Phần 1: Holston
Dành cho những ai dám hy vọng
❖ ❖ ❖
LŨ TRẺ ĐANG NÔ ĐÙA trong lúc Holston leo lên chỗ chết; anh nghe thấy chúng chí chóe theo kiểu đặc trưng mà chỉ riêng bọn trẻ con hân hoan mới có. Trong lúc chúng chạy loạn rầm rầm trên đầu, Holston kề cà leo vòng quanh cây cầu thang xoắn, bước nào bước nấy tính toán và trầm ngâm, đôi giày cũ rền vang trên các nấc thang kim loại.
Cũng giống như đôi giày của bố anh, các nấc thang lộ rõ vẻ hao mòn. Nước sơn chỉ còn bám lại thành từng mẩu con con, chủ yếu ở trong các góc và mặt dưới, chỗ náu an toàn của chúng. Những bước chân người khác qua lại ở đâu khác trong lồng cầu thang khiến bụi rung rinh rơi xuống từng bụm nhỏ. Holston cảm nhận được các rung động ở lan can, bấy giờ đã bị bào mòn dưới tay người, còn trơ mỗi lớp kim loại sáng loáng. Điều ấy luôn khiến cho anh ngạc nhiên: sau bao thế kỷ mài dưới tay trần và chân đưa, ngay cả thép cứng cũng chẳng trụ nổi. Chắc mài từng phân tử một. Có thể mỗi kiếp đời mài đi một lớp, trong khi tháp giống đang mài mòn chính kiếp đời ấy.
Mỗi bậc thang đều hơi võng xuống sau bao thế hệ qua lại, các mép bị bào tù đi như một bờ môi phụng phịu. Ở chính giữa, gần như chẳng còn thấy đâu vết tích những hình quả trám nhỏ một thời giúp tăng ma sát cho các nấc thang. Ta chỉ có thể nhận ra được chúng đã mất nhờ các hoa văn trên mặt thang ở hai bên, các mấu kim tự tháp nhỏ gỏ lên trên mặt thép phẳng, cạnh sắc nhọn, còn dính các vết sơn.
Holston nhấc một bên giày cũ, đặt lên một bậc thang cổ, nhấn xuống, và lặp lại từ đầu. Anh đắm chìm suy nghĩ về hệ quả thời gian để lại sau bao năm không đếm xiết, về sự bào mòn các phân tử và mạng người, hàng hàng lớp lớp bị nghiền thành bụi. Và không phải lần đầu tiên, anh nghĩ rằng cả con người lẫn cây cầu thang đều không được sinh ra để sống một kiếp như thế. Người ta không định xây lên lồng cầu thang xoắn chật hẹp dài dằng dặc, xuyên qua tháp giống vùi dưới lòng đất như một ống hút cắm trong cốc này, để chịu đựng mức độ ngược đãi như vậy. Giống như hầu hết các bộ phận khác dưới mái nhà hình trụ của họ, nó dường như được xây dựng lên nhằm phục vụ cho mục đích nào đó khác, cho các chức năng đã bị lãng quên từ lâu. Cầu thang này hiện đang được hàng ngàn người sử dụng như một tuyến đường chính, hết lên rồi xuống theo những chu kỳ lặp đi lặp lại hằng ngày, nhưng như Holston thấy, đây đúng lý ra chỉ nên sử dụng làm lối thoát hiểm, và có lẽ chỉ cho một nhúm vài chục người thôi.
Thêm một tầng khác ở lại sau anh - một khu nhà ở hình rẻ quạt. Trong lúc Holston lên nốt mấy tầng cuối, thực hiện chuyến leo thang cuối cùng của đời mình, tiếng vui đùa ngây thơ từ bên trên vọng xuống càng ồn ã hơn. Đây là tiếng cười của tuổi trẻ, của những tâm hồn chưa thấm thía được mình đang sống ở đâu, chưa cảm nhận được sức ép của đất dồn đè vào từ mọi phía, của những sinh linh hoàn toàn không nghĩ rằng mình đã bị chôn vùi, mà tưởng mình đang sống . Đang sống và chưa bị bào mòn, cứ thế rót những âm thanh hạnh phúc xuống cầu thang, những âm điệu réo rắt trái ngược hẳn với các hành động của Holston, với quyết định và quyết tâm muốn ra ngoài của anh.
Khi anh lên đến gần tầng trên, một giọng trẻ măng trỗi vượt lên trên những giọng khác, và Holston nhớ lại cuộc đời trong tháp giống hồi còn nhỏ của mình - nhớ lại những tháng ngày đi học và các trò chơi. Hồi đó, cái ống trụ bê tông ngột ngạt với biết bao tầng chứa những căn hộ, phân xưởng, vườn thủy canh và phòng thanh tẩy rặt những mớ đường ống này, chẳng khác nào một vũ trụ mênh mông, một miền đất rộng mà ta không đời nào có thể khám phá được hết, một mê cung đủ sức khiến anh và bạn bè mình lạc lối vĩnh viễn.
Nhưng những ngày ấy cách đây đã hơn ba mươi năm rồi. Tuổi thơ của Holston giờ cứ như xa cách tận hai hay ba kiếp trước, được một người khác tận hưởng. Chứ không phải anh. Cả một kiếp đời cảnh sát trưởng nặng đè lên anh, che khuất quá khứ ấy đi. Và gần đây hơn là giai đoạn thứ ba của đời anh - một cuộc đời bí mật không liên quan gì đến kiếp đời tuổi thơ và đời làm cảnh sát trưởng. Nó là những lớp cuối cùng của anh bị nghiền nát thành cát bụi; ba năm lặng lẽ đợi một chuyện sẽ không đời nào xảy ra, mỗi ngày còn dài hơn bất kỳ tháng nào trong các kiếp đời hạnh phúc hơn xưa kia.
Lên đến đầu cầu thang xoắn, bàn tay Holston không còn lan can mà bám nữa. Thanh thép cong mòn bóng kết thúc ngay nơi cầu thang dẫn vào trong những căn phòng rộng nhất của toàn bộ tháp giống: nhà ăn và phòng giải trí liền kề. Giờ thì những tiếng kêu nô giỡn đã đến từ cùng tầng với anh. Những hình hài tươi sáng chạy dích dắc giữa đống ghế rải rác, chơi trò rượt đuổi. Một nhóm người lớn cố gắng kiểm soát cảnh hỗn loạn. Holston thấy Donna nhặt những viên phấn và cây sáp màu nằm vạ vật trên những ô gạch lấm bẩn. Anh chồng Clarke của cô ngồi sau một cái bàn chất đầy tách nước trái cây và bát đựng bánh quy ngô. Anh ta vẫy tay chào Holston từ phía bên kia phòng.
Holston không buồn vẫy tay đáp vì chẳng còn năng lượng mà cũng không ham gì. Anh nhìn qua chỗ đám người lớn và lũ trẻ con đang nô đùa, dõi mắt nhìn khung cảnh nhòe nhòe chiếu trên tường nhà ăn đằng xa. Đó là mảng cảnh liền mạch lớn nhất họ nhìn thấy về thế giới khắc nghiệt của mình. Một khung cảnh buổi sáng. Ánh hoàng hôn tù mù phủ lên những quả đồi trơ trọi chẳng thay đổi mấy kể từ hồi Holston còn nhỏ. Những quả đồi ngồi đó, vẫn như mọi khi, trong khi anh thì đã chuyển từ chơi đuổi bắt giữa các bàn ăn sang một cái xác vô hồn như hiện tại. Và phía đằng sau các đỉnh đồi nhấp nhô uy nghi, phần chóp một đường chân trời quen thuộc và tàn tạ đang yếu ớt bắt sáng lập lòe. Những khối kính và thép cổ vươn mình đằng xa, nơi theo lời đồn thì người ta từng một thời sống trên mặt đất.
Một đứa trẻ chạy vọt ra khỏi nhóm như một ngôi sao chổi, đâm vào đầu gối Holston. Anh nhìn xuống và rục rịch định chạm vào thằng bé - đây là thằng cu nhà Susan - nhưng cũng thoắt cái như sao chổi, đứa bé lại biến mất, bị kéo tọt vào trong quỹ đạo của những đứa khác.
Holston tự nhiên nghĩ tới lần anh và Allison trúng số vào năm cô chết. Anh vẫn còn giữ tấm vé; anh mang nó theo mình đi khắp mọi nơi. Đáng lẽ ra một trong những đứa trẻ kia đã có thể là con họ. Có khi nó giờ đã hai tuổi rồi và đang lũn cũn bám theo mấy đứa lớn hơn. Giống như mọi bậc phụ huynh khác, họ từng mơ sẽ may mắn được sinh đôi. Tất nhiên họ đã rất nỗ lực. Sau khi thiết bị cấy vào người cô được gỡ bỏ, họ đã dành bao đêm tuyệt diệu cố gắng sử dụng tấm vé kia, trong khi các ông bố bà mẹ khác thì chúc họ may mắn, còn những người cũng đang trông mong trúng đợt quay số lặng lẽ cầu nguyện cho cái năm trống rỗng này chóng qua.
Vì biết mình chỉ có một năm, anh và Allison đã trở nên mê tín, thứ gì cũng cậy nhờ đến hết. Họ thử treo tỏi trên đầu giường vì đồn rằng làm vậy sẽ tăng khả năng thụ thai, nhét hai đồng xu dưới đệm để có con sinh đôi, buộc chiếc nơ hồng trên tóc Allison, quệt thuốc nhuộm xanh dưới mắt Holston... tất cả đều ngớ ngẩn và tuyệt vọng, và vui nhộn. Điều duy nhất có thể điên rồ hơn là không đem mọi thứ ra thử, là bỏ qua không kiểm nghiệm một lễ nghi hay lời đồn dớ dẩn nào đó.
Nhưng trời nào có run rủi. Từ trước khi kịp hết năm, cuộc quay số đã chuyển cơ hội sang cho một cặp đôi khác. Nguyên nhân không phải do họ lười thử; nguyên nhân là do thiếu thời gian. Do thình lình thiếu vợ .
Holston quay người khỏi lũ trẻ đùa chơi cùng khung cảnh nhòe nhoẹt và bước về phía văn phòng của mình, nằm giữa nhà ăn và chốt gió của tháp giống. Trên đường đi, tâm trí anh nghĩ về cuộc giằng co đã từng diễn ra ở đây, một cuộc giằng co giữa những hồn ma mà suốt ba năm nay anh ngày nào cũng phải bước qua. Và anh biết rằng nếu mình quay người lại soi xét khung cảnh mênh mông trên tường, nếu anh nheo mắt nhìn xuyên qua những ống kính máy quay mờ đục và các thứ bụi bẩn trong không khí khiến hình ảnh ngày càng nhòe nhoẹt, nếu lần theo đường lằn thẫm kia lên đỉnh đồi, cái nếp nhăn leo qua cồn cát bùn lầy tiến về phía thành phố nơi xa xăm, anh sẽ có thể nhìn thấy hình bóng lặng lẽ của cô. Có thể nhìn thấy vợ anh tại đó, trên quả đồi kia. Cô nằm như một tảng đá ngủ, bị không khí và chất độc bào mòn, hai tay cuộn dưới đầu.
Có thể là như vậy.
Nhìn ra đó rất khó, ngay cả từ hồi chưa bắt đầu nhòe lại thì cũng đã trông không rõ rồi. Vả lại, chẳng thể tin tưởng mấy vào khung cảnh được trình chiếu. Trên thực tế, có rất nhiều lý do để nghi ngờ. Thế nên Holston đơn thuần chọn cách không nhìn nữa. Anh bước qua nơi hồn ma của vợ anh từng giằng co, nơi ký ức tăm tối vĩnh viễn lưu lại khung cảnh cô bất thình lình nổi điên, và bước vào trong văn phòng.
“Ái chà, nhìn mà xem ai dậy sớm chưa này,” Marnes mỉm cười nói.
Phó cảnh sát trưởng đóng một ngăn kéo trên tủ hồ sơ, khiến một âm thanh vô hồn phát ra từ những khớp nối kim loại già cỗi. Ông nhấc cái ca bốc khói nghi ngút lên, rồi để ý thấy vẻ mặt nghiêm trọng của Holston. “Anh ổn chứ, sếp?”
Holston gật đầu. Anh chỉ vào giá treo chìa khóa đằng sau bàn. “Phòng giam,” anh nói.
Nụ cười của ông phó cảnh sát trở thành một cái nhíu mày bối rối. Ông đặt ca xuống và quay lại lấy chìa khóa. Trong lúc ông quay lưng về phía mình, Holston xoa miếng thép sắc bén, mát lạnh trong lòng bàn tay nốt lần cuối, sau đó đặt ngôi sao cảnh sát trưởng lên bàn. Marnes quay người lại đưa chìa khóa ra. Holston nhận lấy.
“Anh cần tôi lấy cây lau nhà không?” Marnes ngoắc ngón cái về phía nhà ăn. Trừ phi có kẻ bị nhốt, họ chỉ vào phòng giam khi cần lau dọn.
“Không,” Holston nói. Anh hất đầu về phía phòng giam, ra hiệu cho ông phó đi theo.
Ông quay người. Cái ghế đằng sau bàn kêu kẽo kẹt khi Marnes đứng lên đi cùng anh, và Holston hoàn thành nốt chuyến đi của mình. Chìa khóa dễ dàng cắm vào. Các bộ phận bên trong cửa được thiết kế và bảo dưỡng tử tế phát ra một tiếng tách đanh gọn. Bản lề chỉ két rất khẽ, bàn chân kiên định đưa một bước, tay thúc một cú và cửa đóng keng một tiếng, và cuộc hành hạ đã kết thúc.
“Sếp ơi?”
Holston giơ chìa khóa qua chấn song. Marnes nhìn xuống, lưỡng lự, nhưng lòng bàn tay đã đưa lên nhận lấy.
“Có chuyện gì vậy, sếp?”
“Gọi thị trưởng đến đây,” Holston nói. Anh trút một hơi thờ dài nặng nề nín trong lồng ngực đã ba năm nay. “Bảo với bà ấy rằng tôi muốn ra ngoài.”