Chương 7 Cửu trùng
1.
sau khi được phép nhanh chóng, vị y sư tham dự cuộc tiếp kiến mật mà ngài chưa bao giờ chấp nhận cho ai được như vậy. Chúa Trịnh Sâm ra lệnh thảo ngay một tờ chiếu, mệnh lệnh này phải được trình Ngài trước khi công bố. Bình thường vcđó không nằm trong thói quen của ông vốn lâu nay sống như một người ở ẩn. Những việc lớn nhỏ của quốc gia, ông đều giao phó cho Quận Huy – quan Chánh đường tự mình định đoạt bất chấp ý kiến của bảy vị đại thần trong Hội đồng Nhiếp Chính. Có phải cuối cùng ông đã phải chiều ý nghe theo lời khuyên tôn nghiêm của Đức bà Thánh mẫu là phải nắm lại dây cương trong tay chăng? Nếu từ lâu ông đã ngừng xử sự như một quốc vương minh triết thì hôm nay, một lợi ích hàng đầu lại thúc đẩy ông, tương lai của chính dòng họ mình qua Thế tử kế nghiệp nhỏ tuổi.
Quan Chánh đường tâu, hai tay cung kính dâng lên bản văn kiện:
Cúi xin Chúa thượng hạ cố ngự lãm.
Sắc mặt của Ngài vẫn luôn rạng rỡ nhưng đã lộ ra nhiều u ám vì nỗi lo âu. Những lời đồn đại trong kinh thành đã không ngừng tác động đến Ngài.
"Ngày mười một, tháng chín, năm Nhâm Dần (1782)
Chiếu chiêu mộ hiền tài:
Đã trải qua nhiều tuần trăng, sức khoẻ của ta và Đông cung Thế tử không lấy gì làm sung mãn cho lắm và những sự chăm sóc dành cho chúng ta đến nay không đưa đến bình phục hoàn toàn. Vậy ta ra lệnh cho các quan Thượng thư và quan chức ở kinh đô hãy tìm kiếm ngay tức khắc những thầy thuốc tài giỏi cho dù là người trong nước hoặc là người nước ngoài để tiến cử họ lên cho ta.
Thể theo lệ thường, ai tiến cử được người tài sẽ được trọng thưởng".
Khi đọc xong, Chúa thượng cảm thấy còn băn khoăn liền trao cho quan Chánh đường.
Khanh thấy thế nào?
Quan Chánh đường bẩm:
Tâu Chúa thượng, thần thấy đã phù hợp với ý của Chúa thượng sau khi lắng nghe vị thầy thuốc của mình. Tự cá nhân thần đã chăm chú xem lại rất kỹ.
Nếu cân nhắc kỹ lưỡng thì đạo chiếu này làm ta khó chịu. Đưa nó ra trước bàn dân thiên hạ hoá ra công nhận sự mất tín nhiệm một cách bất công đối với một người trong thế giới trần ai này đã vô cùng xứng đáng.
Tuy nhiên, dám xin Chúa Thượng hạ cố nhớ lại cho lời nói của người đó. Ông đã nói:Nỗi lo lớn nhất của người thầy thuốc là cứu nguy người đồng loại mà tuyệt không chút nào nghĩ đến thanh danh mình và nghiên cứu tỉ mỉ những khả năng khác khi mà trong phạm vi mình tất cả đều đã được làm thử. Bởi vì vị y sư tôn kính nhận đã đi đến cùng những giới hạn về kỹ năng chữa bệnh của mình tuy đã thu được những kết quả trông thấy song không đi đến chữa lành bệnh hoàn toàn cho Đông Cung Thế tử, thế thì tại sao lại chối từ nguồn khoa học đến từ phương Tây do chính ông đề nghị? Như vậy thì tất cả danh dự lại thuộc về ông vì ông là người biết tự mình nhường bước?
Hẳn là vậy! Nhưng đây mới là điều làm cho ta bối rối và lo ngại. như vậy phải chăng là nói trường hợp của Thế tử Cán là…
Vị Chúa Trịnh không nói thẳng ra cái từ triệu bất tường đó.
Quan Chánh đường kêu lên:
Dám xin Chúa Thượng đừng nghĩ như vậy! đây chỉ là đức tính trung thực mà thôi. Đức tinh trung thực này là của một người thầy thuốc hơi quê mùa nhưng lại có một phẩm giá lớn lao, ông ta nói nếu bệnh nhân chưa cảm thấy được hoàn toàn hồi sinh thì chưa thể cho rằng bệnh tình đã được chữa trị.
Liệu những tên thầy thuốc quái quỷ nước ngoài này có thể làm được gì tốt hơn ngoài những điều ông ta đã làm. Ông ta có phải là người giỏi nhất nước ta và là người danh tiếng nhất không? Khoa học chữa bệnh của ta thấp hơn họ ở chỗ nào? – ngài vừa nói vừa gật gù cái đầu hổ rừng mệt nhọc – Chỉ có thằng vô ơn bạc nghĩa Khải kia mới cả tin vườn thôi, đầu óc nó đã bị bọn nhà Nguyễn mê phương Tây làm hỏng rồi. Mọi mưu taon chính trị cần đến bộ óc thông minh nhiều hơn cái đầu của nó. Nó thì chỉ có cơ bắp mà không có đầu.
Người ta bảo đảm rằng một số giáo sĩ của họ cải trang thành thương gia đều là những thầy thuốc giỏi đã sử dụng những đơn thuốc tuyệt vời như một thứ bột màu vàng có thể ngăn được chứng hoại thư. Làm sao mà biết được việc này nếu không có một sự đối chiếu? Vì còn có sự nghi ngờ về phương cách chữa trị cho Chúa thượng và Đông cung Thế tử, ta hãy vén lên tấm màn của điều lo ngại này! – Quận Huy nói, vẻ đầy thuyết phục và hân hoan – hãy làm cho kẻ thù của chúng ta bị bẽ mặt và làm sao cuộc chạm trán của nền y học chúng ta và của Tây phương phục vụ tốt nhất cho sự an khang của Chúa thượng và qua Ngài cho cả lợi ích của triều đại.
Nụ cười của Chúa lúc này như phản ánh nhợt nhạt nụ cười của quan Chánh đường. Ông được khích lệ vì thấy sự việc đã giải quyết tạm xong và nôn nóng đi tới kết thúc một việc khác nữa mà ông vừa chợt nghĩ ra một giải pháp khá căn bản. Đúng lúc đo Chúa thượng giơ tay lên:
Ta quyết định mệnh lệnh này không được đưa ra công bố trước dân chúng mà chỉ giao lại cho một mình quan Tổng đốc Phố Hiến. Lệnh cho ông này sẽ bố cáo trong phố thị, bến cảng, các cửa hàng và các tàu buôn phương Tây. Nếu họ không hiểu được những gì mà mệnh lệnh bắt buộc thì họ phải tự mình gánh lấy hậu quả. Còn về phần giá trị và sự nhanh chóng trong việc lựa chọn này, quan Tổng đốc sẽ lấy đầu mình ra chịu trách nhiệm. Hãy nhấn mạnh điểm này.
Quan Chánh đường ra hiệu cho viên sử quan sau khi đã mang tới những điều sửa chữa cần thiết, ông này vội vàng bổ sung dưới đạo chiếu công thức truyền thống: Khâm thử - Hãy kính lấy!
Cũng chiều hôm ấy, Quận hầu đến báo với Lê Hữu Trác phải ngày đêm sẵn sàng chờ một cuộc gặp gỡ mà Đấng Bề Trên cho là vô cùng bí mật. không được tiết lộ chút gì ra ngoài. Đây là lệnh của Chúa Thượng.
Thưa cụ, như thế Đấng Bề Trên đánh giá cụ cao như thế nào – Quận hầu nói – và Chúa Thượng cũng mong muốn Thế tử kế nghiệp phải được chuẩn bị cho việc này. mặc dù Chúa thượng chưa tiến cử ai vào đây, nhưng phụ thân cháu cho rằng các quan nội thị không đủ tư cách đảm nhận vai trò này.
Hai người vừa uống trà vừa trao đổi qua những ánh mắt đồng tình. Vị y sư nói:
Ngày mai, tự tôi sẽ tâu việc này lên Đông cung.
Thật vậy, không ai được bố trí vào đây tốt hơn cụ bên cạnh Thế tử.
Vào lúc Quận hầu xin cáo lui với lý do sức khoẻ của người hôn thê trẻ, bị kích thích bởi trí tò mò, vị y sư lưu ông lại ở bậc cửa.
Thông thường chúng ta đàm luận cho đến sáng và không giấu giếm nhau điều gì. Vậy từ đâu lại có vẻ mặt sa sầm mà già này đã quan sát từ nãy đến giờ, với tình bằng hữu liệu quan có thể cho tôi biết được chăng? Nếu quan còn e ngại cho người mẹ và đứa con, ông già sơn cước này xin quan hãy giải toả nỗi lo lắng đó khỏi tâm can mình.
Khuôn mặt nhân từ ngẩng lên trước một thế giới thăng trầm, với cặp mắt từ phụ, vị lương y ngắm nhìn con người trẻ trung đẹp đẽ đang lo âu này, bản thân anh cũng đang trên đường trở thành người cha. Anh ta lại là con của một người mà việc gì cũng đạt tới được và cái tin xấu nhất đã báo cũng không làm ông ta thay đổi gì kia mà. Trên khoảng không đang xuất hiện một điều gì nghiêm trọng báo hiệu một bi kịch.
Quận hầu nói, vẻ cố gắng:
Thưa cụ kính mến, riêng cháu chỉ tiếc là chưa giúp đỡ cụ được trở về chốn núi non thân yêu, việc này làm cháu day dứt. Nhưng cháu xin hứa sẽ cố gắng một lần nữa. biết đâu trường hợp thuận lợi này, có thể sẽ đến từ người thầy thuốc phương Tây!
Tiếng động của ai đang chạy vội vàng làm ông quay đầu lại. Soạn vừa chạy băng qua chiếc cầu gỗ nhỏ.
Lê Hữu Trác thở dài. Những lời của Quận hầu chưa nói lên được tất cả. Ông dừng lại ở bậc cửa nhìn ông bạn trẻ đang đi xa dần.
Ông nói với chú bé chạy về gần đứt hơi bằng một giọng khoan từ:
Này cháu, cháu từ đâu về đó? Từ Trại Voi à?
Soạn trả lời khi đã cầm lại hơi thở:
Thưa ông chủ, không ạ, cháu vừa chạy một vòng quanh các chợ trong kinh thành và đem được cái lưỡi về! May quá lưỡi cháu còn đây! (Không thể nén lâu hơn nữa, cậu báo tin) Trong kinh thành, khắp nơi người ta dựng lên nhiều tấm phản gỗ bày hàng treo nhiều móc sắt và kéo nhọn để hăm doạ mọi người. Có một bài hát mà ai dám hát lên một câu thì sẽ bị cắt lưỡi ngay!
Câu hát nói gì cháu biết không? – vị lương y hỏi và lúc này chú đem lại cho ông phút khuây khoả nỗi băn khoăn của mình.
Chẳng cần nhắc lại, cậu đầy tớ nhỏ hãnh diện hát lên, giọng the thé:
"Trăm quan có mắt như mờ. để cho Huy Quận vào sờ Chánh cung!" Thưa ông chủ, đây có phải là ông Quận Huy mà cụ biết, là cha của ông Quận hầu?
Đúng vậy, đó là quan Chánh đường.
Soạn liếc mắt nhìn trộm ông, khuôn mặt vị lương y không tỏ ra nét gì quá căng thẳng mà cũng không quá lo âu hơn ngày thường. Tuy nhiên, cái gì xấu với quan Chánh đường thì dĩ nhiên cũng xấu với người thầy của chú. Chú rất muốn nói vài lời với anh cả Tống Thuần về sự vắng mặt của lão quan hộ tống trong hàng bọn mưu phản – Không biết anh có nhận ra không? – nhưng không có một môn đệ nào đến cả.
Vừa nằm xuống phản, chú vừa cố gắng suy nghĩ về trách nhiệm của một người lớn mặc dù chú cảm thấy mình bất lực và còn thiếu chín chắn. Chưa bao giờ những nỗi nguy nan trên đời này lại xuất hiện rõ ràng trước mặt chú, chú tự nghĩ điều đó phần nào là do tính hay thay đổi ý kiến của nhiều người và do tài khéo điều khiển của một số người khác.
"Chú hãy dạo bước trên các con đường của kinh đô này và hãy lắng tai nghe. Không có điều bí mật nào mà nó không biết, cũng không có tin tức nào mà nó không hay! Kinh đô này biết tất cả mọi chuyện đời rất nhanh và quên chúng đi cũng rất nhanh!" có một ngày Sứ Hoa Kiều đã bảo chú như vậy. Về các chú khách phương Bắc ấy, Soạn hiểu vì sao đất nước chú qua các thời đại vừa chống lại vừa hoà hoãn với họ: họ thật là khôn ngoan như vậy!
Kinh đô này cứ không ngừng biết tin tức rồi lại quên đi, Sứ nói có lý. "Máu của họ vừa khô trên quảng trường chợ phía Đông, ai còn quan tâm đến băng nhóm của Đặng Báo này thu nhỏ lại trong những bóng ma vất vưởng? Ai còn phẫn nộ trước hình phạt quá nhẹ cho tên đầu sỏ? Và ai nữa có lúc nào nhớ đến những cô gái xinh đẹp bị hãm hiếp hoặc bị xẻo thịt ấy?" Chú tự hỏi. không, riêng chú ta thì không bao giờ quên được. Và nếu trời còn cho chú sống lâu hơn, chú cũng sẽ làm cho ra chuyện và ngay cả ở Trại Voi cũng vậy. Dù chú phải phàn nàn hay thích thú việc này thì Kim, bé Kim xinh đẹp tuyệt trần và nhí nhảnh của chú đã và mãi mãi sè là gạch nối giữa một bên là lão quan hộ tống – một loại đàn ông rõ ràng có số phận phải biến mất – và bên kia là cô gái mặc áo xanh ngắn ngồi bên chợ.
Ngày hôm nay kinh đô chỉ còn một việc được mọi người quan tâm là các biện pháp mà quan Chánh đường đang thực hiện nhằm triệt tận gốc những điều đơm đặt. Nhưng người dân chỉ thì thầm với nhau và bài hát bị cấm chỉ ấp úng trong cổ khi họ thấy những tấm phản ngoài chợ đầy móc và kéo đang lanh canh tận những xó xỉnh. Ai dám tụ hội và bàn luận sẽ bị cắt lưỡi ngay! Đó là câu trả lời của quan Chánh đường trước chiến dịch hạ uy tín ông. Từ nay, đô thành này bị bắt buộc phải câm lặng, mọi người chỉ nhìn trộm nhau và ai nấy đều đang chờ một cuộc biến loạn nổ ra trong phủ chúa dựa theo lời đoán trước. Những chiến thắng của nhà Tây Sơn chống lại chúa Nguyễn ở đàng Trong dội vào tâm trí mọi người. Những chiến công của vị tướng trẻ Nguyễn Huệ đã bay ra đến tận kinh đô. Mọ người đã đoán được rằng người anh hùng của họ sau khi diệt xong nhà Nguyễn ở đàng Trong sẽ quay ra chống Chúa Trịnh ở đàng Ngoài và họ sẽ dễ dàng tiêu diệt được.
Soạn như đang sống lại cảnh ngày hôm trước mình cùng anh cả Tống Thuần đến Trại Voi và đang nghe con người bảnh trai Bằng Vũ chỉ thị "Nếu tai hoạ xảy ra tại phủ chúa, phải lập tức đóng ngay tất cả các cửa, giết ngay Quận Huy, giam ngay Thị Huệ. Như vậy Thế tử Cán không thể lên ngôi được. Qua một bản hiệu triệu, phần lớn quân lính sẽ được điều về kinh đô và với sự giúp đỡ của các quan đại thần, Thế tử Khải tức thì được tôn lên nghiệp Chúa". Nếu lúc chú đang cùng với Tống Thuần nấp sau những mảnh ván đã lung lay mà bị lộ thì cái chết là cầm chắc, chú tự nghĩ và rùng mình khi hồi tưởng lại việc đã qua. Giờ đây chú tự hỏi lão quan hộ tống, một trong những trụ cột của cuộc nổi loạn đã biến đi nơi nào. Có thật cần thiết không một khi ông chủ khẳng định rằng bất chấp cả thân mạng chính mình, cụ không thể và càng không muốn từ bỏ cậu bé? Trước các học trò, cụ đã nói ra và nhắc lại điều đó. Hình như Thế tử kế nghiệp nhỏ tuổi đã mê hoặc được cụ.
Rồi Soạn tự hỏi Thế tử này có gì thật đặc biệt ngoài căn bệnh lạ đời. Căn bệnh không tên kia đã dám táo bạo chống lại ông chủ?
Ngày hôm sau khi đi tới Đông cung viện, vị y sư cảm thấy nỗi lo âu xâm chiếm khi ông nghĩ đến vai trò tai hại mà quan Chánh đường đang đóng.
Từ khi ông được tiến cử là ngự y của Thế tử, ngày mười bảy tháng ba năm Dần, sáu tháng ròng đã trôi qua. Biết bao nỗ lực và phương thuốc pha chế rất công phu để phục hồi nguyên khí của Đông cung. Nhưng việc gì ông phải nhọc lòng suy nghĩ như vậy? Sáng nay, ông phải đến nói với cậu bé. Nhưng ông cũng chưa biết nên nói thế nào đây?
Lẽ ra ông thích ẩn mình sau một cái khiên làm bằng những gì vô chính phủ nhất, cá nhân chủ nghĩa nhất và cả ích kỷ nhất nữa. Con người ông giống như đang trong cái ngày đặc biệt trên đường ra kinh đô, nơi bến cảng Thiết, trước mắt là biển cả…
Ông đã đem toàn bộ tài năng của mình vào việc phát hiện nguyên nhân căn bệnh và cách giải thích các dấu hiệu lâm sàng hết sức tinh vi, cả sự pha chế các phương thuốc được chuẩn bị chu đáo nhất. Là người thầy thuốc, ông biết rằng không thể làm được gì hơn nữa vì trường hợp bệnh tình của Thế tử không còn nằm trong phạm trù y học cả ở Đông phương và Tây phương. Song tình người trong ông đã dần dần lấn bước người thầy thuốc và còn nuôi bao hy vọng. Ông nghĩ cuộc gặp gỡ sắp tới như là một sự phản bội, một thủ đoạn quanh co về cả hai phương diện chính trị và y học mà xem ra ông là công cụ đồng loã còn người bệnh nhỏ tuổi kia chỉ là một con bài ngây thơ.
Khi ngồi trên chiếc cáng đi tới Đông cung Viện, vị y sư tự hỏi, Thế tử sáng suốt và thâm trầm dường ấy lẽ nào lại để người ta lừa bịp chăng? Ông tự thú nhận một cảm giác kỳ lạ - giả thuyết này do Thụy Anh nêu ra trong tối say rượu đã liên tục nuôi dưỡng sự tò mò đối với Thế tử kế nghiệp và cho rằng cuối cùng ông đang gặp một tâm hồn già dặn rất già dặn trong một cơ thể trẻ con. Đối với cậu bé mà ông thấy tràn ngập lòng yêu thương sẽ không thể bị lừa nhưng ông hiểu rằng nhiệm vụ của ông là phải nắm bắt cho được chút hy vọng mong manh, dù đó là từ nước ngoài đến.
Qua chín lớp màn bị gạt sang một bên trong một động tác dứt khoát, ông cảm thấy như đang bị nhầm, từ mọi phía, ánh sáng mặt trời trong trẻo lọt qua những bức màn sáo cuốn lên làm mờ nhạt vòng tròn đèn đuốc quanh chiếc sập quá rộng. Trống không.
Nằm lún sâu trong chiếc ghế bành đỏ chạm rồng, đôi chân nhỏ màu trắng ngà đặt trên tấm nệm. Đông cung Thế tử nói:
Sáng hôm nay, Lão sư thấy sức khoẻ mình ra sao?
Ta đang áp dụng những nguyên tắc khôn ngoan của Lão sư đây, khí trời, ánh sáng, sự sống! Nhưng xem kìa, những ngọn đèn này khó mà chống chọi được!
Sau khi đã cúi chào kính cẩn, vị lương y thưa:
Tâu Đông Cung, không vì thế mà nó không tiếp tục cháy.
Thế nhưng luồng sáng của chúng vẫn được tính đấy mà.
Đôi mắt cậu bé hình như thu hút trong đêm đen bao ánh lửa chập chờn.
Vị y sư trả lời:
Bóng tối và ánh sáng chiếu rạng lẫn nhau, bao bọc lẫn nhau, tiếp nối cho nhau, sản sinh ra nhau, cùng làm nhau yếu đi. Nhưng trong cuộc đấu tranh miên trường này không có bên nào chiến thắng cả\/
Thế tử liền nói:
Cụ trích dẫn Trang Tử rất hay. Xem ra cụ rất giỏi về học thuyết này và tính cách của cụ cũng vậy.
Muôn tâu, Đông Cung muốn nói gì ạ?
Lão sư ơi! Lão sư không hề có ý định dâng lên Chúa một lá biểu để mong có được chức vị và theo sau xe loan. Lão sư thích sống đạm bạc và thoải mái theo sở nguyện của mình.
Nắm đúng thời cơ đi thẳng vào vấn đề mà ông quyết định bám chắc vào, vị y sư nói:
Tâu Đông cung, nói điều ngược lại là nói dối. Nhưng chẳng phải thần đến đây để phục vụ Đông cung đó sao? Để chữa b…
Đó là sự đề xướng của ông Quận Huy, ông này thích cai trị và mua chuộc đã làm cho Chúa Thượng phụ thân ta triệu hồi lão sư ra kinh đô – cậu bé vương gia ngưng lời rồi lập tức nói thêm – Xin lão sư đừng chống chế.
Làm sao thần có thể chống chế? Nhưng không vì thế mà thần đã vượt qua bao nhiêu núi đồi, nắng mưa và bao nỗi trầm luân khổ ải để mang lại cho Đông cung nguồn lực xoay chuyển và an lành của Trời. Nhờ đó mà cuối cùng sức mạnh của chính Thế tử đã được khôi phục.
Thế tử nói:
Ta biết thế.
Mong sao ngài hãy thuận theo sức mạnh siêu việt đó và khôi phục được trật tự tối ưu để kéo dài thêm chu kỳ sống. Nhưng kính tâu, thần không thể đạt tới điều mong muốn nếu không có sự trợ giúp của trật tự đó.
Trong một cử động mệt mỏi, cậu bé quay lại đối diện với những hình thú vật chạm nổi trên chiếc ghế để lộ ra khuôn mặt nhỏ xinh xắn. Trên chiếc cổ gầy gò, một tĩnh mạch xanh đập rất nhẹ mà tưởng như nếu lấy ngón tay ấn xuống nó có thể tắt.
Đôi mắt nhắm lại, Thế tử nói:
Cảm ơn Lão sư, không một ai có thể khôi phục được chút trật tự nào kể từ nay.
Tâu Đông cung, mọi sinh vật đều có khả năng được phục hồi, chỉ cần Đông cung thực hiện nó mà thôi. Người lương y già cả này xin khẩn cầu Đông cung hãy nghe theo. Lẽ nào thần đến kinh đô một cách vô ích hay sao? Ngày mai…
Một thoáng cử chỉ và cả đôi mắt của Thế tử ngăn không cho ông tiếp tục nói:
Xin Lão sư vui lòng nói khẽ. Sau những tấm màn, tất cả bọn người bị cung thiến này đang nghe chúng ta. Quá mệt mỏi vì phải khua chiêng gióng trống giữa đám ca công, lão sư đã rút lui ngay từ khi còn rất trẻ. Tình trạng hỗn loạn này xuất hiện đã quá lâu rồi. Đức Khổng tử nói "Khi Đạo thắng thế thì Hoàng đế, vị Thiên tử là gốc của lễ nghi. Khi Đạo không thắng thế là lúc các chúa thuộc dòng thứ yếu tự mình đứng ra cầm đầu và buộc dân phải suy tôn mình. Ông Trời nổi giận điều đó nhưng dân chúng có lý do tìm lại niềm hy vọng. Một chu kỳ kết thúc…
Đối với lão sư, tấm linh hồn già dặn từng tiến lên bằng bước chân loài hổ bỗng nhiên hiện ra. Ông phải cúi xuống để nghe Thế tử nói thầm:
Có ích chi níu lại một cậu bé nếu không phải là để phục vụ lợi ích cho bọn người manh tâm xảo quyệt? Mẫu thân đáng kính của ta đã cho ta nuốt một con cóc vàng [1] và luôn xem xét trong lá số tử vi của ta về đường con cái. Nếu có một vì sao nào gây tai ương là van lạy tứ phương, mời pháp sư đến giải sao hạn, còn thầy bói với cô đồng thì lui tới không ngớt và khoác lên cho ta những nanh cọp. Đó phải chăng là do lòng thương con của mẫu thân ta, cô thôn nữ hái chè mà Chúa thượng phụ thân ta yêu thích bởi tính thông minh và sắc đẹp của bà đã khiến cho bà làm như vậy? Rồi sau đó lão sư đến, đem tất cả tài năng và công sức chỉ cho riêng mình ta. Lão sư có tin như vậy không? Trong sự tĩnh lặng của ban đêm, khi nghĩ đến điều đó ta cảm thấy nồi buồn càng tăng thêm.
Vị lương y kêu lên, lòng đau như cắt:
Xin Đông cung đừng nói như vậy!
Ông sửng sốt trước sự sáng suốt lạ kỳ của Thế tử.
Nói bé hơn! Họ đang ở đó và thuật lại lời của chúng ta. Chúng ta nói khẽ thôi.
Lúc này ý kiến của cậu bé là lời của một nhà hiền triết mang chòm râu bạc trắng.
Người thầy thuốc tự thấy thoải mái không cần giấu giếm Thế tử điều gì. Ông thì thầm:
Đông cung đã nhìn đúng. Bị quan Chánh đường đẩy ra khỏi ngôi nhà ẩn cư ở Hương Sơn, thần bị cưỡng bức và bắt buộc phải sống nơi đây. Không có gì ràng buộc thần với chốn kinh đô này cả, nhưng niềm ước vọng được chữa khỏi bệnh cho Đông cung đã ám ảnh thần hơn cả việc trở về Nghệ An. Nhưng sau sáu tháng nỗ lực và ngoài một vài cải thiện đáng kể, thần vẫn không hiểu được Thế tử đau bệnh gì.
Thế tử nói:
Ta biết điều đó. Ta nằm vào chương Y âm án.
Tâu Đông cung, sự thật là như vậy, trường hợp bệnh của Đông cung quả là ít thấy dưới bầu trời này. Nếu trí nhớ của Đông cung chấp nhận việc thóat khỏi những chu kỳ thời vận thì nỗi đau thân xác phải chịu đựng chắc chắn có thể chữa khỏi được. Trừ phi có một kỹ năng khác trong một hệ thống chữa bệnh hoàn toàn khác đề xuất được những phương thuốc mới. Vì thế theo lời thỉnh cầu của thần, Chúa thượng đã ban chiếu mời một thầy thuốc Tây phương đến hầu bệnh cho Thế tử. Dám xin Đông cung tha thứ cho thần!
Cho ta à? Nhưng đối với lão sư, một sự hy sinh như vậy có nên chăng?
Tâu Đông cung, không có gì quan trọng. Danh tiếng của một thầy thuốc không có nghĩa lý gì với việc chữa bệnh cứu người.
Vì ta là Thế tử của lão sư, có phải vậy không?
Nằm dựa vào ghế bành, Thế tử đưa đôi mắt rộng nhìn y sư trong một cái nhìn như vô định.
Vị y sư trả lời, giọng chùng xuống:
Bởi vì Thế tử là người bệnh nhỏ bé của thần… - trong khi đó một bàn tay nhỏ đặt lên bàn tay ông và bóp nhẹ.
Khuôn mặt trẻ con rạng rỡ như một vì sao mới mọc.
Trong bóng đêm của từ tổ tiên truyền lại đôi mắt cậu bé bùng lên một luồng ánh sáng lờ mờ di động, luồng ánh sáng của một người từ tầng sâu lòng đất đi lên với chiếc lồng đèn trong tay.
Vì Chúa thượng phụ thân ta muốn và thầy thuốc của ta đề nghị, ta sẽ đón nhận người thầy thuốc ngoại quốc này. Còn đối với lão sư, trong cuộc trao đổi này, có lẽ khoa học của lão sư sẽ có lợi.
Mặc dù vị Đông cung Thế tử tỏ ra như kiệt sức, giọng nói của cậu ta vẫn đầy vẻ tinh nghịch, còn cặp mắt thì như trẻ lại. Bằng cách búng ngón tay làm dấu, Thế tử ra hiệu cho các nội thị xuất hiện, họ liền đến ẵm Thế tử vào sát bộ ngực mỡ màng đặt cẩn thận xuống nệm rồi đi rủ màn sáo xuống không cho ánh sáng tràn vào.
Vị y sư dặn lại với họ trước khi cáo lui:
Tiếp tục ngự tiến Đông cung những thang thuốc đã kê đơn vào đúng thời gian quy định – ông giả vờ không nhìn thấy những cái lắc đầu buồn bã của mảnh tâm hồn già dặn đang soải dài trên nệm gấm của chiếc giường quá rộng.
2.
Vào hồi trống gần canh ba ngày mười hai tháng chín, một chiêc cáng phủ màn do một toán lính khiêng đến trước cửa Nam phủ Chúa Trịnh là lập tức được đưa vào trong.
Hắt ra từ trong đêm tối, những bó đuốc hộ tống chiếc cáng qua khu vườn dưới một quầng sáng đến tận điếm Hậu mã quân. Nơi đây đã có hai vị quan lớn trong đoàn tuỳ tùng của Chúa đang đợi.
Chiếc cáng vừa dừng lại, hai người nước ngoài bước xuống, một người dáng vẻ kiểu nhà buôn, người kia dáng dấp sang trọng kiểu quý tộc, chiếc kiếm bên hông, tay giữ chiếc hộp thuôn dài, họ nhanh chóng biến ngay vào trong phủ chúa. Lúc sau, một phái viên của quan Chánh đường đến gặp, và sau cuộc nói chuyện ngắn, hai người ngoại quốc trở lại chiếc cáng có đội hộ tống đưa họ tiến về Đông cung viện.
Một số thái giám trẻ được bố trí dọc đường bên cạnh những quan thái giám già khọm. Qua khe hở bức màn có thể thấy người này với bàn tay xanh xao thò ra ngoài chiếc khăn ren trắng, người kia đội mũ như túm bông, người khác với chiếc mũi dài dưới vành mũ đen ba múi. Các thái giám có chỗ đứng tốt được may mắn thấy rõ bọn quỷ quái nước ngoài này từ lúc họ mới xuống cáng. Đó là một người mặc áo xám có lai tay viền vàng và quần đùi đỏ sấm, còn người kia thì đen như chú quạ. Đông cung viện khép kín lạ/i sau khi họ đi vào.
Sau cánh cổng là sự yên ả nặng nề.
Một quan nội sai đến đón hai vị khách, đưa họ lặng lẽ đến phòng Chè gặp viên quan thừa hành.
Viên quan này đệ trình lên hai vị khách qua trung gian quan thông ngôn, cho họ biết về những phương thuốc riêng của Đông cung và xác định cách thức hầu bệnh. Tất cả phải phục tùng sự phê chuẩn đầy quyền uy của Chúa Thượng dù không có mặt.
Khi tất cả mọi điều đã được nói xong, dịch lại và lắng nghe, viên quan thừa hành đến báo cáo quan đại thần. Ông này lập tức đến ngay, khuôn mặt dửng dưng, ngực đeo một băng trắng[2]
Vị này có nhiệm vụ hướng dẫn hai người khách đến gian phòng của Đông cung Thế tử sau khi yêu cầu một trong hai người tháo kiếm cất vì có sự hiện diện của Chúa.
Quan thông ngôn dịch:
Xin các ngài theo tôi.
Với chiếc mũ vành ba múi và chiếc hộp trên tay, hai người theo đoàn tuỳ tùng đi sâu vào hành lang bí mật trải qua chín lối cửa…
Thế tử đang ngước nhìn mông lung, mắt không rời khi hai người ngoại quốc bước lên trong vòng sáng ngọn đèn và chìm đi trong sự trịnh trọng qua hai lần chào bằng động tác mềm mại của những chiếc mũ theo thủ tục trong nước họ thay vì quỳ lạy.
Khoác chiếc áo lụa hồng và đội chiếc mũ chỏm đen có tra bộ cúc đỏ, cậu bé vương gia ngồi trên chiếc sập lộng lẫy. Khuôn mặt nhỏ đẹp đẽ ánh lên vẻ opai nghiêm đường bệ. Theo yêu cầu của Thế tử, vị y sư đứng bên cạnh và các quan nội thị lùi lại sau theo tục lệ. Đằng sau cùng, qua tấm màn lụa rộng có sự hiện diện của những người tôn quý chứng kiến bên cạnh một số khuôn mặt son phấn.
Trong hai người đang trịnh trọng đến diện kiến Thế tử, một người có vẻ nghiêm nghị lạnh lùng và nặng nề, còn người kia thì duyên dáng kiểu cách và nhẹ nhàng. Đông cung Thế tử hướng về phía họ, đôi mắt khó hiểu.
Một giọng nói không biết từ đâu ra lệnh:
Cho họ đến gần để hầu bệnh.
Quan thông ngôn còn chưa kịp dịch thì người ngoại quốc bộ dạng nặng nề kéo người bạn đồng sự lại gần trong lúc các nội thị lấy chiếc hộp ra đặt lên bàn bên cạnh.
Người thầy thuốc phương Tây lịch sự nghiêng mình trước Thế tử, mớ tóc quăn trắng cuộn tròn như vỏ kén mà không thấy chiếc nào động đậy cả.
Giọng nói đều đều, ông trình bày nỗi buồn sâu sắc khi nghe nói đến bệnh tình của Thế tử và xin cho ông biết cơn bệnh để tìm cách cứu chữa.
Quan thông ngôn dịch rất nhanh không bỏ sót một từ nào với sự gật gù của người nước ngoài mặc áo quần màu sẫm.
Một hồi im lặng tiếp theo. Vị y sư đứng cạnh giường Thế tử cúi mình xuống. Phải chăng vì sự có mặt trang nghiêm của Chúa thượng phụ thân nên không cho Thế tử trả lời? không phải thế! Sau khi trịnh trọng gật đầu, Thế tử đặt một câu hỏi như hàm ý khẳng định với người nước ngoài mặc áo màu xám:
Ông nói được tiếng ta, hình như vậy.
Ông này đáp lại:
Tôi nói rất dở.
Đằng sau bức màn.
Đó là điều làm nên sức mạnh cho âm mưu gây loạn của bọn người phương Tây đến từ xứ đàng Trong (Chúa Trịnh nói với quan Chánh đường ngồi bên cạnh). Họ học tiếng nói, phong tục tập quán và tôn giáo của chúng ta để thống trị đầu óc chúng ta dễ dàng hơn. Đó là một âm mưu chiến lược đáng gờm.
Quan Chánh đường nói:
ngay lúc này, chúng ta phải biết tận dụng khoa học chữa bệnh của họ. Còn việc trị vì, rồi Chúa thượng sẽ tính sau.
Vậy trong hai người đó, ai là linh mục? Hãy để ta đoán. Tất nhiên là người mặc quần áo màu đen. Ông ta có khám đâu. Có chắc ông ta là người thầy thuốc thuốc thực sự không?
Tâu Chúa thượng, ông ta vừa là linh mục vừa là thầy thuốc, còn ông kia là nhà phẫu thuật chuyên mổ xẻ với sự thành thạo không ai sánh bằng như người ta đồn.
Không được để một điều ghê tởm như thế của phương Tây đụng chạm vào người của con trai ta!
Muôn tâu Chúa Thượng, ông này tên là Hyacinthe de la Richardiere, tốt nghiệp trường phẫu thuật và giải phẫu học ở Rochefort rất nổi tiếng ở vương quôc Pháp. Hiện là Phẫu thuật trưởng đoàn Y tế bộ hải quân thuộc Nha Tổng Thanh tra y tế hải quân và Thuộc địa. Quan Tổng đốc Phố Hiến đã tìm hiểu kỹ lưỡng văn bằng. Về họ, dám xin Chúa thượng an lòng, chúng thần biết rõ cả.
Chúa thượng nói với vẻ trầm tư:
Thịnh suy và tai hoạ đều trực thuộc vào Trời nhưng có thể gốc rễ của chúng đối với chúng ta lại nằm ở trong nước Pháp này.
Phía bên kia bức màn.
Vẻ tập trung chú ý, người thầy thuốc phương Tây sờ nắn mạch bằng một ngón tay – vị y sư sửng sốt, ngạc nhiên trước việc ông ta khám quá nhanh để xd tính chất và đặc điểm của bệnh tình. Sau đó, ông ta khám tỉ mỉ bảy lỗ khiếu báo hiệu sức sống của tim, dạ dày, gan, lá lách, phổi và thận là lục phủ gốc. rồi ông ta giơ cao bàn tay gầy xanh xao có vải viền về phía một đồ vật sáng loáng, người bạn ông lấy từ chiếc hộp thuôn dài và lôi ra những dụng cụ sắc nhọn.
Ông người nước ngoài mặc đồ xám nói giọng cao và rõ ràng:
Đây là cái nạo lưỡi để kiểm tra cuống họng – rồi ông ta phác một cử chỉ để an lòng chung quanh.
Không chút sợ hãi, Thế tử nhìn Lê Hữu Trác với một ánh mắt lạ lùng trước khi há rộng miệng.
Cùng viết thái độ ngoan ngoãn gần như tự nhiên, Thế tử tự mình cởi chiếc áo ngoài khi người thầy thuốc phương Tây xin phép được khám. Ông này lấy ra một tấm vải mịn vuông vắn trải trên ngực và lên lưng của Thế tử, ghé sát tai vào để nghe thở rồi nín thở, ho rồi nín ho…
Vị y sư nhận xét ở Viễn Đông người ta không biết phương pháp này mà phải xem sắc mặt, môi, lỗ mũi và mắt để người thầy thuốc nhận rõ tình trạng hô hấp của bệnh nhân.
Thế tử còn được yêu cầu cởi hết quần áo và nằm duỗi thẳng người ra.
Giọng nói vô hình phát ra trước sự ngại ngùng và lo sợ của các nội thị:
Cứ để ông ta khám hình trạng.
Vị y sư nhớ lại đã có lần nghe một lệnh tương tự trước buổi đầu tiên đến hầu mạch nơi này.
Lúc này ông thầy thuốc thanh lịch phương Tây nhìn xuống tấm thân trần của cậu bé. Ông ta không chỉ quan sát tứ chi gầy guộc, cái bụng chướng to với những tĩnh mạch hiện rõ ở hai bên, mà bằng một động tác dứt khoát, ông còn ấn cả hai tay xuống hai bên bụng đang căng. Sau đấy, ông lấy bàn tay trái ấn xuống khá mạnh rồi bắt đầu cho tay phải gõ nhẹ sườn cậu bé. Rồi ông lại gõ gõ hai lần từ đông sang tây rồi từ tây sang đông, gật gật đầu như đã hiểu trong khi chú bé vương gia đang chơi trò dùng cái quạt phủi bụi phấn rơi ra từ bộ tóc giả của ông này.
Cuối cùng, ông ta yêu cầu cho xem phân và nước tiểu.
Thế tử hỏi:
Tại sao chỉ có mình ông được quyền khám ta? Vậy ông bạn này của ông không phải là thầy thuốc sao?
Quan thông ngôn không để cho người nước ngoài mang áo quần đen có thời gian nói về nhiệm vụ của mình. Câu hỏi này dịch xong, ông lại dịch ngay câu trả lời:
Tâu Đông cung, cả hai chúng tôi đều là thầy thuốc nhưng người đồng nghiệp của tôi đây lo phần cứu rỗi linh hồn.
Cậu bé vương gia nói, quay về phía người mà ông kia cho là người cứu rỗi linh hồn:
Chỉ có những linh hồn không người hương khói mới gặp hiểm nguy.
Quan thông ngôn lại dịch.
Rõ ràng là người thầy thuốc phương Tây không hiểu Đông cung thế tử muốn nói gì. Đóng lại chiếc hộp bằng những khuy nhọn, ông cúi người qua những nếp gấp của bộ áo lạ kỳ trong khi bên cạnh, ông linh mục kiêm thầy thuốc trả lời cậu bé bằng ngôn ngữ của Đông cung:
Không có Chúa trời, tất thảy mọi linh hồn đều gặp những hiểm nguy!
Đến đây cuộc hầu bệnh đã kết thúc.
Trước mắt Đông cung trang nghiêm, hai thầy thuốc nước ngoài cúi chào hai lần rất lâu rồi thụt lùi ra về, lại cũng quan đại thần lúc nãy lặng lẽ đưa hai ông trở về qua hành lang bí mật..
Giữa nhiều nội thị đang bận rộn chuẩn bị giấc ngủ, Thế tử quay lại vị y sư đang đứng đầu giường. Hơi thở của Thế tử hình như bị nghẹt lại bởi một sự mệt mỏi cùng cực.
Bây giờ thì lão sư đi đi. Lão sư chưa kết thúc việc này được đâu.
Đàng sau bức màn.
Chúa nói với quan Chánh đường.
Hãy triệu họ đến phòng Chè. Ta muốn biết Thế tử ta đau bệnh gì và họ đề xuất cách chữa thế nào. Ta cũng muốn cám ơn họ đã cảm phiền giúp đỡ ta. Hãy triệu tập ngay lập tức một hội nghị đại biểu – Chúa nói với Quận Huy – Ông hiểu ý ta chứ?
Luôn có quan Chánh đường theo sau, khi bước vào phòng Chè, bộ mặt hổ mệt nhọc của Chúa liền hớn hở khi trông thầy, theo ý muốn của ông, nơi đây đã có đại diện tương đương của hai phái kình chống nhau trong triều đình.
Lùi sâu sau những màn lụa là những địch thủ không đội trời chung dưới bộ mặt rất lịch sự với nhau. Một bên là mẫu thân của Chúa, Đức bà Thánh mẫu, đồng minh của Trịnh Khải ngớ ngẩn đầy sức khoẻ. Bên kia, mệnh phụ của Chúa, bà Chánh cung, người đã cho ra đời vị Thế tử kế nghiệp tuấn tú, sớm thông minh trong một thân xác quá mong manh.
Ngồi đàng trước, có bảy vị quan trong Đại hội đồng, trong số này có ba người bản tính thật thà không ẩn ý ra sức ủng hộ Chúa và quan Chánh đường, ba người khác thì luôn dao động, không có chính kiến rõ rệt và người sau cùng là vị đại thần Hoan mà theo người ta nói có ít nhiều ảnh hưởng đến Trịnh Khải và Đức bà Thánh mẫu.
Cuối cùng chung quqanh thầy thuốc Nguyễn Quý co mặt một số thầy lang thoát nạn của Thái y viện, không ưa gì Lê Hữu Trác nhưng cũng không đến nỗi thù địch ông.
Vẻ hấp dẫn mặn mà, nhân danh Chúa thượng, quan Chánh đường đề nghị ông Hyacinthe de La Ricardiere và cha linh mục Paul Lebrun phát biểu những kết luận của họ.
Quan thông ngôn đã sẵn sàng.
Đầu tiên, nhà phẫu thuật Pháp cho hay rất ngạc nhiên và sửng sốt trước trường hợp gầy mòn trông thấy của Thế tử lại thêm cả chứng suy nhược, sự khó thở liên tục và bệnh bụng chướng khá nặng. Ông cho rằng thể trạng của người bệnh nhỏ tuổi này không thể nào suy sụp hơn nữa. Ông còn nói với trường hợp một đứa bé nào khác thì hẳn đã chết từ lâu rồi.
Quan thông ngôn dịch lại.
Chúa Trịnh nói với vẻ hài lòng:
Người thầy thuốc của Đông cung, cụ Lê Hữu Trác tôn kính đang có mặt tại đây ca ngợi con đường "Vương đạo" của nền y học chúng ta nhằm bảo vệ sức lực tự nhiên của cơ thể và không bao giờ quên kết hợp giữa hai phương pháp điều trị và bổ dưỡng.
Cha linh mục Lebrun phát biểu thẳng bằng tiếng bản xứ:
Tâu Chúa thượng, ở phương Tây chúng tôi cũng nghĩ như vậy, không nên chỉ nhắm vào các triệu chứng vả lại còn vì những lý do khác có tác dụng thanh trừ bệnh tật. Việc này còn góp phần đào thải ra ngoài những chất ứ đọng và thối rữa trong người.
Lần này quan thông ngôn dịch ngược lại cho nhà phẫu thuật Pháp nghe.
Ông này trả lời ngay, bực mình trông thấy:
Tất cả những đầu óc khoa học ngày nay phải công nhận các phương pháp tẩy rửa, bơm thụt, nhịn ăn hoặc kiêng khem mà cũng chưa cho là đủ. Càng ngày càng tỏ ra cần thiết tấn công trực tiếp vào chính chứng bệnh vì tất cả mọi bệnh tật đều sinh ra từ những thương tổn của cơ thể mã ta cần tìm ra và chữa trị. Xin ông dịch cho….
Nhà phẫu thuật nói tiếp:
Không nghi ngờ gì nữa, những cơn đau bụng, rối loạn tiêu hoá, xơ cổ trướng mà Đông cung đang mắc phải đều có thể quy cho bệnh ở màng bụng…
Nghe tới điểm này, quan thông ngôn đến quỳ xuống trước Chúa thượng tâu rằng ông không biết dùng từ gì trong tiếng Việt để dịch "péritoine".
Ông thầy thuốc giải thích thẳng bằng tiếng ta:
Tâu Chúa thượng, đây là màng mỏng bao bọc thành bụng và bao bọc nội tạng ở trong chưa kể tới những màng bụng giữa nối tiếp màng bụng ngoài với màng bụng nội tạng.
Ông có quan sát thấy như thế trogn những người bị án tử hình ở Vương quốc phương Bắc không?
Câu hỏi của quan Chánh đường làm tan bớt vết nhăn trên khuôn mặt lạnh lùng của nhà tu hành đang lịch sự chờ đợi quan thông ngôn dịch ra bằng tiếng Pháp cho ông bạn đồng sự.
Tâu Chúa thượng, đó là một việc từ lâu được biết đến bên phương Tây. Chúng tôi đã quan sát trên thân thể và trong nhiều trường hợp mổ sau khi chết – nhà phẫu thuậnt nói, xem như đó là một việc tự nhiên bình thường.
Câu dịch của quan thông ngôn rơi vào một quãng tĩnh lặng khủng khiếp.
Sách Hậu chu thiên của Thương Hoàng có trích một đoạn cho rằng đó không phải là một cái màng mà là một thứ mỡ màu vàng làm dính mười sáu nếp gấp của đại tràng thành một khối – lần đầu tiên vị y sư lên tiếng.
Nhìn thấy sự vừa ý của Chúa, quan thông ngôn bình tâm dịch ngay.
Nhà phẫu thuật người Pháp không mảy may chú ý đến ý kiến trên của vị y sư vì ông ta cho là thừa. Kéo măng sét áo có viền đăng ten lên, vẻ khó chịu. Ông ta giải thích rằng chứng màng bụng này luôn luôn gây ra nhiễm trùng, biểu hiện trước hết bằng chứng tụ huyết. Sự tiết ra ngày càng nhiều một chất nhờn có mủ không còn phương cách nào để tự vệ ngoài việc tạo ra những màng bụng che chở giả. Nhưng loại này có thể làm tê liệt và chẹn lai các khúc ruột.
Quan thông ngôn khó khăn lắm mới theo được. Ông lúng ta, lúng túng chữa lại rồi đề nghị nhắc đi nhắc lại.
Tóm lại bệnh của Đông cung là một chứng viêm màng bụng kinh niên chỉ có thể chữa bằng cách điều trị trực tiếp từng phần, đó là việc bơm rút nước.
Đến đây quan thông ngôn lại thiếu từ dịch.
Vị y sư hỏi:
Việc ấy làm như thế nào?
Nhà phẫu thuật Hyacinthe de la Richardiere tuy là hạ mình trả lời câu hỏi của người thầy thuốc riêng của Đông cung nhưng thật ra ông ta chỉ trình bày với Chúa Thượng mà thôi:
Từ paracentèse gốc từ chữ Hy Lạp para là xuyên qua và kentein là chọc thủng. vấn đề là – ông vừa nói vừa mở chiếc hộp thuôn dài để trước mặt – dùng cái ống chọc làm thoát ra thứ chất lỏng ứ đầy trong vùng bụng. Người ta đưa đầu nhọn của ống kim loại này vào khoang bụng để hút.
Quan thông ngôn vừa lắp bắp dịch xong, một tiếng thét nghẹt thở ré lên từ sau bức màn bà Chánh cung và tắt ngay.
Lê Hữu Trác hỏi:
Vậy có vận may nào để phục hồi được nguyên khí của Đông cung không? – Vì ông không thể nghĩ rằng một căn bệnh nảy sinh từ sự mất cân bằng năng lượng sống của cơ quan nội tạng lại có thể chữa lành bằng phương pháp với chiếc dụng sắc nhọn như thế này.
Khi đã nghe dịch xong câu hỏi của mình, vị y sư rất chăm chú lắng nghe câu trả lời của nhà giải phẫu.
Nhưng ông cũng không thể phủ nhận rằng những trường hợp bị thương tổn nặng nề thì việc chữa chạy không thể làm cho lành hẳn vì nhiều di chứng dai dẳng do rối loạn tiêu hóa, do sự bế tắc kinh niên hoặc còn do sự tái phát nữa.
Cúi xuống quan Chánh đường, Chúa thượng nói:
Tóm lại, tất cả khoa học giỏi giang của phương Tây chung quy lại chỉ là việc chọc thủng bụng để làm xẹp đi mà không có sự bảo đảm nào khác.
Lúc này, qua bức màn lụa, Chúa thượng nhìn thấy khuôn mặt của bà Chánh cung. Nước mắt chảy rõng trên má, bà lắc đầu ra hiệu: không, rồi lại lắc đầu: không, dứt khoát không. Đức bà thánh mẫu ngày thường thì lạnh nhạt khủng khiếp lúc này cũng đang nhìn bà Chánh cung, nét tôn kính có vợi đi trong niềm trắc ẩn khác thường…
Chúa thượng xúc động, tập trung nhìn vào quan Chánh đường, ông này thấy thế liền quay đi, Chúa đang đợi ở ông một ý kiến sáng suốt.
Quan Chánh đường thưa:
Tâu Chúa thượng, bằng mọi giá phải cứu cho được Đông cung Thế tử.
Và trong lúc này, thầy thuốc Nguyễn Quý nổi tiếng về khoa tim đặt ngay ra một câu hỏi mà từ nãy đến giờ không một ai dám nêu ra:
Việc chọc thủng vùng bụng để tìm và hút ra chất nhờn có mủ có quá đau không, liệu Thế tử có thể chịu nổi không?
Quan thông ngôn dịch rất trôi chảy câu hỏi mà chính ông ta cũng tự đặt ra cho mình.
Nhà phẫu thuật Pháp nói:
Xin đừng nghĩ rằng chúng tôi vô cảm. Nhiệm vụ của chúng tôi là làm cho người bệnh bớt đau đớn chứ không phải hành hạ họ. Vì chúng tôi chưa có phương pháp nào hữu hiệu làm dịu đi hoặc làm cho người bệnh mất cảm giác. Tôi sẽ nói dối nếu khẳng định sự mổ xẻ này là không đau đớn nhưng điều đó còn phụ thuốc vào bàn tay chuyên môn nữa. Nó sẽ làm cho Đông cung có cảm giác đón nhận một lưỡi giáo đâm vào sườn. nhưng thật ra không có cách nào khác, một sự đau đớn tạm thời hay là cái chết.
Quan thông ngôn vẫn dịch lại với sự ghê sợ. Ông cảm thấy mình bị giám sát bởi ông linh mục kiêm thầy thuốc quỷ quái này biết rất rõ tiếng ta. Rất khó cho ông làm dịu tình hình.
Ông ngừng lặp lại lời cầu xin "Cúi xin Chúa thượng rủ lòng tha tội cho bề tôi hèn mọn này!"
Một tiếng nức nở lọt ra từ sau bức màn của bà Chánh cung bị ghìm lại trong khi tiếng trống điểm canh năm vang dội từ xa lên màn đêm buồn thảm.
Ông linh mục kiêm thầy thuốc nói rất nhiệt tình:
Những ai đau khổ đều rất gần với Chúa và nằm trong sự cầu nguyện của chúng tôi.
Bất thình lình, những lời nói của Chúa thượng với người thầy thuốc riêng của Đông cung như được phán ra từ khoảng trời rộng mở.
Tôn sư Lê Hữu Trác, nghề nghiệp cao quý làm cho cụ quên mình vì lợi ích của những người bệnh. Ý kiến của cụ lúc này như thế nào, cụ cứ nói thật đi, đừng quanh co gì!
Quan thông ngôn sung sướng không gặp khó khăn nào liền vội vàng gần như vui vẻ dịch sang tiếng Pháp lời nói của Chúa.
Giữa tất cả những gì đã nói và được dịch từ bên này hoặc bên kia, vị y sư đã có thời gian suy xét một thực tế về y học sang một thực tế mang màu sắc chính trị. Điều này đem lại cho ông nỗi thất vọng sâu xa và lo lắng trước cách điều trị thô bạo. Lúc này ông đã hiểu và nhận thức được mức độ người ta lợi dụng sự dễ tính ngây thơ và nhất là nhiệt tâm của ông! Mở đầu là ông bạn thầy thuốc Trung Hoa, trước lúc biến mất đã ma quái quyến rũ ông và kết thúc là cô hầu Lan rất đỗi ngây thơ và khéo léo, chỉ mong tìm ra một cách nào đấy để cứu ông. Ông tiếc là đã không làm theo lời căn ngăn của các môn đệ tuy rất trẻ nhưng lại vô cùng chín chắn. Ngọn nguồn của tai hoạ này cuối cùng phải truy cứu đến Quận Huy – quan Chánh đường, đến cả Trịnh Khải nữa. Người này lẫn người kia đều có một sự tính toán giống nhau, trút lên ông mọi trách nhiệm và cùng một mục đích, thâu tóm quyền lực. quyền lực gắn người này vào sự sống, vào người kia là cái chết của Thế tử. Từ cái ngày trên đường ra Thăng Long, các quan hộ tống nối đuôi nhau, người đầu tiên để cản trở ông không đến được kinh đô và người thứ hai để dẫn ông tới đó. Ông cảm thấy như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài.
Khi Chúa thượng nói mấy lời như trên thì ông kết luận vấn đề còn lại là phải quay về với tính thực tế y học và từ nay phải bám lấy nó.
Khi thần được vời đến thì Đông cung Thế tử đã dùng quá nhiều vị thuốc đắng và hàn làm thương tổn các nguyên khí âm dương. Tất cả cho thấy rõ một thể trạng quá nguy khốn. vậy phải củng cố và bồi dường hành thể cho lá lách, giảm bớt hành hoả quá mạnh của dạ dày và thử phục hồi lại năng lượng tiên thiên, như thể cho phép hơi thở nguyên lai được hồi phục và đẩy lùi bệnh đến mức tuy không trực tiếp bị công phá mà tự nó biến mất. Cách điều trị đó có kết quả phần nào như nhà phẫu thuật Pháp đã công nhận. Tuy nhiên thể trạng của Đông cung vẫn dẫm chân tại chỗ và không đi đến lành hẳn được.
Đến đây ông quan thông ngôn kính cẩn xin được phép dịch ra để nhà phẫu thuật Pháp hiểu được.
Lời yêu cầu đó được chấp nhận.
Lê Hữu Trác tiếp tục:
Tâu Chúa thượng, toàn bộ kỹ năng chữa bệnh của thần là làm tăng thêm sức mạnh để phân tán hoặc điều hoà sự tuần hoàn của sinh khí phù hợp với nhịp điệu của vũ trụ đến những cơ quan nội tạng bị bệnh. Nhưng xem ra cách chữa bệnh ở đây hoàn toàn khác xa với cách điều trị của thần là chẳng cần đến phương pháp điều trị không chảy máu ngay cả khi muốn cứu sống một em bé trong bụng mẹ vừa mới tắt thở.
Quan thông ngôn chưa dịch xong thì ông phẫu thuật gia Hyacinthe de La Richardiere biểu thị ngay sự sửng sốt là có thể tồn tại một phương pháp điều trị không chảy máu. Ông này nói:
Vậy ông giải quyêt như thế nào với những trường hợp như cưa chân, khoan xương, sỏi bàng quan và đục thuỷ tinh thể?
Đôi mắt quan thông ngôn hiện lên vẻ hoảng hốt mà lúc này ông linh mục kiêm thầy thuốc đang đỡ lời.
Lê Hữu Trác nói:
chúng tôi đã biết về những kết quả đạt được qua sự phẫu thuật của các ông ở xứ đàng Trong, đặc biệt là việc mổ rò hậu môn mà người thầy thuốc tên Duff đã thành công. Nếu một số trường hợp ngoại khoa nào đó đã dùng đến phương pháp mổ xẻ có thể được chấp nhận thì tôi xem như không thích hợp trong trường hợp này của Thế tử.
Quan thông ngôn dịch thông suốt câu này kèm theo chút hứng thú.
Đằng sau các bức màn các Đức bà Đại tôn kính đều bất động như bầy chuột dưới đáy hang.
Quan Chánh đường hỏi với giọng nửa vời:
Vậy tại sao nó lại không thích hợp, thưa y sư Lê Hữu Trác?
Bẩm Cụ lớn, qua thời gian là thầy thuốc riêng của Đông cung, ngày lại ngày qua được lắng nghe tấm thân ngọc cao quý, tôi biết rõ tình trạng sức khoẻ của Thế tử. Tôi vẫn hy vọng một giải pháp trung gian không lấy gì nặng nề và nhanh chóng hơn có thể bổ cứu thêm cho sự hoạt động của tự nhiên. Tôi biết các phương pháp điều trị làm chảy máu đó không bảo đảm kết quả cho sự lành bệnh và có nguy cơ làm rối loạn hẳn cách điều trị được áp dụng từ trước đến nay.
Chúa Trịnh tán thưởng và ra lệnh:
Dịch ngay!
Vừa nghe quan thông ngôn dịch, nhà phẫu thuật Pháp vừa hờ hững nghịch chiếc ống chọc của mình. Nghe xong ông ta liền độp lại ngay:
Nếu việc can thiệp không bảo đảm lành bệnh thì chỉ còn một giải pháp duy nhất có thể cứu được Đông cung.
Lê Hữu Trác nói:
Thưa nhà phẫu thuật, vậy là ông muốn bắt y học phải chạy theo các dụng cụ của ông!
Những tiếng xì xào lan ra trong những người có mặt mà về sau nhà phẫu thuật mới hiểu ra.
Vị y sư tiếp tục:
Vậy ông sẽ giải quyết như thế nào với người bệnh? Tôi muốn nói khả năng chịu đựng sự đau đớn trong cuộc mổ xẻ này và cả ý chí muốn được chữa lành của bệnh nhân?
Sau khi đã hiểu ra, nhà phẫu thuật kêu to:
Ý chí của người bệnh ở đây có tác dụng gì? Bên Pháp, đất nước chúng tôi, chỉ một mình người thầy thuốc quyết định…về những gì cần phải làm. Những công trình nghiên cứu y học lâu năm của chúng tôi đã cho chúng tôi khả năng đó. Xin ông dịch đi!
Ông linh mục kiêm thầy thuốc nãy giờ không ngừng theo dõi Lê Hữu Trác trong cuộc tranh luận, nói với vị y sư bằng tiếng bản xứ:
Nếu ông nói về ý chí được lành bệnh thì việc cần chữa trị là linh hồn hơn thể xác của người bệnh.
Nói về ý chí chữa bệnh tôi ngầm hiểu là người bệnh phải tham gia vào việc điều trị của họ và cùng với việc điều trị đó bằng nghị lực của chính mình. Với trường hợp của Đông cung, chúng ta gặp phải một bệnh nhân có sự nhạy cảm và trí thông minh xuất chúng so với tuổi đời còn quá trẻ - Nhìn về phía Chúa Trịnh, vị y sư nói – Điều mà thần lo sợ nay thần mới dám nói ra vì Chúa thượng đã yêu cầu thần đừng ngại nói thẳng, đó là ý kiến chọc vào bụng của Thế tử. Ngoài sự chịu đựng về thể xác, điều đó còn tác hại đến sự thống nhất của bản mệnh Thế tử trong sự hài hoà với vũ trụ. Và như vậy, Đông cung sẽ mất thêm chút năng lượng nguyên thuỷ còn lại.
Lời dịch của quan thông ngôn làm cho nhà phẫu thuật choáng váng, ông linh mục kiêm thầy thuốc liền phản ứng ngay với Lê Hữu Trác:
Như vậy phù hợp hơn cả là nên chuẩn bị cho linh hồn hay bản mệnh của Đông cung muốn được chữa trị dù là có mổ xẻ hay không? (Ở đây, ông ta không ngại ngùng buông ra từ vô vi của đạo Lão), có thể chúng ta sẽ cùng nhau xét đến việc thực thi giải pháp này mà ông hy vọng.
Nói với Lê Hữu Trác xong, sau đó bằng tiếng Pháp ông nói với ông bạn đồng nghiệp de La Richardiere đang bực tức đóng lại hộp dụng cụ:
Đừng nên xử sự thô bạo dẫn tới điều trái ngược với những gì họ tin và họ nghĩ. Ở đây, chúng ta không phải ở phương Tây, chúng ta phải mượn những con đường tắt để đạt được mục tiêu. Còn ông thầy thuốc này là một con người ta cần coi trọng. Về vấn đề cậu Thế tử nhỏ tuổi, đừng quên câu hỏi quan trọng nếu muốn tránh những hậu quả xấu nhất, nếu cậu ta không chịu đựng nổi trong cuộc phẫu thuật thì sao?
Nhà phẫu thuật giận dữ kết luận:
Tốt hơn cả là cứ để cho họ lần mò trong mê cung truyền thống ngàn đời của họ. Chỉ có cách đó thôi!
Chúa Trịnh và các bà Đại tôn kính đều rút lui mà không đi tới một quyết định nào. Quan Chánh đường cũng cho giải tán luôn đám cử toạ.
Chiếc cáng đưa hai thầy thuốc nước ngoài đến điếm Hậu mã quân, ở đây họ được mời một bữa ăn nhẹ theo mệnh lệnh đặc biệt của Chúa. Còn vị y sư trở về nhà nghỉ ngơi trước khi lại bắt tay vào việc phục vụ ở Đông cung viện.
Hôm sau là ngày mười bốn tháng chín.
3.
ngày mười bốn ấy, như một tiếng sấm giữa trời quang, tin tức lọt ra từ phủ Chúa Trịnh loan truyền khắp kinh đô: Chúa thượng bị bệnh vô cùng nguy kịch. Bao nhiêu tin đồn – thật hay giả - bay khắp kinh thành, lúc ban đầu không mấy ai quan tâm. Những người có mặt trong đám cử toạ lại càng ít tin hơn vì đêm qua họ đều thấy rõ bề ngoài sức khoẻ Chúa thượng vẫn tốt. Mọi người đều biết cụ Lê Hữu Trác đã quyết tâm đến cùng trong việc chữa khỏi bệnh kinh niên cho Chúa với bài "Long thang" nổi tiếng.
trong buổi sáng sớm, Lê Hữu Trác được triệu tập hoả tốc đến phủ chúa, ông gặp các môn đệ chạy tới hỏi tin này mà chẳng trao đổi được một lời về cuộc đối đầu tuyệt vời đêm qua với các thầy thuốc phương Tây.
Cô Lan nói với họ, đôi mắt dõi theo chiếc cáng chạy ra xa nhanh lắm:
Vừa mới thấy ông chủ về lại thấy đi ngay! Và Soạn, cậu chạy đi đâu gấp vậy?
Tống Thuần, Anh cả, nói:
Chắc là đến Trại Voi rồi! Chú em ơi, hãy chờ ta một lát, nếu chú đến thăm cô Kim, anh sẽ dẫn chú đi để nói chuyện với cha nó. Do những tin đang được đồn đại, hơn bao giờ hết, chúng ta phải hết sức cảnh giác. Sẽ rất có lợi nếu có vài người trong số các bạn cùng đi đến thăm vị Quận hầu.
Nhiều môn đệ khác tán thành.
Sứ Hoa kiều nói:
Anh cả ơi! Phải vô cùng cẩn thận.
Thế rồi sau khi hẹn gặp lại nhau tai nhà thầy vào giờ dậu, mỗi người lại chạy đi lo việc mình, số này đi điều tra, số khác đi thăm người bệnh.
Với vẻ vô cùng lo lắng và hoài nghi, khi vừa ra khỏi gian phòng lớn nhà Chúa, quan Chánh đường nói:
Thưa cụ, cụ nghĩ thế nào? Theo ý cụ, có lạ lùng không chứ?
Quả thật không có dấu hiệu nào báo trước cơn bệnh này. Chứng suy sụp đột ngột của Chúa thượng rất nặng. Mạch đập dồn dập rồi bỗng nhiên chậm hẳn lại và lờ đờ đã tác hại đến nguyên khí của Ngài.
Thế cụ định làm thế nào?
Phải cố gắng cứu chữa cho được hơi thở của con tì. Nhưng Cụ Lớn đã thấy rõ "Vị khí đã bại, trăm thuốc khó chữa", các nhà kinh điển đã nói vậy rồi.
Quan Chánh đường lấy làm tiếc và vô cùng lo lắng:
Thế mà Chúa thượng chưa có một quyết định nào về việc lập Đông cung! Xin cụ kê đơn gấp, xin bốc cho một số thang thuốc để từ đó chúng tôi có thời gian đi đến một số quyết định quan trọng nhất. xin đừng giao việc