụt liên tục của lòng đồng cảm. Những gì chúng tôi đã làm trong chiến tranh. Lý do để chúng tôi tiếp tục.

Nhưng, không, chúng tôi đã không nói về bất cứ điều gì trong số đó.

Tôi đã phá hỏng tất cả.

Tóm lại, tôi là một tên thậm ngốc. Và một kẻ không có bạn.

Những người ta yêu thương không bao giờ chết.

Đó là những gì Omai đã nói, rất nhiều năm về trước.

Và anh đã đúng. Họ không chết. Không hẳn. Họ sống trong tâm trí ta, theo cách họ vẫn luôn sống bên trong ta. Ta giữ cho ngọn đèn của họ sáng mãi. Nếu nỗi nhớ của ta dành cho họ đủ da diết, họ vẫn có thể dẫn đường cho ta, tựa ánh sáng của những ngôi sao đã tắt từ lâu có thể chỉ lối cho những con tàu trên vùng biển xa lạ. Nếu ta ngừng khóc thương mà bắt đầu lắng nghe họ, họ vẫn có sức mạnh thay đổi cuộc sống của ta. Nói tóm lại, họ có thể là sự cứu rỗi.

Omai sống ở ven đô, tại số 352 đường Broken Head. Một ngôi nhà ván ghép một tầng.

Từ đây ta có thể nhìn thấy biển. Tất nhiên. Nếu có thể thì Omai đã sống trên biển rồi.

Tôi đợi vài phút sau khi gõ cửa. Đầu tôi đau âm ỉ. Tôi nghe thấy trong nhà có tiếng động nhẹ. Cửa hé mở. Một bà già mái tóc bạc phơ cắt ngắn hé mắt ngó ra từ sau dây xích cửa. Chắc cũng ngót chín mươi. Khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn. Đứng lệch cả người vì viêm khớp và loãng xương. Đôi mắt đục thủy tinh thể đầy lo lắng. Áo khoác len mỏng màu vàng dạ quang. Bà đang cầm một dụng cụ mở nắp hộp bằng điện.

“Gì đó?”

“Ôi cháu xin lỗi. Chắc cháu nhầm địa chỉ rồi. Xin lỗi vì muộn thế này còn làm phiền bà.”

“Không sao. Dạo này tôi cũng chẳng ngủ được.”

Bà toan đóng cửa. Tôi vội vàng nói: “Cháu đang tìm Sol. Sol Davis. Đúng là địa chỉ này phải không ạ? Cháu là chỗ bạn cũ. Cháu vừa ăn tối với anh ấy và cháu e là đã làm anh ấy bực mình.”

Bà do dự một lúc.

“Tom. Cháu tên là Tom.”

Bà gật đầu. Bà đã nghe nói về tôi. “Đi lướt sóng rồi.”

“Tối thế này mà đi ấy ạ?”

“Đây mới là lúc thích lướt sóng nhất đấy. Đại dương không bao giờ về nhà. Lúc nào cũng nói vậy đấy.”

“Anh ấy lướt sóng ở đâu ạ?”

Bà ngẫm nghĩ. Nhìn xuống con đường xi măng trước cửa nhà, như thể ở đó có manh mối gì vậy. “Cái não già chết tiệt của tôi... Bãi biển Tallow.”

“Cảm ơn bà. Cảm ơn bà nhiều lắm.”

Tôi ngồi trên cát nhìn anh, dưới ánh trăng tròn. Một cái bóng nhỏ cưỡi sóng. Và rồi tôi cảm thấy điện thoại rung lên trong túi quần.

Hendrich.

Không nghe máy chỉ tổ khiến ông ta nghi ngờ.

“Cậu ta có ở cạnh cậu không?”

“Không.”

“Tôi nghe thấy tiếng sóng biển đấy.”

“Anh ấy đang lướt sóng.”

“Vậy cậu nói chuyện được chứ?”

“Tôi không có nhiều thì giờ đâu. Lát tôi sẽ gặp anh ấy.”

“Cậu ta có xuôi không?”

“Sẽ xuôi thôi.”

“Cậu đã giải thích cặn kẽ chưa?”

“Vẫn đang. Chưa nói hết được.”

“Clip của cậu ta trên YouTube hiện đã có bốn trăm nghìn lượt xem rồi đấy. Cậu ta cần biến mất.”

Omai biến mất dưới làn sóng. Đầu lại ngóc lên. Dường như đó là cách sống hoàn hảo. Cưỡi sóng, ngã xuống, quay trở lại. Đa phần cuộc sống tựa hồ dựa trên ý tưởng về sự vươn cao , về việc gây dựng - thu nhập, địa vị hoặc quyền lực - về việc sống một cuộc sống vươn lên, thẳng đứng như một tòa nhà chọc trời. Nhưng sự tồn tại của Omai lại có vẻ tự nhiên như chính đại dương, rộng mở như chân trời. Anh lại ở trên ván, nằm úp người, hai cánh tay khỏa nước vượt cơn sóng lừng.

“Anh ấy sẽ thế, tôi chắc chắn đấy.”

“Ô, tôi biết cậu ta sẽ thế mà. Vì quyền lợi của tất cả chúng ta. Không chỉ Berlin thôi đâu. Có một công ty nghiên cứu công nghệ sinh học ở Bắc Kinh và họ đang...”

Tôi đã nghe câu này hơn một thế kỷ nay. Tôi biết mình nên quan tâm, nhất là khi Marion còn ở đâu đó ngoài kia, nhưng đó chỉ là một tiếng ồn khác giữa thế gian. Như nước vỗ vào cát.

“Vâng. Nghe này, Hendrich, tôi cúp máy đây. Tôi nghĩ anh ấy sắp lên bờ rồi.”

“Kế hoạch A. Cậu chỉ biết có vậy thôi Tom. Hãy nhớ rằng luôn có Kế hoạch B.”

“Tôi nghe rồi.”

“Tốt hơn là cậu nên thế.”

Cúp máy, tôi ngồi thừ người ra đó, trên bãi cát. Từ đây tiếng sóng nghe như tiếng thở. Hít vào. Thở ra.

Hai mươi phút sau Omai lên bờ.

Anh nhìn thấy tôi nhưng cứ tiếp tục bước đi, bê theo tấm ván.

“Này!” Tôi đi theo anh dọc bãi biển. “Nghe này, tôi là bạn anh. Tôi đang cố gắng bảo vệ anh đấy.”

“Tôi không cần sự bảo vệ của anh.”

“Người phụ nữ đó là ai hả Omai? Người phụ nữ trong nhà anh ấy?”

“Không phải việc của anh. Mà tránh xa nhà tôi ra.”

“Omai. Chúa ơi, Omai. Mẹ kiếp. Việc hệ trọng đấy.”

Anh dừng lại trên lớp cỏ xơ xác ở rìa bãi biển. “Tôi có một cuộc sống tốt đẹp. Tôi không muốn lẩn lút nữa. Tôi chỉ muốn là chính mình. Tôi muốn sống một đời chính trực.”

“Anh có thể đến bất cứ nơi nào trên thế giới. Hawaii. Indonesia. Bất cứ nơi nào anh muốn. Không thiếu nơi để anh lướt sóng. Đại dương nào mà chả như nhau. Đều là cả đống nước mà thôi.” Tôi vắt óc nghĩ. Tôi cố tìm một điều gì đó trong quá khứ chung của chúng tôi có thể phá vỡ những bức tường ngoan cố trong tâm trí anh. “Anh có nhớ những gì tiến sĩ Johnson đã nói với chúng ta vào tuần đầu tiên sau chuyến hải trình không? Trong bữa ăn họ chuẩn bị cho anh ở Hiệp hội Hoàng gia ấy. Về sự chính trực ấy?”

Omai nhún vai. “Chuyện đã lâu lắm rồi.”

“Nào, anh không nhớ sao? Chúng ta đã ăn gà gô. Ông ấy đã nói với chúng ta rằng ta luôn phải sẵn sàng tiếp nhận tri thức mới. Tri thức mà không có chính trực thì nguy hiểm, còn chính trực mà không có tri thức thì yếu đuối và vô dụng. Tôi đang cố mang lại cho anh tri thức thế mà tất cả những gì anh đáp lại là sự chính trực. Cái chính trực sẽ khiến anh mất mạng và mạo hiểm mọi thứ.”

“Vậy anh có muốn nạp một ít tri thức không Tom?”

Tôi ra hiệu ý bảo “cứ nói đi”.

Anh nhắm mắt lại, như thể đang rút một mảnh thủy tinh khỏi chân mình. “Được rồi, tôi sẽ cho anh biết vài chuyện. Tôi đã từng như anh. Rày đây mai đó. Khắp vùng Thái Bình Dương. Bất cứ nơi nào không bị hỏi han. Samoa. Quần đảo Solomon. Lautoka ở Fiji. Sugar City. New Zealand. Thậm chí còn trở lại Tahiti. Lang bạt khắp chốn. Nơi nào cần thì tôi móc nối quan hệ. Tìm mấy cách vụn vặt để len lỏi vào thế giới ngầm. Làm giấy tờ giả. Luôn bắt đầu lại từ đầu. Mười năm lại hai lần biến thành con người mới. Thế rồi mọi thứ bắt đầu thay đổi.”

“Như thế nào?”

Một người đàn ông đi ngang qua, độ cuối trung niên, vận áo phông Quiksilver bạc màu, quần jean rách tua rua và đi dép xỏ ngón. Ông đang trên đường ra bãi biển, hướng tới bãi cát mang theo điếu cần sa và lon coca. Ông lẩm nhẩm một giai điệu buồn không rõ là bài gì. Ông là một kẻ say quắc cần câu vô hại không biết đến sự đời chẳng muốn dây dưa gì đến chúng tôi. Ông ngồi nặng nề trên cát, hút thuốc và ngắm sóng biển, hoàn toàn ở ngoài tầm nghe.

Omai cũng ngồi xuống, đặt tấm ván ướt lên bãi cỏ đầy cát và ngồi xếp bằng. Tôi ngồi cùng anh.

Anh nhìn đăm đăm ra biển buồn man mác, như thể đó là kỷ niệm. Thời gian trôi qua, không biết đã bao lâu. “Tôi đã yêu.”

Hẳn nhiên câu nói này khiến người ta thắc mắc nhưng tôi vẫn giữ im lặng.

“Anh từng nói với tôi về tình yêu, phải không? Anh từng kể tôi nghe về cô gái anh đã yêu. Người mà anh đã kết hôn. Mẹ của Marion. Cô ấy tên gì nhỉ?”

“Rose.” Nói tên nàng ra, trên một bãi biển ở Australia vào thế kỷ hai mốt, khiến tôi có cảm giác kỳ lạ và chếnh choáng. Khoảng cách thời gian và địa điểm hòa cùng sự gần gũi của cảm xúc. Tôi chống tay lên cỏ và cát, như thể cần cảm nhận một thứ gì đó rắn chắc, như thể có dấu vết nguyên sơ của nàng ở đó.

“Ừm, tôi đã tìm thấy Rose của tôi. Cô ấy đẹp lắm. Tên cô ấy là Hoku. Giờ nghĩ đến cô ấy là tôi đau đầu.”

Tôi gật. “Đau đầu ký ức. Gần đây tôi cũng hay bị vậy lắm.”

Tôi tự hỏi, trong giây lát, liệu Hoku có phải là bà lão cầm cái mở nắp hộp mà tôi thấy trong nhà hay không, tuy nhiên ý nghĩ này nhanh chóng bị gạt sang một bên.

“Chúng tôi chỉ ở bên nhau được bảy năm. Cô ấy đã mất trong chiến tranh...”

Tôi tự hỏi là cuộc chiến nào đây. Và ở đâu. Thế Chiến II, tôi nghĩ vậy, và tôi đã đúng.

“Đó là khi tôi chuyển đến New Zealand, xoay được giấy tờ giả và đăng ký ra trận. Chưa có thời điểm nào dễ dàng giả mạo danh tính hơn thế. Khi ấy bạ ai họ cũng nhận. Họ không tọc mạch quá sâu. Tôi cũng chẳng phải chinh chiến gì nhiều. Được phái đến Syria và ngồi dãi nắng ở đó một chút. Rồi đến Tunisia, dãi nắng nhiều hơn xíu với thêm chút hành động thực tiễn. Chứng kiến một số việc. Ác chiến lắm. Anh thì sao? Anh có tham gia thế chiến đó không?”

Tôi thở dài. “Tôi không được phép. Hendrich cho rằng sự kết hợp của khoa học và hệ tư tưởng là điều nguy hiểm nhất đối với chúng ta. Và ông ta đã đúng. Nhưng đã có Đức Quốc Xã, với tất cả những ám ảnh huyễn hoặc của họ về việc tạo ra giống loài hoàn hảo. Những thuyết ưu sinh ngụy khoa học của họ. Họ đã tiếp quản Viện Nghiên cứu Thử nghiệm ở Berlin và phát hiện ra nghiên cứu về chúng ta, về hải âu, và họ đã cố gắng săn đuổi càng nhiều người trong chúng ta càng tốt... Dù sao đi nữa, khi ấy Hendrich đang trải qua một giai đoạn hoang tưởng. Ông ta không muốn bất kỳ ai trong chúng ta ra trận. Và, đúng vậy đấy, trong khi anh cứu nền văn minh thì tôi làm một thủ thư cận thị mắc bệnh hen suyễn ở Boston. Tôi vẫn căm ghét chính mình vì chuyện đó. Có lẽ tôi đã cố gắng trốn tránh tình yêu theo cách Hendrich muốn chúng ta trốn tránh chiến tranh. Để cố gắng sống mà không nhận thêm bất kỳ nỗi đau nào nữa.”

Một tiếng còi hụ xa xăm rền rĩ trên một con đường ở đâu đó phía xa.

Omai gạt nước khỏi tấm ván. “Không. Với tôi thì không. Tình yêu là nơi ta tìm thấy ý nghĩa. Bảy năm tôi ở bên cô ấy chứa đựng nhiều hơn bất cứ thứ gì khác. Anh có hiểu không? Anh có thể lấy tất cả những năm trước và sau đó rồi đặt bên cạnh để cân đo đong đếm, và sẽ thấy chúng chẳng thể nào sánh nổi. Thời gian là thế đấy, không phải vậy sao? Không phải mọi thứ đều như nhau. Có những ngày - những năm - những thập kỷ - trống rỗng. Chúng chẳng có ý nghĩa gì. Chỉ là mặt nước phẳng lặng. Và rồi ta bắt gặp một năm hoặc thậm chí một ngày, hay một buổi chiều. Và đó là tất cả mọi thứ. Đó là toàn bộ vấn đề.” Tôi liền nghĩ đến Camille, ngồi trên băng ghế trong công viên, đọc Dịu dàng là đêm , trong khi Omai nói tiếp. “Tôi đã cố gắng tìm ra mấu chốt của vấn đề. Tôi từng tin vào mana. Hồi đó tất cả mọi người trên đảo đều vậy. Tôi nghĩ giờ mình vẫn tin, theo một nghĩa nào đó. Không phải là mê tín mà là một quan niệm về điều gì đó . Điều gì đó bên trong chúng ta. Điều gì đó vẫn chưa được lý giải, không đến từ bầu trời hoặc những đám mây hoặc một cung điện nào đó trên thiên đường mà từ trong đây.” Anh vỗ ngực. “Anh chỉ đơn giản là không thể yêu mà không nghĩ rằng có thứ gì đó lớn hơn đang chế ngự chúng ta. Một thứ, anh biết đấy, không hẳn là chúng ta. Một thứ trú ngụ bên trong ta, bị giam giữ trong ta, sẵn sàng giúp đỡ hoặc chơi chúng ta. Chúng ta là bí ẩn với chính mình. Đến khoa học cũng biết vậy. Chúng ta chả biết cái quái gì về việc trí não chúng ta hoạt động thế nào.”

Thế rồi chúng tôi rơi vào im lặng.

Người đàn ông say rượu lúc này đang nằm dài ra đất, chăm chú ngắm sao. Ông dụi điếu cần sa vào cát.

Một phút trôi qua. Có lẽ là hai. Rồi Omai cảm thấy đã sẵn sàng nói ra.

“Chúng tôi đã có con.” Giọng anh nhẹ nhàng như biển. “Chúng tôi gọi con bé là Anna.”

Tôi cố gắng tiếp nhận thông tin. Ý nghĩa của nó. Tôi nghĩ đến Marion. Rồi ngỡ ngàng nhận ra.

“Là người ấy, phải không? Người phụ nữ trong nhà anh là...”

Một cái gật đầu nhẹ như gió thoảng.

“Nó không giống con gái anh. Nó già đi. Trong thời gian thực. Con bé đã kết hôn. Nhưng chồng nó, con rể tôi, đã mất vì bệnh ung thư ba mươi năm trước. Kể từ đó con bé sống với tôi.”

“Vậy là nó biết chuyện của anh?”

Anh bật cười. Phải thừa nhận rằng đó là một câu hỏi ngu ngốc, nhưng tôi vẫn thấy thật lạ lẫm làm sao khi một phù du biết một chuyện như vậy về người thân yêu của mình mà vẫn bình thường như không, không cảm thấy rủi ro. Tất nhiên, Rose biết chuyện của tôi lẫn của mẹ tôi, nhưng việc biết đó lại là nỗi đau khổ, và là nguyên nhân khiến tôi rời xa cả hai người. “Nó biết. Biết chứ. Cả chồng nó cũng biết.”

“Mà bí mật không bị lộ?”

“Ai mà tin một bí mật như thế chứ?”

“Có đấy. Những kẻ nguy hiểm.”

Cách anh nhìn tôi ngay lúc đó khiến tôi thấy mình thật yếu đuối, thảm hại. Một kẻ hèn nhát trên đường chạy trốn.

“Một con sóng có thể giết chết anh. Hoặc anh có thể cưỡi nó. Đôi khi tránh né còn nguy hiểm hơn. Anh không thể sống đời mình trong sợ hãi, Tom à. Anh phải sẵn sàng bước lên ván và đứng trên đôi chân mình. Nếu quanh anh sóng biển đang cuộn trào, anh phải phớt lờ nỗi sợ hãi. Anh phải ở trong khoảnh khắc đó. Anh phải tìm cách vượt qua. Anh mà sợ hãi, thì đùng một cái anh sẽ ngã khỏi ván và đập đầu vào đá. Không đời nào tôi lại sống trong sợ hãi. Tôi không thể làm theo anh, Tom à, đơn giản là tôi không thể. Tôi đã chạy trốn quá nhiều rồi. Giờ tôi cảm thấy nơi đây là nhà. Tôi quý anh, bạn à, nhưng tôi cóc quan tâm liệu hồn ma của thuyền trưởng Furneaux có đi dọc bãi cát hay không, tôi sẽ không đi đâu với anh hết.”

Nói rồi anh đứng lên, cầm theo tấm ván.

“Tôi sẽ xử lý chuyện này ổn thỏa,” tôi thấy mình cất tiếng. “ Tôi sẽ xử lý chuyện này ổn thỏa. ”

Anh gật đầu nhưng vẫn tiếp tục bước đi, đôi chân trần sải trên con đường bê tông và tôi quay sang thì thấy kẻ phê cần trên bãi biển giơ tay về phía mình, bèn vẫy nhẹ đáp lại. Tôi nằm xuống cát và suy ngẫm về cuộc chiến mà Omai đã tham gia còn bản thân thì không, vì Hendrich. Tôi cảm thấy đã gần đến lúc mình phải chiến đấu lần nữa. Điện thoại bắt đầu rung, rừ rừ bên đùi tôi như một vật thể sống, tôi mặc nó reo và tự hỏi mình định làm cái quái gì vậy.

Tôi ngủ quên trên bãi biển. Khi tôi thức dậy, ánh ban mai đang loang ra bầu trời và tôi quay trở lại khách sạn, ăn uống, kiểm tra tin nhắn và thấy thật kỳ lạ khi Hendrich chỉ cố gắng gọi đúng một lần. Tôi trở về phòng và gặp chút trục trặc với wifi nhưng cuối cùng cũng vào được mạng và truy cập Facebook, thấy Camille chưa cập nhật gì. Tôi muốn nói chuyện với cô. Tôi muốn nhắn tin cho cô. Nhưng biết là mình không thể. Tôi là mối nguy hiểm. Chừng nào vẫn là một phần của Hải âu Hội thì tôi chính là kẻ mà cô cần phải tránh xa.

Tôi cuộn tròn như bào thai trên giường, ứa những giọt nước mắt run rẩy và tự hỏi có phải mình đang suy sụp hay không.

“Mẹ ông chứ, Hendrich,” tôi nhìn lên trần nhà lầm bầm. “Mẹ nó chứ.”

Tôi đi bộ khỏi khách sạn và cứ thế lang thang, cố gắng xua tan nước mắt và suy nghĩ. Tôi cần phải suy nghĩ. Tôi men theo vách đá và bãi biển. Tôi đến ngọn hải đăng mũi Byron và dõi mắt ra biển.

Tôi nhớ mình đã đăm đăm nhìn ra Nam Đại Dương từ boong tàu Phiêu Lưu, bị cuốn vào hành trình tham lam ngu ngốc của Cook để tìm kiếm một vùng đất rộng lớn hơn Australia.

Đến một lúc nào đó trong mỗi phần đời, ta sẽ nhận ra chẳng có vùng đất nào sau những tảng băng kia hết. Chỉ có nhiều băng hơn mà thôi. Và rồi thế giới mà chúng ta biết lại tiếp diễn.

Đôi khi ta phải nhìn vào những gì ta biết là đang hiện diện ở đó và khám phá những điều ngay trước mặt ta. Những người ta yêu thương.

Tôi nghĩ đến Camille. Tôi nghĩ đến giọng nói của cô. Tôi nghĩ đến hình ảnh cô nghếch đầu nhìn mặt trời. Tôi nghĩ đến nỗi sợ hãi khi cô ngã khỏi ghế.

Tôi chợt nhận ra có gì quan trọng đâu nhỉ. Chuyện chúng tôi già đi theo những cách khác nhau chẳng có gì quan trọng. Không có cách nào chống lại quy luật của thời gian cũng chẳng quan trọng. Thời gian phía trước ta giống như vùng đất bên dưới những tảng băng. Ta có thể đoán mò nhưng chẳng thể nào biết chắc được. Tất cả những gì ta biết là thời khắc mình đang sống.

Tôi đi bộ vào đất liền và tìm thấy một đầm phá. Nước xanh sẫm mơn mởn, xung quanh lổn nhổn đá và thảm thực vật tươi tốt. Tôi sống trên đời đã lâu nhưng lại mù tịt tên gọi của hầu hết các loại cây này. Tôi cũng không biết tên của con đầm phá. Thật dễ chịu làm sao khi ở nơi mà mình không biết. Ở một nơi mới mẻ, khi thế giới đã quá cũ kỹ và quen thuộc. Hai thác nước nhỏ đổ vào đầm phá, nhấn chìm mọi thanh âm khác. Tôi nhìn thác nước cho đến lúc có cảm giác trông nó như tấm mạng che mặt của cô dâu.

Tôi không có wifi. Không có sóng điện thoại. Ở đây thật êm đềm. Không khí ngát hương. Ngay cả âm thanh của nước cũng tựa tiếng suỵt với thế gian. Tôi ngồi xuống một khúc cây và nhận ra gì đó. Đầu tôi vẫn không đau.

Tôi biết rõ một điều.

Không có cách nào lay chuyển Omai. Và tôi cũng không đời nào giết anh. Tôi hít hà không khí thơm mùi hoa tươi và nhắm mắt lại.

Tôi nghe thấy một tiếng động không phải tiếng nước.

Tiếng sột soạt, từ một bụi cây gần con đường hẹp phía sau tôi. Có lẽ là một con thú. Nhưng, không, tôi có cảm giác ai đó đang đến gần. Một con người. Khách du lịch, có lẽ.

Tôi quay lại.

Tôi thấy một người phụ nữ đang cầm súng chĩa vào tôi. Tôi cảm thấy sốc nặng.

Sốc không phải vì nhìn thấy khẩu súng.

Sốc là vì nhìn thấy con bé.

Thoạt nhìn, nom con bé thật khác. Một phần là vì tóc nó nhuộm màu xanh. Nó cao ráo. Tôi chưa từng nghĩ nó sẽ cao đến thế. Trên cánh tay nó có hình xăm. Trông con bé hoàn toàn là người của thế kỷ hai mốt, với áo phông (in dòng chữ “Phát khiếp loài người”), quần jean, khuyên môi cùng đồng hồ nhựa màu cam và cơn giận dữ của nó. Ngoài ra, trông nó như một người phụ nữ quãng cuối ba mươi, không phải là cô bé tôi nói lời giã biệt cách đây bốn trăm năm. Nhưng đó chính là con bé. Mắt thấy tai nghe đây rồi còn gì.

“Marion.”

“Đừng gọi cái tên đó.”

“Bố đây.”

“Quay lại nhìn nước đi.”

“Không, Marion, bố không làm đâu.”

Tôi đứng dậy và không rời mắt khỏi nó. Cú sốc thật dữ dội. Tôi cố hết sức không nghĩ đến khẩu súng chỉ cách mặt mình vài phân hay cái chết có thể ập đến trong vài giây. Tôi cố chỉ nhìn vào con gái mình.

“Con là lý do bố còn sống đến ngày hôm nay. Mẹ con nhắn nhủ bố hãy tìm con. Và bố biết con ở đâu đó. Bố biết mà.”

“Ông đã rời bỏ chúng tôi.”

“Phải, bố đã làm vậy. Bố đã rời bỏ mẹ con con và đến giờ vẫn hối hận. Bố bỏ đi là để cứu mạng con. Để cứu mạng mẹ con. Mẹ con muốn bố đi. Đó là cách duy nhất. Chúng ta đã thoát khỏi London nhưng không thể thoát khỏi thực tại. Bố đã chứng kiến bà nội con chết đuối vì bố. Con có biết cảm giác đó như thế nào không Marion, khi mang trong lòng nỗi day dứt đó? Con không muốn phải chịu đựng như thế đâu. Con không muốn giết bố vì cùng một lý do. Có phải là Hendrich không? Ông ta bảo con làm vậy à? Ông ta đã tuyển mộ con à? Ông ta đã tẩy não con sao? Bởi đó là những gì ông ta làm đấy, Marion, ông ta tẩy não mọi người. Ông ta có khả năng thuyết phục. Ông ta đã sống gần một nghìn năm rồi. Ông ta biết cách thao túng.”

“Ông chưa bao giờ muốn có tôi cả. Ông đã nói vậy với Hendrich còn gì. Ông chưa bao giờ muốn làm cha cả.”

Đây đúng là ngỡ ngàng lại chồng thêm bàng hoàng. Hendrich đã tìm thấy Marion nhưng không hề báo cho tôi. Ông ta biết thừa là tôi khao khát muốn biết điều ấy - rằng con bé ở đâu - mà ông ta lại giấu tiệt. Cha con tôi đã ở trong cùng một hội bao lâu, mà tôi lại không biết?

Tôi gần như không có đủ không khí để cất tiếng.

“Không, không, đó không phải sự thật. Marion, nghe này, bố đã cố gắng tìm con suốt bao lâu nay. Xin con? Bố nói vậy... lúc nào chứ...?”

Khẩu súng vẫn ở đó. Tôi nghĩ không biết có nên túm tay con bé mà giằng lấy khẩu súng hay không. Nhưng đây là con gái tôi, là Marion, là sự thiếu vắng mà tôi vẫn luôn cảm thấy. Tôi có thể nói chuyện với nó. Nếu Hendrich có thể nói chuyện với nó thì tôi cũng làm được.

“Ông muốn tìm tôi vì tôi là người duy nhất trên đời này biết về ông và cũng là người ông không hề tin tưởng. Ông nào quan tâm đến tôi, bao nhiêu thế kỷ rồi ông có gặp tôi đâu. Ông chỉ muốn bảo vệ bản thân thế nên mới yêu cầu Hải âu Hội tìm và trừ khử tôi.”

“Điều đó hoàn toàn trái ngược với sự thật.”

“Tôi đã thấy lá thư ông viết cho Hendrich nhiều thập kỷ trước rồi.”

“Thư nào?”

“Tôi đã thấy nó. Có chữ viết tay của chính ông. Tôi đã thấy cái phong bì. Tôi đã đọc những gì ông viết. Tôi đọc được mớ điều khoản gia nhập hội của ông. Nó làm cõi lòng tôi tan nát. Nó khiến tôi hóa rồ. Suy sụp. Rối loạn hoảng sợ. Loạn thần. Tôi đã mắc hết những thứ chết tiệt ấy vì phát hiện ra cha ruột của mình, người mình yêu thương hơn hết thảy mọi thứ trên đời, lại muốn mình chết đi cho rảnh nợ. Thế đấy, tôi cũng muốn tìm ông. Ông là lý do để tôi tiếp tục sống. Biết rằng chính cái lý do để mình tiếp tục sống ấy lại muốn giết chết mình, điều đó đã vượt quá sức chịu đựng của tôi rồi. Tôi không nợ ông thứ chết tiệt gì hết, bố ạ.”

Con bé khóc tức tưởi. Mặt nó vẫn đanh thép nhưng nó đang khóc, và tôi yêu con bé nhiều đến mức cảm nhận được sức mạnh của dòng lệ tựa những thác nước chảy mãi không ngừng và tôi muốn mọi chuyện sẽ ổn cả. Tôi muốn nó biết rằng mọi chuyện có thể ổn cả.

“Hendrich nói dối. Ông ta giả mạo mọi thứ. Sai người làm trò giả mạo. Có lúc việc đó có lợi cho chúng ta, có lúc lại phản lại chính chúng ta. Ông ta có quan hệ và tiền bạc, Marion à. Phất lên bằng cách thổi phồng việc buôn bán hoa tulip và chưa bao giờ thua lỗ cả.”

“Agnes đã xác minh rồi. Agnes nói với tôi thư đó là thật. Bà ấy nói rằng tôi là lý do khiến ông phải bỏ đi và vì thế mà ông ghét tôi. Mẹ kiếp.”

“Bố chưa bao giờ nói rằng bố ghét bỏ con. Agnes nằm sâu trong túi của ông ta đến mức không thể nhìn rõ được đúng sai nữa. Marion, bố yêu con. Bố không phải một con người hoàn hảo. Bố không phải là người cha hoàn hảo. Nhưng bố luôn yêu con. Bố đã tìm kiếm con suốt bao lâu nay. Suốt bao lâu nay, Marion à. Con là đứa trẻ tuyệt vời đến nhường nào. Bố đã tìm con bao lâu nay. Ngày nào bố cũng nhớ con.”

Tôi hình dung con bé bên ô cửa sổ, đón lấy ánh ngày cuối cùng để đọc xong Nữ chúa tiên. Tôi hình dung con bé ngồi dậy trên giường, chơi sáo, quyết tâm thổi cho đúng nốt.

Nó vẫn đang khóc, nhưng khẩu súng vẫn nhắm vào tôi. “Ông đã nói là sẽ về. Ông không bao giờ quay về cả.”

“Bố biết, bố biết. Vì bố là mối nguy hiểm, nhớ không? Những dấu hiệu và từ ngữ người ta khắc lên cửa? Kẻ săn tìm phù thủy? Lời ra tiếng vào? Con biết chuyện gì xảy ra khi ấy mà. Con biết những gì đã xảy ra với bà nội con. Bố là vấn đề. Thế nên bố phải ra đi. Giống như con phải ra đi vậy.”

Con bé nhắm nghiền mắt lại, như thể vặn khuôn mặt mình thành nắm. “ Đồ chết bầm, ” nó thốt lên.

Giờ tôi có thể dễ dàng lấy được khẩu súng, nhưng tôi không làm vậy.

Suốt hàng thế kỷ, con bé là lý do duy nhất để tôi tiếp tục sống. Nhưng giờ đây, tôi nhận ra, tự thân tôi muốn sống. Vì chính cuộc sống. Vì triển vọng và tương lai và khả năng một điều mới mẻ sẽ đến.

“Bố nhớ con đã chơi bài ‘Under the Greenwood Tree’,” tôi nói với con bé. “Bằng cây sáo nhỏ đó. Cây sáo bố mua ở chợ Eastcheap. Con có nhớ không? Con có nhớ hồi bố dạy con chơi sáo không? Ban đầu con rất lóng ngóng. Con dường như không thể nào bịt ngón tay lên các lỗ, không bịt kín được, nhưng rồi một ngày con đã làm được. Và con thổi sáo ngoài phố, bất chấp mẹ con không muốn vậy... Mẹ con không bao giờ muốn bị chú ý. Vì những lý do mà giờ đây con có thể hiểu được rồi đấy.”

Con bé không nói gì. Tôi đăm đăm nhìn ra mặt nước và rặng cây bên kia đầm phá. Tôi có thể nghe thấy tiếng thở của nó.

Tôi đút tay vào túi.

“Ông làm gì vậy?” con bé hỏi, giọng khẽ đến mức gần như bị nước nhấn chìm.

Tôi lấy ví ra. “Đợi xíu thôi.” Tôi rút cái túi ni lông nhỏ dán mép ra và giơ lên không. Con bé nhìn vào đồng xu mỏng tối màu mong manh bên trong.

“Cái gì vậy?”

“Con không nhớ ngày hôm đó ở Canterbury ư? Nắng chan hòa. Con đang thổi sáo thì có người đặt cái này vào tay con. Con đã tặng nó cho bố vào cái ngày cuối cùng ấy và dặn bố phải nhớ đến con. Thứ này, chính đồng xu này đây, nó đã cho bố hy vọng. Nó giữ bố còn sống . Bố muốn một ngày nào đó sẽ trả lại cho con. Đây. Của con đây.”

Tôi chìa ra cho con bé. Nó chầm chậm giơ cánh tay không cầm súng lên. Tôi đặt đồng xu vào lòng bàn tay nó. Con bé ngập ngừng hạ súng xuống. Ngón tay khum khum quanh đồng xu, chậm rãi, như một đóa sen khép cánh lại.

Con bé choáng váng trông thấy. Nó nói gì đó mà tôi không nghe ra khi nó ngả vào lòng tôi, và rồi trước khi tôi kịp nhận ra thì nó đã khóc nấc lên trên vai tôi và tôi ôm ghì lấy con bé, những muốn xóa bỏ tất cả những thế kỷ mất mát giữa chúng tôi.

Tôi muốn biết mọi chuyện. Tôi muốn dành bốn trăm năm tới để nghe về cuộc sống của con bé đến thời điểm này trong thời gian thực. Nhưng khi nó rời tôi ra và lau nước mắt, mặt nó toát lên vẻ lo lắng.

“Ông ta ở đây,” con bé nói, đau đáu nhìn tôi với đôi mắt xanh lục của mẹ nó. “Hendrich. Ông ta đang ở đây.”

Hendrich đã quyết định hộ tống Marion đến Australia. Ông ta đặt cùng một khách sạn với con bé, Byron Sands. Ngay từ lần đầu hỏi tôi, ông ta đã lo rằng tôi sẽ không thể xử lý vụ Omai. Ông ta - thực tình tôi biết rõ điều này - đã lo lắng về tôi một thời gian rồi. Kể từ vụ Sri Lanka và thời điểm tôi quyết định rằng mình muốn trở lại London.

Marion được yêu cầu lén lút theo dõi tôi. Bất ngờ là con bé không giết tôi, đó là lợi thế duy nhất mà chúng tôi có.

“Sẽ ổn thôi, Marion,” tôi đã bảo con bé, cảm thấy chết điếng vì đang nói với nó một lời nói dối khác. “Tất cả mọi chuyện. Rồi sẽ ổn cả thôi.”

Giờ là buổi tối. Marion và Hendrich đang ăn tối cùng nhau trong khách sạn Byron Sands.

“Con không được mảy may để lộ cảm xúc,” tôi căn dặn con bé. “Con phải giống hệt như một tiếng trước. Trước mặt ông ta, con phải tuyệt đối tin rằng con muốn bố chết.”

Tôi ở bên ngoài. Tôi đi bộ dọc theo con đường ven biển gần Byron Sands, phòng trường hợp Marion cần tôi, giữa buổi tối yên bình với cỏ, bãi biển và biển cả kề bên tâm trạng căng thẳng của tôi, lang thang vào bóng tối nơi ánh đèn đường không chiếu tới.

Tôi bấm điện thoại. Tôi đang cố gọi cho Camille. Hendrich đã nghe thấy giọng cô, vào cái hôm tôi say rượu trong công viên. Theo hiểu biết của tôi thì rất có thể lúc này ông ta đã giao nhiệm vụ cho một hải âu ở London - Agnes hoặc một người khác - sẵn sàng giết cô và ngụy tạo cái chết của cô thành một vụ tự tử.

“Nghe máy đi mà,” tôi bất lực nói vào khoảng không. “Nghe máy đi, nghe máy đi...”

Nhưng cô không bắt máy. Tôi bèn nhắn tin cho cô.

“Anh xin lỗi vì đã cư xử như vậy. Anh cần giải thích thêm. Và anh sẽ làm vậy. Anh chỉ muốn nhắn em mau trốn đi. Có thể em đang gặp nguy hiểm. Rời căn hộ của em đi. Đi đâu đó. Nơi nào có nhiều người ấy.”

Tôi gửi tin nhắn.

Tim tôi đập loạn xạ.

Tôi nhận ra mình đã bị nỗi sợ hãi đeo bám cả cuộc đời. Hendrich đã hứa sẽ chấm dứt những nỗi sợ hãi đó nhưng tất cả những gì ông ta làm là tô đậm chúng lên. Ông ta điều khiển người khác bằng nỗi sợ hãi. Ông ta đã điều khiến tôi bằng nỗi sợ hãi và ông ta điều khiển Marion cũng bằng nỗi sợ hãi. Khi chỉ có mình tôi, thật khó ngộ ra điều đó, nhưng nhìn cách ông ta dắt mũi Marion, trong khi nói dối con bé và tôi, tôi đã nhận ra Hải âu Hội vận hành dựa trên những bí mật và việc thao túng các thành viên, tất thảy để phục vụ cho sự hoang tưởng ngày càng gia tăng của Hendrich về các mối đe dọa bên ngoài. Các công ty công nghệ sinh học nhằm ngăn chặn quá trình lão hóa là lĩnh vực quan tâm mới nhất của ông ta: một có tên là GeneControl Therapies, một là StopTime, cả hai đều đang đầu tư vào công nghệ tế bào gốc mà một ngày nào đó có thể ngăn chặn sự lão hóa của con người.

Hendrich bám lấy suy nghĩ rằng những nhà khoa học ở viện Berlin là những kẻ giết người, và ông ta luôn có một thuyết âm mưu mới nào đó để viện tới. Các hải âu biết rằng rất khó để sống với con người thật của mình và họ thường mang trong lòng ký ức về những nỗi bất công khủng khiếp, như tôi đã từng. Nhưng tôi không sẵn sàng để cái bóng dài của William Manning che phủ phán đoán của mình nữa. Càng nghĩ về mối đe dọa, tôi càng nhận ra mối đe dọa là chính Hendrich chứ không phải gì khác.

Ông ta đã vấy bẩn mọi thứ. Ngay cả cuộc hội ngộ với Marion.

Tôi nhận được tin nhắn từ Camille. Nội dung chỉ toàn: “???”

Một chiếc taxi lăn bánh qua. Chiếc xe duy nhất trên đường.

Rồi điện thoại của tôi rung lên.

Không phải Camille, mà là Marion.

“Ông ta sẽ đến gặp chú Omai.”

“Gì cơ?”

“Ông ta vừa rời nhà hàng. Ông ta đang đi rồi. Mới lên taxi. Mười phút nữa là đến nhà chú ấy.”

Một con thằn lằn sọc vàng lớn thoăn thoắt di chuyển giữa những cây cọ.

“Bố vừa nhìn thấy chiếc taxi. Ông ta định làm gì vậy?”

“Ông ta không nói. Ông ta bảo con đợi. Con không ép được. Ông ta đã đủ nghi ngờ rồi.”

“Marion, ông ta có súng không?”

“Con không biết. Nhưng...”

Con bé chưa nói hết câu, tôi đã chạy về hướng Bắc tới đường Broken Head.