← Quay lại trang sách

Chương 2 - 3 Vùng Rạch Giá đất rộng người thưa

Rạch Giá là hậu bối khá rộng của bờ biển vịnh Xiêm La. Bờ biển từ Rạch Giá (vàm sông Cái Lớn) ăn về phía Nam là khu rừng sác với cây mắm, cây giá, cây cóc, loại cây tạp không đem huê lợi gì đáng kể, trừ huê lợi sáp và mật ong, hoặc cua, ba khía sống nhun nhúc trong bãi bùn (khu vực của cây đước chỉ ở về phía cực Nam tận mũi Cà Mau). Hậu bối tức là sau lưng, giáp vào rừng sác. Có thể nói đất Rạch Giá là rừng tràm minh mông, nhiều phèn và thấp; xa bờ biển hàng đôi chục cây số ngàn vẫn còn là rừng tràm cầm thủy (trầm thủy). Nổi danh nhứt là U Minh Thượng và U Minh Hạ. U Minh Thượng là rừng chồi, có từng lõm “đất cháy” (than bùn) nằm bên tả ngạn sông Cái Lớn. U Minh Hạ là rừng tràm tốt và mọc dày, dọc ven biển chạy dài tới Cà Mau. Đất Rạch Giá khi người Pháp đến hãy còn nhiều cọp, khỉ, sấu, heo rừng, huê lợi chánh vẫn là mật và sáp (nhờ bông cây tràm, cây giá). Ngoài ra còn cây tràm (làm củi, cột nhà), lá dừa nước (để lợp nhà), cá đồng và cá biển. Đáng chú ý là voi thường tới lui cánh đồng nối liền với Cần Thơ mà ăn lau sậy.

Hai con sông đáng kể là Cái Bé và Cái Lớn từ đất thấp phía Đông chảy ra vịnh Xiêm La, hiệp lại ở một vàm khá rộng. Hai con sông này chia ra nhiều nhánh nhóc. Ngọn sông Cái Bé ăn qua rạch Cần Thơ, về bờ Hậu giang. Sông Cái Lớn ăn xuống Ba Xuyên, thuộc Sóc Trăng hoặc xuống phía chợ Cà Mau nhưng là những đường liên lạc nhỏ bé, vào mùa nắng có nhiều chặng cạn và hẹp, đầy cỏ. Dân ở vùng Rạch Giá, trước khi đào kinh xáng, phần lớn sống nhờ nước mưa, trừ trường hợp chợ Rạch Giá hứng nước ngọt từ kinh Thoại Hà (đào từ cuối đời Gia Long) nối qua Hậu giang. Giếng có thể đào trên mấy giồng cao ráo, chắc thịt bên bờ sông. Vùng ven biển vịnh Xiêm La định cư được là nhờ nước suối chở từ Hòn Tre. Bên bờ Cái Lớn, Cái Bé và các phụ lưu, rải rác nhiều giồng, nhiều gò, nơi người Miên đến lập từng sốc: những ốc đảo hoang vắng, chung quanh là rừng che kín chân trời. Muỗi mòng, rắn và vô số chim cò tha hồ nẩy nở.

Trước đời Gia Long, dân chúng đã chọn lựa vài gò cao lập được bảy xã theo sông Cái Bé và chợ Rạch Giá (tổng Kiên Định), bốn xã theo sông Cái Lớn (tổng Thanh Giang). Nhưng dân số người Miên và diện tích ruộng đất do họ canh tác từ xưa vẫn đáng kể tuy không có con số chánh thức. ít ra họ cũng dư khả năng tự túc về lúa gạo. ở Rạch Giá, người Miên đứng vào hàng đầu (Rạch Giá: 80.000 người, Trà Vinh: 80.000, Sóc Trăng: 50.000, Châu Đốc: 30.000, Bạch Liêu: 23.000).

Vĩnh Long mất, Hà Tiên lại mất, thực dân chiếm huyện Kiên Giang không tốn một phát đạn. Viên tham biện đầu tiên là Luro. Paulin Vial đến Rạch Giá thanh tra nhưng năm sau Nguyễn Trung Trực đánh một trận thần tình, giết gần trọn người Pháp vừa lính vừa viên chức ở tỉnh lỵ này (16/6/1868).

Dạo ấy, Rạch Giá là hải cảng tấp nập, tàu buồm Hải Nam tới mua bán luân lưu giữa khu vực Cao Miên (thương cảng Kampot), Xiêm (Vọng Các), Tân Gia Ba và Nam Dương. Nhà cửa san sát ở hai bờ rạch sát vàm biển. Thoạt tiên, hạt Rạch Giá bao gồm luôn trọn mũi Cà Mau, tức là huyện Kiên Giang và huyện Long Xuyên thời Tự Đức. Sông rạch nhỏ chằng chịt, tháng nắng dùng không được, chỉ thuận lợi cho ghe xuồng cỡ nhỏ. Nhiều con đường mòn dành riêng cho dân địa phương sử dụng ở nơi đi bộ không được đi xuồng không xong; đó là đường cộ, dùng cộ có trâu kéo (không bánh xe, kiểu cộ trượt tuyết ở Bắc Ñu). Mãi đến năm 1879, vùng Rạch Giá còn trong vòng thám hiểm của thực dân, bản đồ chưa được chính xác, nhiều con rạch dân chúng sử dụng được nhưng chưa ghi, lại còn vị trí nhiều xóm nhỏ ẩn lánh ở ngọn rạch của bọn người đốn củi lậu thuế hoặc ăn ong (lấy sáp và mật). Bọn thợ rừng sử dụng những con đường quanh co để chở củi lậu thuế. Việc cai trị ở thôn quê xa tỉnh lỵ chưa thành nền nếp. Theo báo cáo của tham biện thì năm 1879, tỉnh này tuyệt nhiên chưa có địa bộ, tất cả đất trong tỉnh đều được xem như là công điền. Hương chức làng kê khai diện tích tổng quát, chịu thuế rồi gán ép lại cho dân. Vài người tự nhận là chủ của phần đất đang canh tác, vì chính họ khai phá hoặc do cha mẹ để lại. Trường hợp làng Vĩnh Lộc (vùng Ngan Dừa, còn gọi là Ngan Gừa): hương chức làng chịu thuế điền là 406 quan để rồi bắt buộc dân gồm đa số là Cao Miên phải đóng gấp đôi gấp ba. Hương chức cứ ở không mà hưởng, đến độ dân địa phương phẫn nộ, đòi tản cư luôn qua Sóc Trăng nếu họ không được phép lập một làng riêng.

Đầu năm 1880, tham biện chủ tỉnh làm tờ trình về tình hình thuế khóa và dự án thâu như sau (Rạch Giá và Cà Mau):

— Thuế điền ănm 1879: 11.068 quan, tính trên tổng số đất ruộng và rẫy là 2.847 mẫu.

Dân đinh gồm người Việt và Cao Miên: 2744 người (2.010 Việt và 734 Miên).

Mấy giồng chung quanh chợ Rạch Giá trồng xoài, vì lâu năm nên hóa xoài rừng. Người Huê kiều và người Minh Hương làm rẫy rau cải, đất ngoại ô cũng như tại chợ đều không có bộ sổ chi cả.

Thuế kiểm lâm thất thâu, dân chúng lén đốn cây tràm trong rừng rồi theo đường quanh nẻo tắt mà chở qua Sóc Trăng thay vì đi ngang qua trạm kiểm soát.

Nguồn lợi lớn nhứt của ngân sách vẫn là thuế phong ngạn (đấu giá từng lô rừng cho dân khai thác sáp, mật): năm 1879 đã thâu: 29.546 quan (trong khi thuế điền chỉ có 11.068 quan).

Nguồn lợi thứ yếu là đấu thầu sân chim: năm 1879 đã thâu: 25.000 quan.

Tóm lại, năm 1880, Rạch Giá không được chánh phủ Nam kỳ chú ý nhiều. Riêng về sân chim thì các viên tỉnh trưởng xem như là “kỳ quan”. Tuy nhiên, những nguồn lợi sáp mập cùng là sân chim giảm bớt trong những năm sau, dân phá rừng lần hồi để bán cây. Cây tràm tuy không là danh mộc nhưng làm cột nhà rất tốt, bán qua các tỉnh lân cận. Sân chim mỗi lần khai thác là giết cả trăm ngàn con vừa lớn vừa nhỏ để lấy lông kết quạt.

Trong khi ấy ở một tỉnh xưa như tỉnh Sa Đéc (tức huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang đời Tự Đức, thuộc trấn Vĩnh Thanh đời Gia Long) dân số và bộ điền đã khá rành mạch:

Chúng ta thử so sánh tạm.

Diện tích ruộng vườn và rẫy, trong bộ sổ của Pháp mới lập:

Rạch Giá 2.2847 mẫu

Sa Đéc 53.386

Dân đinh ở Rạch Giá, Cà Mau 2.744 người

Sa Đéc 128.902 người

Vì là tỉnh xưa, ở Sa Đéc nhiều vùng đông đúc, mật độ cao đến 241 người mỗi cây số vuông, đất bị cắt manh mún theo chế độ tiểu điền chủ, những sở đất dưới 5 mẫu chiếm 4/10 của tổng số đất khai thác. Và 6/10 của đất khai thác là đất thổ cư và vườn tược.

Sáu năm sau, năm 1886, tình hình tỉnh Rạch Giá bắt đầu khả quan hơn. Báo cáo của tham biện ngày 8/8/1886 nêu vài chi tiết:

— Trong 7 người dân, tỷ lệ là 4 người Cao Miên, 3 người Việt.

— Biến cố ở Kinh thành Huế (vụ Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi 1885) chẳng gây xúc động gì rõ rệt trong dân gian;

— Đường bộ quá ít, dân chúng ao ước đường thủy phát triển thêm. Mọi việc xê dịch đều dùng đường thủy.

— Dân ra chợ mua bán thường dùng đường biển cho nhanh hơn. ở vùng Cái Lớn (Mũi Gảnh) nạn chìm ghe thường xảy ra.

— Năm 1883, đã bắt dân xâu đào con kinh, gọi là kinh Ông Hiển, để đi từ sông Cái Bé, từ rạch Tà Niên ra chợ mà khỏi vượt biển. Kinh này tiếp tục đào đến năm 1886. Đường liên lạc từ Rạch Giá đến Châu Đốc gần như không có, dân chúng dùng xuồng nhỏ, theo đường quanh len lỏi giữa rừng tràm.

— Đào xong con kinh từ Cạnh Đền ăn xuống Cà Mau (kinh Bạch Ngưu), dùng dân xâu làng Vĩnh Lộc.

— Con lộ chiến lược quan trọng nhứt trong tỉnh chạy từ chợ Rạch Giá vô Minh Lương (khoảng 15 cây số). Minh Lương làm xóm sung túc từ lâu đời, gồm đa số người Miên. Lộ này vạch sẵn hồi xưa, nay tu bổ lại để đem thơ từ, chạy ngựa.

— Trường học tại tỉnh lỵ lợp lá, ngưng dạy từ mấy năm qua đang bắt đầu hoạt động trở

— Năm 1885, trong toàn tỉnh có 6 trường tổng, trường ở Minh Lương không đem lại kết quả vì thiếu giáo viên.

— Dân bộ chịu thuế năm 1883 là 8.000 người, năm 1886 là 10.000 người. Kết quả này thâu được là nhờ lập bộ kỹ lưỡng hơn trước.

— Bộ điền năm 1883: 8000 mẫu; năm 1886: 10000 mẫu.

Đất ruộng khó kiểm soát vì dân làm ruộng không đều, hễ thất mùa thì họ dời chỗ. Nhiều vùng đất 3 năm mới có làm một mùa ruộng.

Tại chợ, từ 4 năm qua đã lập một lò gạch nhưng xấu về phẩm chất. Vì chưa cấp bằng khoán thổ cư nên chẳng ai dám xây nhà gói, sợ sau này bị đuổi.

— Việc mua bán xáo trộn vì giá tiền kẽm bị sụt. Tiền điếu (bằng đồng phiếu) lại khó xài, nhà nước phát ra khi dân lãnh ngân phiếu, nhưng dân đem tiền điếu đóng trở lại cho “công xi” khi mua á phiện và rượu.

Tóm lại, tỉnh Rạch Giá (gồm luôn Cà Mau) là miếng mồi khó nuốt so với các tỉnh miền Tiền giang như Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long hoặc Long Xuyên. Huê lợi, thuế khóa quá thấp kém. Các viên tham biện không rành về hành chánh, những bản phúc trình chánh thức gởi về cho Giám đốc Nội vụ về hình thức cũng như nội dung gần như là thơ riêng gởi cho bạn, viết tháu, báo cáo đại khái vài nét, nhận xét tùy hứng, không thứ tự.

Trong thực tế, muốn báo cáo kỹ lưỡng cũng không được vì tỉnh này vừa khi mới thành lập đã thiếu người hợp tác; các tỉnh Tiền giang dầu sao đi nữa cũng thừa một số người lịch lãm biết chữ nho hoặc chữ quốc ngữ, am hiểu địa phương. Sau cuộc đánh úp đồn chợ Rạch Giá vào năm 1868, người Pháp nghi kỵ tất cả người Việt vì đa số lính mã tà, đến viên quản mã tà cũng đều làm nội ứng. Thực dân không muốn xài người Việt ở Rạch Giá và nhân dịp tu chỉnh lại bộ máy cai trị, chúng cố ý dùng người Miên để trị người Việt, cổ xů chia rẽ. Vài người hữu công được nâng lên làm huyện, bấy giờ đóng vai phụ tá của tham biện để cai trị, đi điều tra miền quê. Đây là những người kém văn hóa, háo sát, ham danh vọng. Những người Miên hoặc Miên lai Tàu này đều lấy tên họ như người Việt:

— Phó quản mã tà người Miên tên là Cao Thiên gọi nôm na là phó quản Thiên làm phủ, lập công sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực bằng cách điềm chỉ, bắt giết. Năm 1873, nghỉ việc vì già (60 tuổi), Pháp cho chức phó quản là để tưởng lệ công lao, chẳng có năng lực chuyên môn gì cả.

— Huyện Xiêu được làm huyện sau khi Nguyễn Trung Trực rút khỏi Rạch Giá, kiêu hãnh tới mức dám tố cáo chuyện xấu của tham biện Rạch Giá lên quan trên. Tám tháng sau khi nhận chức thì bị Pháp cách chức.

— Huyện Trần Lương Xuân, cũng người Miên được tin cậy cho trấn nhậm vùng Minh Lương, khu vực đông dân và phì nhiêu. Tự xưng trong công văn “Kiên Giang huyện, Tri huyện Trần Lương Xuân”, được giữ một khẩu súng lục, 2 khẩu súng hai lòng, 1 khẩu súng 1 lòng, 4 cây giáo, 1 khẩu súng Le Faucheux.

lại.

— Trịnh Lục Y, người Miên, từng được cựu trào phong chức cai tổng, cư ngụ vùng áp lục (Rạch Tìa, Thủy Liễu) rồi theo Pháp. Sau thời gian làm cai tổng dài dẵng là 48 năm, thấm mệt xin nghỉ, được huy chương bạc hạng nhứt.

— Cai tổng Hà Mỹ Phiến (tên ngoài là Phến) người Tàu lai Miên làm vua một cõi ở tổng Kiên Hảo, chữ nghĩa kém, được sắm 4 cây mác thông cho bọn hộ vệ khi đi hầu quan vì đường sá còn rừng rậm (con và cháu đều làm cai tổng nối tiếp đến năm 1945).

— Cai tổng Trần Quang Huy (con của cai tổng Trần Quang Sô) cũng người Miên, làm phó tổng Kiên Hảo. Cai tổng Sô tận tụy với thực dân từ buổi đầu, bị nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực giết. Sau đó, Pháp ban chức phó tổng cho Huy là nghĩ tới công lao của cha. Ngày trước, Pháp cho tổng Sô hai cây súng, súng này giao lại cho Huy.

Người Việt Nam duy nhứt được Pháp tin cậy ban chức cai tổng là Nguyễn Văn Nguơn, coi tổng Kiên Định, ngụ ở Tân Hội, một làng đông dân khi Pháp đến và có công lớn là báo tin trước cho tên tham biện Rạch Giá về việc Nguyễn Trung Trực sắp tấn công nhưng tên tham biện không tin lời (vì oán xã Nguơn nên nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đã giết lây một số người công giáo ở Tân Hội, xóm của Nguơn cư ngụ). Cai tổng Nguơn làm chúa một vùng, được cấp cho 6 khẩu súng, đặc biệt là 1 khẩu thần công mà quân sĩ của Nguyễn Trung Trực bỏ rơi lại.

Với bọn cộng sự viên như thế, các tham biện ở giai đoạn đầu tỏ ra chán nản. Chung quanh chợ, ngoài vài xóm đông đúc là rừng rậm, họ không muốn đi thanh tra. Mãi đến năm 1901, viên bếp trạm (đi thơ từ công văn, ngạch bếp) còn kêu nài để xin được giữ cây súng vì vùng Ngan Dừa (làng Vĩnh Lộc) là nơi nguy hiểm, khó di chuyển, đi trát cho làng nọ làng kia thì đường đi rừng bụi vắng vẻ quá, “có nhiều lần tôi gặp cọp nó làm dữ với tôi, thì tôi cũng nhờ có cây súng tôi bắn nó chết, có khi nó ra phá xóm làng thì người ta tới kêu tôi cùng đi cứu giúp mà bắn cho đặng bình an trong xóm”.

Vì không thấy có huê lợi dồi dào về thuế má trong tương lai gần nên vào khoảng 1889, hạt Rạch Giá bị sáp nhập vào hạt Long Xuyên cho đỡ tốn kém về mặt bố trí cơ sở hành chánh cùng là lương bổng nhân viên. Rạch Giá lúc bấy giờ trên con dấu chánh thức là “Kiên Giang huyện” của tỉnh Long Xuyên, còn con dấu của tham biện Long Xuyên ghi “Arrondissement de Long Xuyên” chính giữa là “Long Xuyên, Rạch Giá”.

Nhưng đôi năm sau, Rạch Giá tách trở lại làm một tỉnh như trước, chánh phủ đang trù liệu kế hoạch khai thác quy mô vùng Hậu giang với ngân sách của chánh quốc cho mượn: đào kinh nối liền từ vịnh Xiêm La lên Sài Gòn.

Chỉnh đốn tỉnh lỵ Rạch Giá và các vùng phụ cận

Chợ Rạch Giá là cơ sở tốt với giồng cao ráo sát bờ biển, lại còn nhiều giồng đất phì nhiêu vùng phụ cận. Quy chế khẩn đất đặt ra rành mạch, các tỉnh miền Tiền giang không còn đất tốt vô chủ khiến nhiều người đổ xô về Rạch Giá là nơi dễ làm ăn, đặc biệt là dân từ Long Xuyên đến. Tháng 10/1895, chủ tỉnh báo cáo về Thống đốc Nam kỳ với ý kiến của Hội đồng địa hạt đưa nhiều đề nghị:

— Từ vài năm qua dân số gia tăng gấp đôi.

— Diện tích canh tác tăng hơn 10 lần.

— Đề nghị vét kinh Rạch Giá, Long Xuyên (Thoại Hà) để tàu Lục tỉnh từ Sài Gòn đến chợ Rạch Giá ít nhứt là 3 lần trong mỗi tuần như các tỉnh khác. Bấy lâu, Rạch Giá và Hà Tiên không có chuyến nào trong tuần (tức là khoảng 10 ngày mới có một chuyến).

— Bảo vệ bờ biển Rạch Giá đừng cho lở, bằng cách cẩn đá mà chận sóng biển. Đồng thời, xây một con đê bằng đá chạy ra ngoài biển để vào mùa hạn tàu bè có thể cất hàng hóa (nhưng không thực hiện được).

Bấy lâu đường giao thông từ Rạch Giá lên Sài Gòn khó khăn vì kinh Thoại Hà quá cạn, nhứt là vào mùa hạn. Hành khách từ Sài Gòn đến Rạch Giá dùng xe lửa Sài Gòn, Mỹ Tho, rồi đi tàu Lục tỉnh từ Mỹ Tho đến Long Xuyên. Từ Long Xuyên, dùng ghe mà chèo chống qua Rạch Giá.

Để thiết kế tỉnh lỵ, năm 1896, 4 xã Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa (Huề), Vân Tập, Thanh Lương nhập lại gọi là làng Vĩnh Thanh Vân. Đến năm 1908 mới đặt tên đường sá lại chợ và năm 1910, đưa dự án dùng đèn thắp bằng “ga” ở đường phố.

Tàu buồm Hải Nam ra vào cửa Rạch Giá tấp nập. Vào tháng gió chướng (gió mùa từ Đông Bắc), nhiều khi 20 chiếc cặp bến một lượt. Ty Thương chánh hoạt động với quyền hạn không phân định rõ rệt vì cho rằng chỉ chịu sự chỉ huy từ Sài Gòn mà thôi, không can hệ gì đến nhà cầm quyền ở tỉnh. Năm 1887, viên chức Thương chánh xét bắt Hoa kiều ở chợ, tha hồ làm tiền vì quả thật các tàu buôn Hải Nam vào bến chở theo á phiện lậu thuế để bán lén theo hệ thống riêng cho các tỉnh miền Tây là nơi tập trung người Huê kiều khá giả. Người Huê kiều thì ăn chịu với viên chức địa phương. Ngoài ra, viên chức Thương chánh (bấy giờ gọi là Công—xi) lại còn bắt buộc người làm nước mắm ở hòn Sơn Rái, thuộc tỉnh Rạch Giá phải đóng thuế nhập cảng, lấy cớ trong nước có mắm muối, xem mấy người làm nước mắm như đã chở muối lậu thuế. Mấy bang Huê kiều yêu cầu đừng đánh thuế quá nặng những hàng hóa chở từ bên Xiêm vào chợ Rạch Giá, nhưng không được chấp thuận. Bấy giờ, tàu Hải Nam chở vào nhiều nhứt là vải, từ Xiêm hoặc từ Tân Gia Ba, đặc biệt có loại vải thông dụng (gọi là vải Xiêm, vải tám Hạ, tức là từ Hạ Châu đem đến). Mặc nhiên, hàng hóa xuất xứ từ Anh quốc lại cạnh tranh với hàng hóa Pháp! Mấy viên cai tổng đồng thanh phản đối việc tra xét của mấy ông tây “Công—xi”, khi đồng bào đến chợ theo đường biển phải đi ngang qua Thương cảng. Năm 1886, hải quân Pháp ra tận hònCổ Tron (Poulo Dama) để thám hiểm nhưng ngoài ấy chẳng có nguồn lợi gì về kinh tế.

Việc bán gạo từ hải cảng Rạch Giá đã có từ đời Mạc Cửu do người Huê kiều đảm trách độc quyền. Dịch vụ xay lúa tổ chức theo kỹ thuật cổ truyền, dùng loại cối to, mỗi cối có bốn người cầm giàng xay, hai người sàng, một người quạt, một người giần tấm.

Năm 1884, chợ có 6 trại xay lúa, sử dụng gần 40 cối to. Khi tàu Hải Nam gần đến để ăn gạo, trại hoạt động suốt ngày đêm, dùng toàn sức người. Dọc theo bờ rạch gần mé biển, người Huê kiều cất khi dự trữ hàng hóa. Tàu Hải Nam đến mua nhiều nhứt là gạo, chiếu, tiền kẽm, nước mắm, cá khô, mắm ruốc cà ròn (bao bằng vàng), mật, sáp. Họ chở đến tô chén, bài tứ sắc, vải bô, giấy tiền vàng bạc, mền, thuốc Bắc, pháo, nhang, trái cây khô.

Lần hồi, thương cảng bớt hoạt động. Gạo xay máy từ Sài Gòn chở qua Hương Cảng bằng tàu máy ít tốn sở phí hơn là gạo xay bằng sức người, chở bằng ghe buồm ở Rạch Giá.

Về đường sá trong tỉnh, mãi đến năm 1907 chỉ thấy vài khúc lộ dở dang. Theo sáng kiến của tham biện, con lộ từ chợ Rạch Giá đến Hòn Đất thành hình, bắt dân làm xâu, đường trải đá ong Biên Hòa và trải đất hầm (đất ruộng đốt cho chín rồi đập ra từng cục nhỏ). Dụng ý của bọn Pháp ở địa phương là đắp đường theo mé biển ăn tới Hòn Đất nơi chúng chọn làm căn cứ nghỉ mát ; từ trên Hòn nhìn ra vịnh Xiêm La, khung cảnh khá thơ mộng. Điều bất lợi là con lộ này chạy ngang vùng còn rừng tràm, người Miên sống rải rác. Trong tương lai, nhà nước hy vọng là nối lên Hòn Chông thuộc Hà Tiên. Nhưng công tác này trở thành tốn kém vô ích, khí hậu Hòn Đất không tốt cho lắm, đất hai bên lộ quá xấu, mở đường mà chẳng ích lợi gì cho việc canh tác! Bọn Pháp ở địa phương cố duy trì kế hoạch, lấy lý do là để tới lui giữ an ninh đồng thời làm bờ đê chận nước biển. Lộ bị dẹp bỏ vì rốt cuộc ai cũng nhìn nhận là lãng phí (lộ hãy còn di tích sát theo bờ biển, song song với con lộ Rạch Giá, Hà Tiên đắp xa biển hơn lúc sau này).

Con lộ thứ nhì là nền móng của lộ Rạch Giá, Cần Thơ. Năm 1907, nối liền tới Minh Lương (khoảng 15 km), trải đá ong và đất hầm. Có kế hoạch nối luôn tới Gò Quao rồi Long Mỹ. Mãi đến năm 1914, lộ Rạch Giá qua Cần Thơ mới tiếp tục khởi công.

Việc chia ra quận (huyện) trở thành cấp bách, tham biện Rạch Giá nêu lý do là dân số gia tăng, nhiều người từ tỉnh khác đến làm ăn nên khó kiểm soát, diện tích của tỉnh lại quá rộng.

Vùng ở giáp ranh Cần Thơ và giáp ranh Bạc Liêu, Sóc Trăng cần mỗi nơi một ông phủ hoặc ông huyện để coi sóc, ngoài ra, cần một quan huyện ở Châu Thành. Năm 1898, tham biện Rạch Giá nhắc lại ý kiến nên lập một phân khu hành chánh ở ngọn Cái Lớn (nhằm đề phòng trộm cướp) hoặc lập ở làng Long Mỹ một quận mới. Nhưng cấp trên bác bỏ cho là tốn thêm tiền xây cất cơ sở hành chánh, mướn thơ ký, mã tà ; nếu tỉnh quá rộng, tham biện chủ tỉnh cứ đi thanh tra bằng tàu máy là đủ rồi. Bấy giờ, việc khẩn hoang chỉ mới xúc tiến, thuế má chưa thâu nhiều. Nhưng đến năm 1907, quận Long Mỹ thành lập ở ngọn sông Cái Lớn, phía giáp ranh với Cần Thơ. Chủ quận đầu tiên là Maurel nắm nhiều quyền hạn quan trọng. Quận Gò Quao thành lập, trên con dấu ghi mấy chữ nho “Đại Hà huyện” (tức là huyện lập ở sông Cái Lớn), quận Giồng Riềng ghi là Tiểu Hà huyện (sông Cái Bé), quận Châu Thành tại chợ thì thêm mấy chữ nho “Kiên Giang phủ”.

Việc phân chia ra tổng cũng chưa hợp lý và gây nhiều phiền phức: riêng tổng Thanh Bình, năm 1907, rộng đến 250.000 mẫu tây (trong khi tỉnh Bến Tre chỉ có 164.000 mẫu, tỉnh Gò Công 62.698 mẫu diện tích vào năm 1922), ăn từ vịnh Xiêm La đến ranh Sóc Trăng. Riêng làng Đông Thái (thuộc về tổng này) dài cỡ 30 cây số từ rạch Thứ Năm đến rạch Mương Đào, lý do chánh là đất quá rộng, dân ít, còn nhiều rừng, xóm này xa cách xóm kia. Bấy giờ, cai tổng tha hồ xử kiện theo ý thích, xã trưởng thì không thèm đi “hầu việc” quan trên, viện lý do là biển động, đi sợ ghe chìm hoặc nộp thuế thì sợ bị ăn cướp dọc đường.

Đại khái, Rạch Giá là tỉnh chậm phát triển về đường sá, dân trí kém mở mang, thua xa các tỉnh miền Tiền giang hoặc gần Sài Gòn nơi mà nhà nước thực dân đã chú ý thiết kế từ trước năm 1900. Mãi đến 1910, 1911 hương chức làng ở Rạch Giá mới bắt đầu có con dấu bằng đồng để đóng vào công văn.

Những rắc rối đầu tiên trong việc khẩn đất

Chủ tỉnh Rạch Giá báo cáo cho Thống đốc Nam kỳ ngày 17/3/1898:

— Trên nguyên tắc, mỗi làng phải có địa bộ và điền bộ. Nhưng ở Rạch Giá trước năm 1891 không nơi nào có địa bộ. Một số hương chức làng tự ý lập địa bộ, vẽ bản đồ chia ra từng sở đất, ghi tên chủ đất nhưng thường là ghi tên “ma”, ai đến xin khẩn thì bảo là hết đất, nếu muốn thì làng sẽ đứng làm trung gian mua lại giùm cho. Hương chức làng tự ý sửa chữa, sang tên các sở đất, hậu quả là địa bộ ở làng trên nguyên tắc là bản phụ, lại không giống với địa bộ (bản chánh) nạp ở tỉnh.

— Ai muốn sao lục địa bộ (có giá trị như bằng khoán đất) thì làng đòi ăn hối lộ rồi mới chịu sao.

— Chủ tỉnh nhắc lại nguyên tắc: mọi sửa đổi về ranh giới hoặc tên người chủ sở đất đều phải được phép của chủ tỉnh (theo nghị định 6/3/1891, chủ tỉnh là người quản thủ địa bộ).

— Để cứu vãn tình thế, chủ tỉnh Rạch Giá yêu cầu Thống đốc cho thành lập một ủy ban gồm một chủ tỉnh từ tỉnh khác đến làm chủ tịch, một viên kinh lý (họa đồ) cũng là cai tổng và hương chức sở tại để tu chỉnh, lập địa bộ mới cho tỉnh.

— Không làm được việc ấy thì dân ở tỉnh khác không xuống Rạch Giá đông đảo như trước nữa. Trong hiện tại, đa số người chiếm giữ đất để canh tác không có bằng khoán hợp pháp, còn những người tranh chấp thì chẳng có giấy tờ gì để chứng minh.

— Không lập được địa bộ thì dân làng chỉ làm công cho thiểu số người có thế lực hưởng huê lợi.

Nhiều vụ tranh chấp xảy ra.

Dân khẩn hoang thoạt tiên tin rằng nhà nước cho phép họ làm ruộng trước rồi sẽ khai báo để hợp thức hóa về sau, với điều kiện khẩn không quá 10 mẫu (gọi là đất công nghiệp). Làm sao người dân hiểu rành cách thức làm đơn và dám ra tỉnh lỵ để hầu quan chủ tỉnh? Đường xa, lắm khi hơn 70 cây số, ra chợ lại không biết thưa bẩm với ai. Vài người hiểu luật lệ đã chịu khó chạy chọt, tìm cách giựt đất.

ở làng Vĩnh Hưng, năm 1904, một viên thông ngôn tòa án đang ăn lương lớn lại xin nghỉ việc để tranh cử chức cai tổng, chưa đắc cử là cho vợ đứng đơn xin khẩn chồng lên mấy sở đất mà người khác đã ruồng phá thành khoảnh từ trước. Vai trò của cai tổng khá quan trọng khi lập địa bộ cấp đất, vì là một ủy viên. Năm 1903 chủ tỉnh rất áy náy vì tình trạng chiếm đất, do thiểu số nhiều uy thế và rành luật lệ. ở làng Lộc Ninh, nhiều sở đất có rừng tràm tốt hoặc có người đang canh tác lại bị kẻ lạ mặt làm đơn xin trưng khẩn. Chủ tỉnh ra lịnh cho cai tổng Thanh Bình cứ ghi tên những người thật sự đang canh tác và cho họ được ưu tiên vào bộ.

Theo thủ tục bấy giờ, hễ vô đơn xin tạm khẩn thì mặc nhiên được cấp cho một biên lai. Với tấm biên lai có chữ ký của chủ tỉnh, bọn gian hùng cứ đến địa phương mà tranh cản, tự nhận là sở hữu chủ, với diện tích rộng hơn. Ai năn nỉ thì họ bán tấm biên lai với giá cao, bảo đó là tờ bằng khoán chánh thức.

Khi hay tin kinh xáng Xà No sắp đào nối liền qua Rạch Giá, nhiều ông hội đồng, cai tổng, thân hào đã vội làm đơn xin khẩn, căn cứ vào bản đồ con kinh mà họ biết trước. Luôn luôn họ dành phía mặt tiền, giáp với bờ kinh. Chủ tỉnh bác những đơn ấy không phải vì thương dân, chẳng qua là muốn dành cho bạn bè, hoặc cho kẻ nào dám dâng tiền bạc hối lộ.

Có người vội cho rằng Pháp bày ra việc cử Hội đồng quản hạt, địa hạt, cai tổng chỉ là để mua chuộc một số người Việt háo danh mà thôi. Thật ra, những chức vụ ấy đem lại nhiều ưu thế trong việc khẩn đất. Nhờ chức vụ mà giao thiệp dễ dàng nên họ biết kế hoạch đào kinh qua phần đất nào, khi cho trưng khẩn thì họ vô đơn trước. Lại còn trường hợp nếu cho ai trưng khẩn với diện tích lớn thì họ được hỏi ý kiến. Chủ tỉnh sẵn sàng cho họ quyền ưu tiên trưng khẩn để bù lại việc họ làm ngơ cho chủ tỉnh chi tiêu phí phạm ngân sách địa phương, hoặc tăng thuế, hoặc xuất công qű tu bổ công sở... Họ vận động với quan trên, lo lót tiền bạc để xin phép sắm súng cho bằng được, nhằm mục đích uy hiếp tinh thần dân chúng khi cần chiếm đất. Khẩn đất cũng là cơ hội cho vài tên đầu cơ, mị dân, gây uy tín cá nhân để ứng cử chức nghị viên Nam kỳ. Vào năm 1912, ký giả thực dân hạng nặng là J. Adrien Marx đến quận Gò Quao để hướng dẫn kẻ bị mất đất làm đơn tố cáo điền chủ và quan chủ quận về tội ăn hối lộ, lấn hiếp dân: 12 người Miên đã khẩn được 108 mẫu từ năm 1907—1908, vô bộ ở làng rồi, thế mà điền chủ lại mướn tay em chừng 70 người đến đánh đập, tịch thâu nông cụ lúc họ đang canh tác. Lại còn bọn kinh lý (họa đồ) Pháp thừa cơ hội và cậy quyền thế để giựt đất một cách hợp pháp. Năm 1913, ấp Thành Lợi (sau này trở thành làng Ninh Thạnh Lợi, phần đất cũ của làng Lộc Ninh) được thành lập do 3 người xin khẩn nhưng ba năm sau, một viên kinh lý người Pháp đến trưng khẩn bao trùm lên và bắt buộc 3 người nọ phải làm tờ mướn đất như là tá điền. Rốt cuộc theo sự phân xử của chủ tỉnh, 3 người này thất kiện, mỗi người chỉ còn giữ được 10 mẫu đất công nghiệp, còn bao nhiêu đất dư ra đã thành thuộc rồi thì phải giao cho viên kinh lý. ở tỉnh lỵ Rạch Giá, có người chuyên sống bằng nghề trung gian để lo hối lộ. Năm 1916, người nọ xin khẩn 2.000 mẫu ở làng Vĩnh Bình, nhờ kẻ trung gian đút lót trước 2000 đồng cho chủ tỉnh, xong việc sẽ đưa thêm tiền. Chủ tỉnh trình việc ấy lên Thống đốc Nam kỳ và bảo rằng phần đất ấy chắc chắn có người đang khai thác từ lâu. Chủ tỉnh tố cáo, vì số tiền lo hối lộ quá ít hay vì thanh liêm?

Để làm điền chủ lớn, nhiều người dùng nhiều chiến thuật khác nhau:

— Họ làm đơn với chủ tỉnh, lo lót, ra mặt công khai chiếm đất. Rồi khi tới địa phương, họ chịu bồi thường chút ít cho người đã khai khẩn từ trước ; hoặc mua lại với giả rẻ lúc người dân cô thế đang tuyệt vọng thấy mình chẳng bao giờ đủ khôn lanh và đủ tiền bạc để kêu nài hoặc lo hối lộ.

— Họ không bao giờ đứng tên khẩn đất trong đợt đầu, tránh mọi việc tranh chấp vụn vặt có vẻ vũ phu và bất lương. Họ đem tiền tới nơi (tiền này thường là tiền vay) để mua đất trong những năm ruộng thất mùa. Hoặc họ chuyên sống bằng nghề cho vay nặng lời, hoặc chứa cờ bạc để lần hồi bắt con nợ phải bán đất cho họ mà trừ nợ. Họ công khai đưa con nợ ra tòa, với giấy tờ hợp pháp về hình thức: người dân quê dốt chữ khi túng thiếu vì đau ốm, vì thua cờ bạc đã ký tên, điểm chỉ vào sau khi nghe đọc qua loa nội dung tờ giấy nợ chứa đựng nhiều cạm bẩy ngặt nghèo.

Kẻ quyền thế thường vận động với các quan lại cao cấp, chịu tốn kém về tiệc tùng để được khẩn không tiền theo quy chế mà nhà nước dành cho người hữu công: Tổng đốc Phương hưởng theo quy chế này 2.223 mẫu ở các làng Hỏa Lựu, Hòa Hưng, Vĩnh Hòa Hưng ; Trần Chánh Chiến (sau này cổ húy cho phong trào Duy Tân ở Nam kỳ) khẩn hơn 1000 mẫu ; một nho sĩ họ Trần ở Rạch Giá cũng nhờ Tổng đốc Phương điền chủ ở Trà Vinh khẩn trong địa phận Rạch Giá trên 1400 mẫu.

Những nguồn lợi thiên nhiên

Trước khi trở thành ruộng, rừng tràm là nguồn lợi thiên nhiên đáng kể. Vào đời Gia Long, vùng Rạch Giá được chú ý nhờ sáp ong và cá tôm. Làng Vĩnh Hòa, làng Đông Yên ở hữu ngạn sông Cái Lớn thành hình từ lâu nhờ nguồn lợi sân chim (sử chép là Điểu đình), những khu rừng mà hằng năm loại chàng bè, lông ô (còn gọi già sói, marabout) tụ họp về làm ổ, sanh sôi nẩy nở hàng chục vạn con, thợ rừng đến sân (nơi chim tụ họp) bao vây và giết sống để nhổ lông bó lại đem bán cho tàu buôn Hải Nam. Thuở ấy người Việt cũng như người Tàu đều ao ước có cây quạt kết bằng lông chim, với đứa tiểu đồng đứng hầu quạt phe phẩy, tiêu biểu cho nếp sống phong lưu. Thuế điểu đình vẫn duy trì, nhà nước thực dân cho đấu thầu nhưng giá thầu ngày càng thấp, dân giết quá nhiều không chừa chim con. Gặp khi giông tố bất thường, chim kéo đến khu rừng khác, người thầu không được quyền truy nã theo để khai thác. Người trúng thầu thường là Huê kiều. Họ có hệ thống tiêu thụ ở nước ngoài: giá thầu là 21.000 quan (1879), 20.000 quan (1880). Việc thầu sân chim có lúc bị bãi bỏ hoặc ngăn cấm. Năm 1908 cho khai thác trở lại. Những năm chót, nhà nước hương chức làng thầu với giá tượng trưng. Năm 1912, một hội viên của Phòng Canh nông Nam kỳ (cũng là tay khai thác đất đai nổi tiếng ở Hậu giang) lên tiếng xin nhà nước cấm khai thác sân chim vì thuế thâu vào chẳng bao nhiêu mà gây tai hại lớn. Theo bài toán của ông ta, chim có đến hàng trăm ngàn con bị giết mỗi năm, mỗin gày một con chim già sói (marabout) ăn đến 20 con chuột, mất chim thì hàng triệu chuột tha hồ sinh sôi nẩy nở. Đây chỉ là bài toán không tưởng mà thôi.

Mật, sáp ong, cá tôm là nguồn lợi lớn và lâu dài hơn. Khi mới chiếm vùng Hậu giang, đặc biệt là vùng Rạch Giá, những huê lợi này đều do nhà nước giao lại với giá thầu tượng trưng cho các ông cai tổng, xem như là hình thức mua chuộc rất có hiệu quả. Các ông cai tổng cứ chia ra từng sở nhỏ, giao cho bọn tay sai thân tín thầu lại với giá cao. Kế đến là giai đoạn giao cho hương chức làng thầu với giá phỏng định. Năm 1895, hương chức làng thâu lợi quá nhiều đến mức dám hiến lại cho ngân sách tỉnh phân nửa số lời mà họ thu được (2785 đồng).

Sáp là nguồn lợi làm cho xứ Rạch Giá nổi danh (người Miên gọi là vùng Kramuôn—Sor tức là xứ sáp trắng) vì thời xưa ổ ong bám vào cây tràm, lâu ngày rụng xuống rồi trôi trên sông, không người vớt. Thời Tự Đức (và có lẽ trước hơn), quan lại địa phương chia rừng tràm ra từng “ngan” tức là từng lô nhỏ, lấy những con rạch thiên nhiên làm ranh giới. Nay hãy còn dùng làm địa danh. Ngan Trâu, Ngan Dừa, Ngan Rít, Ngan Vọp. Nghề ăn ong gọi là “ăn ngan”, lô rừng đem đấu thầu gọi là sở phong ngạn (phong là ong, ngạn là bờ ranh). Phong ngạn tập trung ở những làng nhiều rừng tràm, năm 1905, làng Vĩnh Lộc có tới 19 sở, làng Sóc Sơn 13 sở. Làng Đông Thái có 4 sở to chạy theo địa phận làng, dài cỡ ba mươi cây số.

Chủ tỉnh Rạch Giá thảo ra điều kiện sách nhằm dành ưu tiên cho người khẩn đất làm ruộng. Điều 2 ghi rõ: “Rừng thì lần lần có người khai phá làm ruộng vì việc canh nông có lợi hơn, nên sự đấu giá này (đấu giá phong ngạn) không buộc 3 năm, buộc một năm mà thôi. Nhưng mà chủ ngan phải thưa cho nhà nước biết trước ngày 15/1 kế đó”.

Nghề khai thác phong ngạn lần hồi trở nên khó khăn vì gặp sự tranh chấp của người làm đơn khẩn ruộng. Thoạt tiên, chủ đất xem khu rừng tràm là của mình, tha hồ đốn cây để lấy huê lợi đầu tiên. Hoặc dân làng cứ đốn cây, phá rừng. Báo cáo của làng Mỹ Lâm ngày 12/12/1911 cho biết: Năm nay bị thất mùa màng, dân nghèo nàn quá, không có phương thế chi mà làm ăn. Chúng nó cứ việc hạ tràm tươi mà cưa làm củi bán đổi gạo ăn (Hồ sơ Miel et Cire). Diện tích rừng để khai thác ong mật bị thu hẹp vì thỉnh thoảng rừng cháy, ong bỏ ổ đi nơi khác.

Nhưng lý do chánh khiến cho nghề phong ngạn suy đồi là trận bão lụt năm Thìn (1904) khiến đa số rừng tràm bị ngã sập, rễ tràm vì ăn bám trên vùng đất sình lầy nên chịu đựng không nổi. Tràm ngã xuống, sau này khi cày cấy hễ gặp là đào lên đem về chụm bếp, gọi là tràm lụt (bão lụt). Đối với ngân sách làng và ngân sách tỉnh, đây là sự hao hụt đáng kể. Để bù vào số thuế phong ngạn, chủ tỉnh Rạch Giá giải quyết bằng cách bắt buộc dân phải chịu thêm một thứ thuế phụ trội, cộng thêm với thuế thân mà dân phải đóng. ở làng Mỹ Lâm, trước kia ngân sách dồi dào nhờ thuế phong ngạn, nhưng vì dân bộ quá ít nên khi chia ra thì mỗi đầu người phải gánh đến bốn đồng.

Sáp là sản phẩm qů, theo lệ xưa và mãi đến khi người Pháp đến, đó là món dùng để lo hối lộ thông dụng nhứt (gọi khôi hài là “đút sáp”).

Thủy lợi, theo nghĩa là huê lợi cá tôm ở sông rạch được chú ý từ thời xưa. Người Pháp lúc ban đầu cũng dùng chánh sách mua chuộc cai tổng và hương chức làng bằng cách cho họ mua lại (tức là thầu) với giả phỏng định.

Rừng tràm phát triển ở nơi đất thấp, vào mùa mưa thì nước ngập tràn. Rừng ở Rạch Giá và luôn cả rừng tràm ở Hà Tiên, Châu Đốc, Cà Mau có thể so sánh với vùng Biển Hồ ở Cao Miên về phương diện sinh hoạt của cá tôm. Nước mưa dâng lên, cá lên rừng mà sanh đẻ, di chuyển. Rừng rậm với con lăng quăng do trứng muỗi nở ra là thức ăn lý tưởng của cá. Khi mùa nắng vừa bắt đầu, gió chướng thổi thì cá biết là nước sắp cạn, từng bầy tìm cách ra sông, xuống rạch để khỏi chết khô. Bởi vậy, rạch ở rừng tràm là nơi tập trung cá; loại cá đồng đắt giá như cá lóc, cá trê chở đem bán nơi xa được, không chết dọc đường.

Dân địa phương từ lâu đã biết các đào đìa. ở vùng cỏ hoang hoặc giữa rừng tràm, cá rút xuống đìa mà sống. Và khi đã quen thói, hằng năm cá lên rừng vào mùa mưa, trở về rạch, về đìa khi mùa nắng bắt đầu. Nhiều đìa cá của dân làng đào sẵn trong rừng hoang lại trở thành đìa của điền chủ vì phần đất ấy đã bị trưng khẩn. Đìa đào ở trong rừng thì nhiều cá nhưng khó đem cá về, lắm khi phải gánh cá hàng năm bảy cây số, nếu đìa ít cá thì bỏ luôn chẳng ai thèm tát (đìa ở xa trong rừng gọi là đìa U Minh theo nghĩa là ở nơi u u minh minh, tối tăm như địa ngục, mặc dầu không nằm trong vùng U Minh).

Nhà nước bày lệ đấu thầu để thâu thuế nhiều hơn, mỗi lần đấu cho phép khai thác trong ba năm. Điều kiện sách ghi rõ là sự “ích lợi của nông nghiệp phải trọng hơn các điều khác” nhưng trong thực tế, việc đấu thủy lợi làm giàu cho một số trung gian. Họ chia ra từng phần nhỏ rồi cho mướn lại với giá cao gấp đôi hoặc gấp ba. Để bắt hết cá, kỹ thuật hữu hiệu nhất là xây rọ với đăng sậy, tùy theo hình thể con rạch mà lựa chọn kiểu rọ thích hợp. Nhiều cuộc tranh chấp xảy ra, người đấu thủy lợi nếu có thế lực thì cứ phá đập giữ nước (của kẻ khác đang làm ruộng) để cá trên ruộng chạy xuống rạch, gây nạn lúa háp vì ruộng bị cạn quá sớm. Hoặc người khai thác thủy lợi làm cản trở lưu thông, ngăn cản không cho câu cá khiến người địa phương ăn uống khổ cực, thiếu cá làm mắm dự trữ để làm mùa. Nhiều làng đã xin quan trên bỏ việc cho thầu thủy lợi để dân làng tự do bắt cá mà ăn. Nhưng khoản dự thâu ngân sách về thủy lợi hằng năm không thể bỏ được, quan trên thường giải quyết bằng cách bắt buộc mỗi đầu dân đóng thêm năm cắc hoặc một đồng để bù trừ lại.

Chủ đất có thế lực thường ngang nhiên đắp đập ở ngọn rạch, không cho cá xuống khiến người xây rọ chịu thất thâu.

Dân Châu Đốc xuống Rạch Giá dạy nghề xây rọ. Dân Gò Công tới vàm biển sông Cái Lớn phổ biến việc đóng đáy (trước năm 1912).

Việc thành lập làng mới

Người nhiều vốn để mộ dân đi khẩn hoang mà dám bảo đảm sẽ đóng đầy đủ thuế thì được nhà nước chấp thuận cho lập làng mới. Đây là nguyên tắc từ thời vua chúa nhà Nguyễn mà thực dân cho áp dụng trở lại để thâu thêm thuế điền và thuế thân. Năm 1894, việc thành lập làng Vĩnh Hưng cho thấy sự xuất hiện của bọn cường hào mới. Vùng đất này ở phía nam tỉnh Rạch Giá, giáp ranh Sóc Trăng. Hai người giành nhau lập làng, cả hai đều là bá hộ nổi danh thời bấy giờ, tuy là người Việt nhưng gốc Hoa kiều.

— Phan Hộ Biết (tục danh là bá hộ Bì) ở Bạc Liêu xin lập làng mới. Dân do ông ta quy tụ sẽ lần hồi đóng thuế cho nhà nước. Ông ta đã xuất tiền túi ra xây cất xong một nhà việc (công sở làng) trị giá 200 đồng.

— Bành Trấn thì đưa kế hoạch đào kinh do chính ông xuất vốn, mướn nhân công. Lại cam kết rằng sau khi được chấp thuận lập làng thì sẽ có 150 dân công do ông quy tụ, đóng thuế ngay (thuế này do chính ông xuất ra cho dân mượn trước). Và tuy đất chưa thâu hoạch huê lợi, ông sẵn sàng chịu thuế điền 1500 mẫu, đóng ngay cho nhà nước. Nếu nhà nước chịu cho đứng tên làm chủ 1000 mẫu đất thì ông ta hứa bảo đảm đóng thuế cho 300 người trong những năm tới. Theo lời trong đơn, vùng này còn nhiều voi và trộm cướp, lập làng thì đất trở thành tốt, thú rừng và bọn bất lương không còn lai vãng. Kế hoạch của Bành Trấn được Thống đốc Nam kỳ chấp thuận vì Bành Trấn vào đơn trước hơn Phan Hộ Biết. Nhưng lý do vẫn là vì Bành Trấn chịu đóng thuế ngay, làng Vĩnh Hưng trở thành một tiểu quốc của Bành Trấn, ông ta bèn bắt buộc bọn tá điền trả lại tiền thuế thân đã ứng trước, rồi cho vay nặng lời. Rốt cuộc tất cả dân trong làng trở thành tá điền, chẳng ai làm chủ mảnh đất lớn nhỏ nào cả. Đến năm 1911, nhà nước mới can thiệp vì lập làng như vậy là thất nhân tâm, có lợi cho cá nhân đứng lập làng nhưng hại cho nhà nước.

Bởi vậy, khi cho lập làng Ninh Quới vào năm 1913, viên phó tham biện đặc trách quận Long Mỹ đã tổng kết kinh nghiệm và nhận định về việc bầu cự các hương chức hội tề:

— Trong ban hội tề, chức vụ xã trởng là quan trọng hơn hết, viên chức này giữ mộc ký (triện) của làng. Xã trưởng lựa người thân tín, cho làm chức hương xã, rồi đến chức hương thân, hương hào. Những chức vụ còn lại thì do xã trưởng nêu điều kiện, ai muốn làm thì cứ thương thuyết, lo hối lộ cho ông ta. Đây là tình trạng lập làng mà không có bầu cử về hình thức.

— Nếu bày ra hình thức bầu cử, chỉ một thiểu số điền chủ được ứng cử và có quyền bầu mà thôi. Dân làng không được tham khảo ý kiến. Và dân chỉ muốn cuộc bầu cử diễn ra thật nhanh, ai làm cũng được, để họ biết ai là người nhận tiền thuế mà họ phải đóng.

— Khi lập làng mới, công việc đầu tiên của hương chức là bắt buộc dân phải ký giấy nợ, trả lại cho họ những sở phí lập làng (tiền mua bộ sổ, tiền mua tặng phẩm để hối lộ cho quan trên). Dân không dám cãi lịnh vì họ được khai khẩn vài mảnh đất nhỏ.

Bởi vậy, theo ý kiến của Marcel Roché (phó tham biện đặc trách quận Long Mỹ) thì nên lưu ý việc sắp đặt hương chức hội tề ở làng mới lập: nếu xã trưởng và hương cả thuộc một phe với nhau thì nhà nước nên cho người thuộc về phe khác (lẽ dĩ nhiên hai phe này đều tham nhũng) làm những chức vụ còn lại trong ban hội tề, để khi hai phe nói xấu, tố cáo nhau thì nhà nước có lợi là biết được sự thật. Nếu chỉ một phe cường hào nắm trọn một ban hội tề thì dân càng khổ. Cũng theo ý kiến viên phó tham biện này, những người đứng ra sáng lập làng thường đem lá đơn được chấp thuận ấy về địa phương mà dằn mặt dân, rồi bắt đầu lên “ngai vàng mà thống trị như vua chúa”.

Trường hợp một làng khác ở quận Long Mỹ, có viên chức cho 17 người Miên đến khẩn đất. Họ lo bắt cá, đốn củi, sau bão lụt năm Thìn, cây rừng ngã xuống mới bắt đầu làm ruộng. Khi đất dọn xong thì mới hay rằng viên chức nói trên đã làm đơn xin khẩn chồng lên phần đất ấy từ trước, có biên lai. Cũng may là vụ này được giải quyết êm đẹp, dành ưu tiên cho người Miên vì họ chịu cực khai phá từ trước.

Trường hợp làng quá rộng như làng Đông Thái dài 30 cây số, dân đến cư ngụ lần hồi, khi đủ số thì những ấp ở xa trở thành làng mới, tách ra lập thêm ba làng là Đông Hưng, Đông Hòa và Đông Thạnh từ năm 1914.

Lắm khi vì muốn kiểm soát an ninh ở mấy ấp hẻo lánh, nhà nước chấp thuận cho tạm lập một làng mới. trong giai đoạn sơ khởi, lúc quan kinh lý chưa đến phân ranh thì hương chức không được thâu thuế, chỉ được xử kiện những vụ nhỏ và sắp đặt dân canh phòng mà thôi: làng Thạnh Lợi tách ra khỏi làng Thạnh Hưng tháng 11/1912.

ở những làng quá đông người Miên, hương chức hội tề có thể ký tên bằng chữ Miên và điều kiện để làm hương chức không cần là phải biết chữ quốc ngữ. Quan trọng nhứt là chức xã trưởng, chỉ dành cho người hằng sản để có thể bồi thường cho nhà nước trong trường hợp làm sổ sách sai lạc hoặc gian lận thuế, lấy tiền công nho để cho vay nợ riêng, hoặc cờ bạc thua. Người biện làng (thơ ký, nhân viên riêng của xã trưởng) lãnh trách nhiệm viết lách, thảo đơn từ, phúc bẩm báo cáo.

Việc lựa chọn vài người háo danh và khờ khạo để làm hương chức lắm khi là dụng ỳ của những tay có thế lực để dễ dàng thao túng. Tệ đoan lớn ở mấy làng xa quận lỵ là nạn cờ bạc, chứa chấp bọn trộm cướp do hương chức làng chủ mưu và chia phần. Nhiều ông điền chủ không thèm vào ban hội tề, khi cần thế lực thì dựa vào quan trên hoặc đứng ngoài, sắp xếp tay em của họ vào làm hội tề là đủ rồi.

Trong những làng mà đất đai đều do người Pháp làm chủ, về mặt hình thức thì người Việt Nam vẫn cai trị lẫn nhau nhưng hương chức chỉ là tay sai. Khôi hài nhứt là những báo cáo của làng gởi lên cấp trên: nếu là trên lãnh thổ của điền Tây thì phải có chữ ký của chủ điền hoặc của người quản lý thì mới có giá trị. Người “chủ điền Tây” có quyền thị thực chữ ký hoặc xác nhận sự kiện trong công văn của làng. Trong điền của Pháp, việc cử hương chức hội tề (chỉ định thì đúng hơn) không theo tiêu chuẩn là có hằng sản vì tìm đâu ra một người có hằng sản! Năm 1911, vào tháng 9, hương chức làng báo cáo khi chủ quận ra lịnh cử một người thay thế cho vị hương chủ vừa chết: “Ông A. Isidore mới lập làng, dân làng là người nghèo nàn và các nơi tới mướn đất làm ruộng cấy, lúa tốt thì nó ở, lúa xấu thì nó trốn đi, dân không có vườn đất tại làng. Xin đình lại tháng Décembre nhằm mùa lúa trổ, làng xét lại lúa ai tốt là người khá trong làng và lựa người xứng đáng làng mới dám cử”.

Vài nét lớn về điền của Pháp

Cần nhớ là bấy giờ ở Nam kỳ, danh từ đồn điền không được xài tới vì gợi ý nghĩ không tốt, trùng hợp với những đồn điền thời đàng cựu mà Pháp chánh thức giải tán (dân đồn điền thường là dân làm loạn khi người Pháp mới đến). Gọi là điền, kèm theo tên của người chủ, thí dụ như điền ông La—bách (Labaste) hoặc tên tục như điền ông Kho (Gressier), hoặc khôi hài hơn: điền Tây Mập, điền Tây Tàu (tên này có tàu riêng để chở lúa) hoặc điền Tây Đầu Đỏ (tóc đỏ). Nếu là của công ty thì gọi là điền hãng. Người làm chủ đất thì gọi là điền chủ (gọi “địa chủ” nghe không thanh tao, theo lối nói lái của người miền Nam). Chủ ruộng là người canh tác trên đất mướn của người khác. Tá điền là người mướn đất làm ruộng (không gọi là dân cày, vì dân chúng bấy giờ cho là trâu mới cày, người đâu phải trâu mà cày).

Thoạt tiên, nhà nước định hễ người Pháp hoặc người Việt có quốc tịch Pháp khai thác trên mười mẫu thì được hoàn toàn miễn thuế trong 5 năm liền; đến năm thứ 6 là bắt đầu đóng 1/5 số thuế, cứ như vậy đến năm thứ 10 là đóng trọn. Nghị định ngày 4/1/1894 sửa đổi lại không miễn thuế 5 năm đầu, ngay trong năm đầu đóng số 1/5 thuế, đến năm thứ 5 là đóng trọn. Nghị định 13/4/1909 cho phép những người Pháp có trên 80 tá điền và khai thác một diện tích ít nhứt là 400 mẫu được quyền lập riêng một làng mới, nếu chủ điền yêu cầu, dân trong điền được hưởng quy chế “dân điền Tây”.

Với nhiều ưu đãi vừa kể, thực dân Pháp tha hồ làm mưa làm gió. Trước khi có nghị định trên, từ năm 1906 ở Rạch Giá đã xảy ra một vụ lập làng mới lấy tên là Vĩnh Báu, trên địa phận của làng Vĩnh Viễn. Chủ điền là trạng sư Doutre cho người quản lý (gọi nôm na là cặp—rằn) đem 70 dân đến lãnh thổ vừa được phép trưng khẩn để lập làng mới. Hương chức hội tề địa phương can thiệp vì chưa có lịnh chánh thức của quan trên. Người quản lý này (người Việt) cứ ra lịnh tiếp tục cất công sở mới và xúi dục tá điền cầm dao rượt chém hương chức làng sở tại!

Thực dân khuyến khích cho người ở xa cũng khẩn đất, trường hợp Nam tước Rothiacob cư ngụ ở Ba Lê làm đơn xin khẩn ở Vị Thủy (Rạch Giá) phần đất 1357 mẫu, vào năm 1911 vì nghe tin sắp đào kinh ở vùng này, nhưng chỉ được cấp 642 mẫu để rồi không nhận lãnh. Phần đất tốt này lại được dân địa phương canh tác mà không làm đơn trước vì họ tưởng là vô chủ. Hai người Pháp là Duval và Guéry (đã có đất ở Cần Thơ) lấn qua đó 80 mẫu, đến năm 1911, tên Labaste xin trưng khẩn (Labaste nổi tiếng là lãnh chúa với những phần đất ở Sóc Trăng).

Vài người Pháp lanh lợi và thực tế đã khéo lợi dụng sự ưu đãi để giựt đất của dân hoặc giựt tiền trợ cấp của chánh phủ thuộc địa, điển hình là L. Bélugeaud, kinh lý hữu thệ. Năm 1911, ông ta trưng khẩn 500 mẫu đất ở làng Hưng Điền (Mộc Hòa), xin trợ cấp cho 500 đồng để thí nghiệm cơ giới hóa nông nghiệp theo một kiểu máy do chính ông ta sáng chế và ráp tại chỗ. Đến nông trại, ông ta nhờ tham biện, nhờ hương chức làng giúp mướn cu—li, mướn trâu và cất chòi. Khi lãnh tiền, ông ta cho bọn cu—li cày bừa rồi lại báo cáo từng đợt để hưởng thêm trợ cấp, sau rốt, ông ta bỏ căn chòi xơ xác nọ, bỏ mấy bộ phận sắt vụn đầy sét, giựt luôn tiền mướn trâu và mướn cu—li. Đến mùa, ông ta hưởng phần hoa lợi do bọn cu—li canh tác theo lối cổ truyền chừng 30 mẫu. Năm 1913, Bélugeaud đến Rạch Giá mở văn phòng lãnh đo đạc ruộng đất, bấy giờ muốn có bằng khoán thì phải có bản đồ do chuyên viên được chánh phủ thừa nhận lập ra. Dịp tốt để Bélugeaud đòi tiền thêm, cao hơn giá mà nhà nước quy định. Và sau khi đo xong, chủ đất phải lo hối lộ thêm 500 đồng thì mới có bản sao của bản đồ. Trước đó, năm 1909, ông ta tìm cách giao thiệp với các người giàu có ở Rạch Giá, nhận tiền rồi bảo là để vận động giùm với quan trên, ai muốn khẩn đất to thì cứ đưa nhiều tiền. Dân địa phương tin lời, vì ông ta là người Pháp. Năm 1913, thấy phần đất giữa làng Lộc Ninh và làng Vĩnh Bình đã có dân khai thác từ lâu nhưng chưa được cấp phát chính thức, ông ta làm đơn xin khẩn 1000 mẫu, với dụng ý bắt buộc dân đang canh tác phải nạp địa tô cho ông ta.

Một tay khác là Beauville—Eynaud, làm chức còm—mi ở Rạch Giá đã quá chú trọng vào việc khẩn đất. Khi thấy nhà nước soạn kế hoạch đào kinh xáng giữa Rạch Ngan Dừa và Cạnh Đền, ông ta xin trưng khẩn 1300 mẫu, khẩn xong, lại khai là mất mùa và không thèm đóng thuế!

Nhiều người Pháp nhờ bạn bè đứng tên giùm để khẩn thêm đất, hoặc có những viên chức Pháp không thích canh tác nhưng cứ khẩn để bán lại cho người Việt. Lại còn trường hợp tên Ernest Outrey (sau này là Thống đốc Nam kỳ) lợi dụng danh nghĩa là nghị viên của Nam kỳ can thiệp với chủ tỉnh để cho bạn bè ông ta được khẩn đất, nói đúng hơn là chiếm phần đất mà dân quê đã khai phá từ buổi đầu.

Đời sống trong điền Tây

Điền của người Pháp là một tiểu quốc, người tá điền của điền Tây hưởng quy chế đặc biệt về thuế thân. Họ được chủ đất bảo lãnh, dùng “giấy đỏ” “(carte díengagé, in trên giấy cứng màu đỏ), thuế thân đóng một đồng bạc thôi, trong khi dân ở thôn xóm làm lụng cho chủ điền Việt Nam phải đóng cỡ 5 đồng. Họ chỉ đóng thuế chánh, khỏi những thuế phụ trội, khỏi làm xâu, khỏi đóng tiền canh gác. Để đề phòng trường hợp họ trốn, loại giấy đỏ này phải được chủ đất hoặc người thay mặt ký tên xác nhận, cứ 3 tháng gia hạn một lần, ai ra khỏi điền mà không có giấy phép đặc biệt của chủ thì bị bắt, xem như chưa đóng giấy thuế thân.

Kẻ ở điền Tây phải làm giấy giao kèo “ở mướn cố công với chủ”, tùy theo điền mà giá cả khác nhau ; mượn tiền, mượn lúa với số lời khá cao nhưng trong giao kèo thì ghi thấp. Người làm ruộng nhiều thì được vay nhiều, tùy theo sự tiến triển của mùa màng mà chủ đất lần hồi cho họ vay thêm.

Điền tây là nơi chứa chấp đủ thứ tội ác: cờ bạc, hút á phiện lậu, đặt rượu lậu thuế. Hương chức làng, lính mã tà, nhân viên thương chánh khó bề đột nhập để tra xét nếu không được phép của người chủ điền Tây. Trong những điền lớn, chủ đất thường vắng mặt quanh năm, việc quản lý giao cho hai ba người Pháp gọi là “surveillant agricole” được phép mang súng, lắm khi họ là người Pháp dốt nát (lính sơn—đá nghỉ dài hạn hoặc đã giải ngũ). Lại còn những cặp—rằn bổn xứ chuyên nghề tuần tra với cây cù ngoéo, có thể đánh đập dân chẳng khác nào mấy ông hương quản, cai tổng. Điền Tây còn là nơi chứa chấp trộm cướp ; bọn này hành nghề ở địa phương khác rồi trở về ẩn náu, làm ruộng cho có hình thức. Đôi khi, điền Tây lại vô tình thâu nhận những chánh trị phạm, những tay phiến loạn bị tập nã từ các tỉnh miền Tiền giang.

Mùa lúa chín thì chung quanh điền Tây việc canh phòng bố trí nghiêm nhặt như một cơ sở quân sự. Bọn cặp—rằn đánh mỏ canh tuần ghe xuồng di chuyển gần điền phải bị tra xét phiền phức. Mục đích là đề phòng bọn tá điền “lưu” lúa ra ngoài bán trước lấy tiền xài riêng, rồi khi chủ điền tới đong, tá điền nói gạt rằng ruộng thất mùa. Người trong điền muốn chở lúa đem bán nơi khác hoặc cho bà con thì phải xin giấy chứng nhận là đã đóng đủ địa tô rồi.

Nơi trạm kiểm soát, bọn cặp—rằn treo lá cờ to làm hiệu, tùy sở thích của chủ điền mà cờ này màu đỏ hay màu trắng (bởi vậy dân địa phương căn cứ vào màu cờ mà gọi là điền Tây Cờ đỏ, điền Tây Cờ trắng...).

Về mặt trị dân, vài tên chủ điền Tây hoặc cặp—rằng tỏ ra đầy đủ bản lĩnh, thí dụ như họ dám hòa mình với dân Việt: ăn mắm, uống rượu đế, ăn thịt chó, cỡi trâu kình (trâu đua). Có tay còn gian hùng hơn, rước thày về để làm lễ tống ôn, tống gió, ăn lễ hạ điền, tụng kinh cầu cho quốc thái dân an với dụng ý cầm giữ dân và phát triển mê tín, óc xôi thịt. Hoặc là ông Tây chủ điền già nua lại mặc áo dài xanh, đội khăn đóng “cúc cung bái” khi cúng đình thần, với chức vụ là đại hương cả.

Bọn chủ điền Pháp là thế lực khá mạnh, thường đưa ra nhiều yêu sách với chánh phủ thuộc địa như đòi tham gia Hội đồng địa hạt để bàn bạc hằng năm về giá biểu thuế khóa trong tỉnh. Trong một bài báo, J. Delpit đòi được miễn thuế “bách thân phụ trội” đánh vào thuế điền vì thuế này do chủ tỉnh đặt ra, tham khảo với Hội đồng địa hạt An Nam chớ chủ điền Pháp không được hỏi ý kiến. J. Delpit bảo rằng thuế ấy chỉ dành cho người Việt đóng mà thôi. Nhà nước thực dân nhận định rằng nếu đưa người Pháp vào Hội đồng địa hạt thì quá đáng: đa số điền chủ Pháp không cư ngụ tại địa phương thì làm sao họ đại diện cho dân trong hạt được? Vả lại, đa số điền chủ Pháp đều là công chức hoặc chức sắc của công giáo.

Delphit khoe khoang rằng chủ điền Pháp đã góp công lớn vào việc xây dựng thuộc địa Nam kỳ: Trong vòng 40 năm, họ đã khai khẩn đến 247.417 mẫu (do 300 người chủ đất), cao hơn diện tích mà su?