← Quay lại trang sách

Chương 3 Chiến Tranh Bắc Hà1.

Vai trò Nguyễn Hữu Chỉnh trong chiến tranh phá vỡ phân tranh cũ * Cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc ở Phú Xuân * Chiêu bài "Phò Lê diệt Trịnh" cũ kỹ khi năng lực mới đem ra sử dụng.

Trong thời gian tiến mạnh về nam, khi dân Đại Việt chậm chạp nhưng chắc chắn biến đổi người và tự để mình biến đổi, thì cả vùng Á châu cũng thấy được thế giới mở rộng với các thuyền buôn Âu châu mang xa lạ đến. Riêng ở Việt Nam, người Bồ đến Hội An (Nam Hà), người Hoà đến phố Hiến (Bắc Hà) rồi sau đó là người Anh, người Pháp. Theo với họ cũng có nhưng người Á châu (Trung Hoa, Nhật, Mã Lai, Xiêm La...) đã hành nghề từ trước nhưng lại tăng tiến theo trào lưu giao thương khích động.

Người ta ghi nhận rằng hoạt động thương mại hồi này ở ta không lấy gì làm khởi sắc cho lắm vì tình trạng nghèo đói của dân chúng. Mọi cung cấp ra cũng như vào phần lớn do đám lái buôn Trung Hoa. Nhưng trên bình diện quốc gia và địa phương, sự giao thương đem lại hàng hoá, con người, tư tưởng khác cũng gây những xáo trộn quan trọng.

Ngoại thương làm khích động nội thương: trầm hương, kỳ nam, tiêu, cau, ớt... đi từ núi, từ đồng xuống biển, cá mắm, đồng sắt từ biển lên núi, đồng. Người đi buôn vượt khỏi ràng buộc của hương ước, của "lệ làng", tiếp xúc với người khác xứ, khác nước trở nên tiến bộ, có sáng kiến và dám liều hơn. Chúng ta đã thấy nhân dịp chúa Nguyễn phát triển thế lực về phía nam, phía tây, nảy sinh ra một dòng trao đổi sản vật giữa miền núi và đồng bằng dọc biển qua các nguồn để hợp với những nguyên nhân khác gây ra và nuôi dưỡng biến động Tây Sơn.

Nhưng trong lúc nhóm Nam Hà ly khai yếu ớt phải sẵn sàng chờ đón thu nhận, thích ứng với hoàn cảnh và một chừng mực phương tiện mới, thì Bắc Hà vẫn dựa trên cơ cấu trường cửu có sẵn ở trung châu Nhĩ Hà để cố gang tồn tại. Điều đó giải rõ tại sao biến loạn Tây Sơn xảy ra ở Nam Hà, nhưng cũng cho ta thấy trước thời kỳ nghiêng đổ của Bắc Hà. Sớm hay muộn Tây Sơn cũng là một thế lực đe doạ họ Trịnh như Hoàng Ngũ Phúc đã thấy. Đúng vậy, ảnh hưởng giao thương làm đa tạp hoá xã hội cũng có ở Bắc Hà đồng thời với sự tan rã triều chính.

Lịch sử chính thống không ghi rõ có một "thương ban" bên cạnh văn, võ và giám ban của họ Trịnh, chịu chức tước củng cố hay quấy đảo triều Chúa. Nhưng những nhân chứng thời đại đã cho ta thấy họ Trịnh và võ quan ủng hộ đám dân Thanh, Nghệ đi buôn bán trở nên giàu có hơn, cũng như họ đã ban đặc quyền cho ưu binh Tam phủ để bảo vệ cơ nghiệp nhà Chúa vậy.

Lúc thái bình người ta không chú ý để ghi nhận sự có mặt của lái buôn vì họ ở dưới bậc chót của giai tầng xã hội. Nhưng họ vẫn kiên nhẫn làm giàu không kể câu "vi phú bất nhân" vì người ta lúc nào cũng cần tiền và chứng tỏ, lúc bình thời, người ta mua chuộc họ bằng quan tước, khi hoạn lạc, người ta tha hồ cướp bóc họ. Đám thương nhân "các lái" của Trịnh đã trải qua như vậy chuyến loạn ở Thăng Long, lúc Tây Sơn ra Bắc:

"Đám các lái rất phè phỡn trong thời đói kém, vì lợi dụng được lúc thiếu gạo để bán mắc... và để cho những người nghèo khổ chết đói dọc đường. Đám các lái mất hết, thuyền, thóc, tiền sạch cả. Ở đây, chúng tôi thấy họ đi qua, trần truồng để trở về xứ Thanh".

Đám các lái đó không phải buôn bán loanh quanh xóm chợ làng quê mà thôi. Vị trí tập trung và số lượng của họ cho biết tầm hoạt động rộng lớn của họ: họ ở "gần cửa Bạng, nơi hòn Biện Sơn, nhân số lên tới gần 3.000 người" 2.

Nguồn lợi tức của họ không tuỳ thuộc vào đất ruộng nên họ có gia tư, sản nghiệp lớn, trong lúc đám nông dân đói kém sạt nghiệp và trong lúc đám sĩ phu xuất thân từ đồng quê cũng hoảng hốt trước tình cảnh thảm thương xảy ra chung quanh nên đâm ra chán đời, bi quan 3. Họ sống sung túc rồi muốn danh vọng. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng ở trong số đó 4.

Ông người làng Đông Hải, huyện Nghi Lộc, trấn Nghệ An. Không phải tình cờ mà cha ông lái buôn, gia tư kể hàng vạn, có con đỗ Hương cống mà vẫn cứ nương tựa Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc. Đó là vì võ quan cần tiền của lái buôn và lái buôn cần thế lực của nhà quan để làm giàu cho dễ.

Cuộc sống sung túc tạo cho Chỉnh hơn người. Học khắp các kinh sử, đỗ Hương cống năm 16 tuổi, hay Nôm (nghĩa là không chịu nho hoá), hào hiệp, giao du rộng rãi, ứng biến lanh lẹ, giỏi thuỷ chiến đến có danh hiệu "con cắt nước", Chỉnh là một bộ mặt đặc biệt, nổi bật của Bắc Hà thời ấy. Chỉnh ý thức được tài mình, cho nên không phải là quá huênh hoang khi ông nói với Nguyễn Huệ: "Nhân tài Bắc Hà có một mình Chỉnh, Chỉnh đi rồi ấy là cái nước trống không".

Mơ ước làm chim bằng tung cánh đến xưng tước là Bằng lĩnh hầu, Bằng quận công, Chỉnh có tầm mắt rộng rãi hơn bọn sĩ phu, võ quan đương thời. "Thiên hạ vạn nước, lo gì không chỗ đi", đó là lời Chỉnh trả lời thái độ rụt rè của Trấn thủ Nghệ An, em rể Quận Việp, khi phải trốn cái vạ Quận Huy bị quân Tam phủ giết chết. Nguyễn Nhạc, Châu Văn Tiếp rồi bây giờ Nguyễn Hữu Chỉnh, những người khác xứ, lúc bạn lúc thù nhưng đều giống nhau ở chỗ xuất thân, đó là những bộ mặt nổi loạn làm khuấy đảo thêm dữ dội xã hội Đại Việt của thế kỷ XVIII vậy.

Tháng 11 Nhâm Dần (1782), Chỉnh đi theo Tây Sơn, "ngày đêm vì giặc bày mưu thiết kế". Sử quan nhà Nguyễn thấy rõ rằng Chỉnh "rốt lại thành mối lo cho Bắc Hà" 5. Nhưng vượt trên sự lo lắng cho cơ nghiệp một dòng họ, ta cũng thấy việc Chỉnh vào Quy Nhơn là quan trọng: đó là sự tập trung, hợp tác của những năng lực làm gẫy đổ cơ cấu chính trị đương thời, đó là sự tiếp sức làm đổ vỡ nốt cái thế phân tranh cũ kéo dài hơn hai trăm năm rồi.

Tây Sơn mạnh, điều đó không ai là không nhận thấy. Lê Quý Đôn đem chuyện sấm ký, nói Tây Sơn có đất thiên tử chẳng qua cũng chỉ thay người đương thời ý thức được cái sức mạnh đó mà thôi. Từ khi đuổi đánh quân Xiêm vào đầu năm 1785, quân Tây Sơn bắt đầu dòm ngó phía bắc, nơi kinh đô cũ của Chúa Nam Hà. Chiếm được Thuận Hoá mới là đạt đến cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc như khi ông thổ lộ với Chapman từ 1778.

Trong khi con hổ non Tây Sơn gầm gừ nhìn ra thì con sư tử già Trịnh đã tàn tạ đến mức không thể cử động được. Những Linh mục thời bấy giờ ở Bắc Hà đã ghi lại những thiên tai, thuỷ loạn mà dân chúng phải gánh chịu. Đó là những trận hạn hán ghê gớm "làm dân xứ Nghệ không gặt được hột nào". Trận dịch trâu bò tiếp theo vào năm 1784 làm chết 2/3 súc vật khiến cho người phải cày bừa thay. Nghề chài, nghề đã làm giàu cho cha Nguyễn Hữu Chỉnh ở xứ Thanh Nghệ cũng tàn tạ vì bão tố năm 1785. Trước khi Tây Sơn tới Bắc Hà phải chịu nạn đói vì lụt to, hạn lớn, sâu bọ nhiều, vì dịch đi tướt 6.

Những tai hoạ do nhà cầm quyền gây ra càng làm cho dân chúng điêu đứng hơn nữa. Những chương đầu của quyển Hoàng Lê nhất thống chí cực tả được tình trạng rối loạn chính quyền ở Bắc Hà vào những năm này.

Chúng ta thấy được đám quần thần văn võ chuyên nịnh bợ đưa đón lời Trịnh Sâm, chúc mừng Trịnh Cán. Có kẻ chuyên tố cáo người để làm quan như Đốc đồng Nguyễn Huy Bá ở trấn Thái Nguyên, có kẻ như Đặng Mậu Lân cậy quyền Thứ phi, làm nhục quan quân, bắt hiếp vợ con dân gian, thậm chí đến giết sứ giả Trịnh Sâm sau khi hỏi một câu rất hách: "Chúa là cái gì?"

Chúa là cái gì? Thực vậy, Chúa bị khinh khi vì gia đạo không yên. Trịnh Sâm yêu quý Thứ phi Đặng Thị Huệ, muốn cho con Huệ là Trịnh Cán lên nối nghiệp. Con trưởng Sâm là Trịnh Tông tưởng có thể nhân lúc Sâm nổi chứng đau bụng kinh niên nguy kịch mà mưu đồ giành quyền binh, nhưng thất bại gây ra vụ án Canh Tý (1780) mà lời than van uất ức của một nạn nhân là lời kết án chế độ: "Trời không có mắt, trào không có quan để cho Quốc Chấn chết oan".

Đám ưu binh Tam phủ mà số lượng độ chừng 25 - 30.000 người 7 dùng để bảo vệ Chúa, thường ngày không có việc gì làm ngoài việc phá phách dân chúng, đe doạ các quan, bây giờ mới chen vào việc nhà Chúa. Trịnh Sâm mất sau hàng năm sống tránh ánh sáng mặt trời 8 để Trịnh Cán lên ngôi gây nên cái hoạ tương tranh. Kiêu binh phế Cán sau khi giết Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, người che chở Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi lập Trịnh Tông lên ngôi Chúa trong một cảnh mà Ngô Thì Chí tả một cách mỉa mai.

Quyền binh từ nay ở trong tay Kiêu binh. Chúa lập được thì vua cũng do họ lập được nốt. Họ hoành hành tàn phá phố phường dữ dội nhất vào những tháng đầu năm Giáp Thân (1781) 9.

Tình hình Bắc Hà như vậy, Chỉnh hay biết cặn kẽ nhờ căn vặn một thuyết khách của Chúa Trịnh. Cuối mùa xuân Bính Ngọ (1786), Trịnh Phu Như từ Thuận Hoá vâng mệnh trấn tướng Phạm Ngô Cầu vào Tây Sơn điều đình việc biên giới nhưng lại thóc mách nói cho Chỉnh rõ về tình hình đói kém ở Bắc Hà, dân với lính không ưa gì nhau. Với một viên trấn tướng đần độn, chậm chạp như Phạm Ngô Cầu thì ba vạn quân dưới quyền điều khiển của các viên Đại tướng, Phó tướng, Đốc thị, Phó Đốc thị cũng không thành một lực lượng gì hết, huống hồ là cách cai trị gay gắt, cướp bóc trong một xứ vừa qua nạn đói lại khiến cho người dân càng thù ghét lính tráng.

Cho nên, cuối tháng tư âm lịch Bính Ngọ, quân Tây Sơn trực phát Thuận Hoá dưới quyền Nguyễn Huệ có Vũ Văn Nhậm làm Tả Đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Đô đốc với Tiết chế Nguyễn Lữ đi tiếp ứng 10. Đánh trúng vào tâm lý mê tín của Phạm Ngô Cầu, Tây Sơn mưu khiến Cầu lập đàn chạy suốt 7 ngày đêm, mệt mỏi tướng sĩ, để hoảng hốt thấy giặc ầm ầm kéo đến không đường chống cự 11. Đại diện cho nhóm "treo cờ điều" quyết chiến 12 ba cha con Hoàng Đình Thể và tướng Vũ Tá Kiên chết ở ngoài thành Phú Xuân vì Cầu muốn hàng đã không tiếp tế thuốc đạn. Số mệnh của ông quan Đại muốn "treo cờ bạc" này cũng không hơn gì: ông bị tống về Quy Nhơn rồi bị giết. Tây Sơn ca khúc khải hoàn vào Huế ngày 14-6-1786.

Trong trận này, quân lính Bắc Hà ở Phú Xuân rất ít người chạy trốn được về, lớp bị Tây Sơn giết, lớp bị dân chúng Thuận Hoá trừ.

Chiến tranh tàn sát vẫn được coi là vết nhơ cho Tây Sơn, nhưng không phải họ không có lý do để bào chữa. Lý do đó nằm trong nguyên tắc hành quân của họ. Đánh mau, đánh mạnh, đánh bất thần thì tất luật lệ giết chóc của chiến tranh được thi hành triệt để.

Người ta cũng có thể coi việc Tây Sơn trong trận đánh Thuận Hoá phá huỷ một chiếc tàu Bồ từ Macao tới, dìm nước anh em viên chủ tàu, giết hai người thuỷ thủ 13 như là một chứng cứ về lòng hiếu sát của họ. Thực ra, chúng ta lưu ý rằng thuỷ quân của họ chỉ là một đoàn thuyền 14 tuy tới hơn 400 chiếc, nhưng vẫn ọp ẹp so với chiếc tàu đồng Tây phương ở vùng tiến quân. Họ đã có kinh nghiệm của trận chiến mùa xuân 1782 ở sông Ngã Bảy. Phải đánh ồ ạt để lấp liếm cái yếu kém kỹ thuật của họ. Cho nên, phải tàn sát. Chứ bình thường họ cũng biết cố tìm cách lôi kéo các nước Tây phương theo họ.

Cuối năm 1785, một chiếc tàu Macao bị gió bạt vào Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc tịch thu chiếc tàu đó, cho người lái nhưng vụng về để chìm mất. Chủ tàu và thuỷ thủ được trả về Macao có lẽ vào lúc xuất quân đánh phú Xuân (5-1786). Tây Sơn cho người theo mang thư cho toàn quyền Manille xin giao thương và mua đại bác để đánh giặc, mua đồng để đúc tiền và luôn thể dò xét xem Nguyễn Ánh có đi Manille với Bá-đa-lộc không 15. Nhưng dù sao chiến tranh cũng đưa họ tới chỗ cô lập với bên ngoài cũng như sẽ cô lập với dân chúng vì tính cách tận dụng nhân lực của họ.

Sau khi chiếm được Đồng Hới, đuổi tướng Ninh Tốn chạy về Bắc, Tây Sơn dừng lại. Thực vậy, vì như đã nói, đó là cùng tột ước muốn của Nhạc: chiếm để làm chủ cả giang sơn "họ ngoại" của mình. Ý định đó thể hiện trong việc xây lại luỹ Thầy cao 19 bộ, dày 1 sào. Không ai được ở nhà, cả đàn bà, con gái, người goá - trừ người còn cho con bú, đều phải đi đắp luỹ hoặc vào rừng đốn cây. Dịch vụ đó lại làm hao tốn thêm một xứ sở đã ít người sẵn vì chiến tranh, dịch tể, đói kém. 16

Nhưng nếu Tây Sơn của Nguyễn Nhạc bắt đầu phải dè dặt thì Tây Sơn của Nguyễn Huệ với viên tướng chưa hề thua 33 tuổi tất không thể dừng lại bên dưới sông Gianh mà phải làm cái gì để "phô trương lòng gan dạ của họ". Lại thêm vào đó là viễn tượng chiếm lại số vàng trong kho Phú Xuân mà Trịnh đã lấy về 12 năm trước, chưa kể kho vàng của chính họ Trịnh 17.

Nếu Nguyễn Huệ còn ngần ngừ thì có Nguyễn Hữu Chỉnh để đốc xúi thêm vào. Đem binh pháp ra để khuyến dụ Huệ, vạch rõ đất Bắc chỉ còn cái vỏ rỗng không "tướng trễ, binh kiêu, triều đình không kỷ cương", dùng chiêu bài Phù Lê, diệt Trịnh để tiến quân, dùng viễn tượng thành công lớn trong lời sấm để ngăn cái sợ trái lệnh Vua Anh, Chỉnh thực đã hết lòng tìm cách để trở về quê cũ với uy danh sấm sét vậy.

Nhưng đi đánh một xứ xa cũng phải cần tổ chức thêm lực lượng. Quân của họ lúc từ Quy Nhơn cũng lẫn lộn đủ thứ hạng và giống người. Ngoài người Việt Nam Hà, tất nhiên, họ còn có "những người Mường, Man di và các bọn mọi khác như Cao Miên, Cambien (?), Xiêm..". 18, nghĩa là có thể nói đám người thiểu số miền núi, đồng bằng Nam Hà, đám tù binh ở chiếc tàu Bồ, trong các trận chiến thắng trước ở Gia Định. Bây giờ họ phải lấy thêm quân Thuận Hoá, Bố Chính. Tù binh Bắc Hà thì không còn nữa. Dân số ở đây lại sụt xuống nhiều vì đói, dịch tể đến nỗi người ta phải lôi đàn bà đi đắp luỹ sửa đường. Chỉ còn những người của các tôn giáo lẩn lút đứng ngoài chiến tranh là còn đông đúc. Cho nên, từ Phú Xuân cho tới sông Gianh, chỉ trong 5 ngày, tất cả đều bị bắt đi. Tây Sơn phá các chùa chiền và ép các nhà sư phải mang khí giới đi đánh giặc 19. Những tín đồ Công giáo cũng không được chừa, hầu hết đều phải gia nhập vào đoàn quân viễn chinh ra Bắc 20. Ngoài ra, Tây Sơn cũng cần kim khí. Họ phá nhà thờ, chùa chiền, một phần để bắt người, một phần để tìm các tượng và các chuông về đúc súng đại bác 21. Đáng lưu ý là đám tân binh bị bắt buộc vác súng này, một khi bị lôi cuốn vào trận địa, vẫn trở nên những người lính can đảm, có kỷ luật.

Trước khí thế ào ạt như vậy, Thăng Long lại không nghĩ gì đến chống đánh. Họ cho đất Thuận Hoá là đất Nam Hà, mất đi cũng là "điều may", chỉ cần giữ Nghệ An là được. Quân tướng sai đi trấn Nghệ An dưới quyền Trịnh Tự Quyền thì trùng trình đến 10 ngày chưa xong việc chỉnh bị.

Trong lúc đó thì Tây Sơn đã ra. Nguyễn Hữu Chỉnh lãnh 150 thuyền 22. đi trước vào cửa Đại An nhắm vào kho lương Vị Hoàng (Nam Định) tấn phát. Trên đường đi, trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Toại, Thanh Hoá - Tạ Danh Thuỳ nghe gió bỏ thành chạy. Tướng giữ Vị Hoàng cũng không hơn gì. Chỉnh thu được ở đây hàng trăm vạn hộc lương, giải quyết chắc việc tiếp tế cho quân đội rồi đốt lửa làm hiệu cho Nguyễn Huệ hay biết chiến thắng mà đến (16-7-1786).

Trịnh phải vội vã tổ chức quân chống cự. Trịnh Tự Quyền xuống giữ Sơn Nam đóng ở Kim Động. Bùi Thế Dận đem bộ binh yểm hộ cho Đinh Tích Nhưỡng dẫn thuỷ binh đến cửa Luộc. Nhưng quân Tây Sơn cũng vừa đến đánh tan quân Nhưỡng, xua Dận, Quyền chạy rồi chiếm giữ phố Hiến ngày 19-7. Hôm sau đoàn thuyền trực chỉ Thăng Long 23.

Tướng tá Kinh đô lo chạy vợ con, cất giấu của cải, không một người nào dám đánh giặc. Tham tụng Bùi Huy Bích bị công kích rồi bị Tông bãi chức, bắt ra trận đốc chiến. Trần Công Xán hiến mưu Chúa, gọi Hoàng Phùng Cơ, bộ tướng Hoàng Ngũ Phúc trước kia, từ Sơn Tây về góp 300 bản bộ binh với 1.000 người vội vã chiêu mộ bằng 5.000 lạng bạc quân phí, tất cả đem ra đóng ở hồ Vạn Xuân. Thuỷ quân của Kinh kỳ cũng đến đóng ở bến Thuý Ái chờ giặc.

Nếp sống thái bình, lừ đừ đã quen thói, quân Trịnh không lường được sức đánh hoả tốc của Tây Sơn. Giặc đến mà lính tráng không kịp lên thuyền để viên Thiên tướng Ngô Cảnh Hoàn một mình đầu thuyền cự chiến, bị súng lớn bắn chết lôi theo cái chết thảm thương hơn của người vợ bé Phan Thị Thuấn. Quân Tây Sơn đã ùa lên bộ mà quân Phùng Cơ còn ăn cơm thì cái thế thua thật đã rõ rệt nghiêng về phía nào rồi.

Tây Sơn chém giết cho chán rồi tiến quân lên bến Tây Long. Đám lính hộ vệ kinh thành bây giờ mới cho người ta thấy xấu hổ với danh vị ưu binh. Nghe súng hoả mai của giặc họ "sợ mất vía, bỏ cả khí giới, chạy thục mạng". Cây cờ "Diệt Trịnh phù Lê" phất phới trên thành Thăng Long khiến cho "chỉ có Chúa Trịnh, bộ hạ cùng binh lính chạy trốn thôi" (21-7-1786) 24.

"Giặc Quảng" tiến vào Trịnh phủ lấy vàng bạc, súng lớn, súng tay, đồ đạc, voi ngựa, chỉ để lại cái xác vôi gạch. Quân tướng Tây Sơn chui rúc ở các chùa, vứt chôn các pho tượng, không một mặc cảm nào hết 25. Binh lính cũng mang tinh thần cương cường của chủ tướng. L.M Le Roy ở Kẻ Vĩnh thấy họ đi lính "không lương, không tiền", mà "không lấy cái gì của người Bắc hết, hoặc ăn cơm không muối, uống nước lạnh và ngủ ngoài trời" 26. Ở cửa Bạng, La Mothe thấy họ cướp bóc, đốt phá, nhưng giết người rất ít, vì có lệnh cấm của "bạo chúa" 27. Họ trị tội bọn trộm cướp một cách giản dị đến thành thô kệch, tàn nhẫn: có ai cáo là không cần phải dông dài, họ chặt đầu tức khắc 28. Hình phạt cũng không miễn trừ cho binh lính họ.

Nhưng chiến thắng không đủ, người ta còn phải hợp pháp hoá việc tiến quân đối với dân chúng. Thực ra, ở cửa miệng người mạnh việc gì không phải. Ở đây, như đã thấy, người ta có sẵn để lợi dụng một chiêu bài cũ kỹ: "Phò Lê diệt Trịnh" và một lời sấm truyền tụng từ lâu trong dân gian rằng Trịnh sẽ mất nghiệp Chúa. Lẽ Trời như vậy, Tây Sơn chỉ là kẻ đại Thiên hành đạo thôi. Cho nên, Lý Trần Quán dù có tự phụ "đạo hiếu 3 năm đã trọn" có nhắc đến nghĩa vua tôi, tình thầy trò cũng không ngăn được tên học trò Tuần huyện Trang bắt Đoan Nam vương Trịnh Tông đem nạp cho Tây Sơn với cái lẽ giản dị "sợ thầy không bằng sợ giặc, quý Chúa không bằng quý thân".

Điều đó cho ta thấy sức phân ly của xã hội Bắc Hà đương thời. Những biến loạn trước xưng là diệt Trịnh phò Lê nhưng không có được những lực lượng kết tập to lớn. Đám nông dân trung châu đi theo Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương... chẳng hạn, vì nghèo đói, bất mãn quan lại mà vác bừa vác gậy làm giặc, mỗi nơi mỗi nhóm chứ thương gì Lê! Đám sĩ phu, võ tướng thấy ngồi ở phủ Chúa cũng không khác gì Điện Vua, làm Bồi tụng cũng giữ ngôi Tể tướng thì có gì mà thắc mắc đổi thay? Còn Nguyễn chúa ở phương Nam muốn nói đến nghĩa tôn phù - để giữ độc quyền tôn phù, thì cũng không đủ sức đem binh qua 7 huyện Nghệ An. Những lực lượng phân tán của xã hội Đại Việt chỉ vừa đủ để giữ ngôi vua Lê chứ không đủ để trao lại thực quyền cho dòng họ này.

Rồi theo dần với thời gian, các vua Lê không dự vào chính sự trở nên vô tài, dung thường. Điển hình nhất là ông vua già, bệnh Lê Hiển Tông. Làm vua mà "khoanh tay rũ áo, tìm trò mua vui", bị Trịnh Sâm đè nén mọi cách vẫn cười cợt mới có thể làm vua lâu dài. Nhưng lâu dần tính cầu an thành trầm trệ đến nỗi không muốn Trịnh chúa mất nghiệp, sợ "mất kẻ gánh cái lo", đến nỗi Kiêu binh xin tôn phò, chính ông doạ tố cáo với Đoan Nam vương, đến nỗi được Nguyễn Huệ trao quyền thì không mấy vui, coi đó là "một gánh nặng", gả Ngọc Hân cho người để họ chia sớt "lo lắng".

Nhưng ông mai giảo hoạt Nguyễn Hữu Chỉnh chắc không ngờ mình vừa làm một việc thay đổi lớn lao con người của viên tân Nguyên suý Uy quốc công của triều Lê tàn tạ. Viên tướng thường thắng Nguyễn Huệ tuy cầm quân nhiều lần, tuy làm em vua một cõi, có lúc hãnh diện là "kẻ bố y", nhưng không thoát khỏi mặc cảm làm kẻ mường mán trong hang hốc xa xôi. Làm rể một giòng vua có quá khứ 400 năm, có người vợ kinh sử làu thông, Nguyễn Huệ lớn lên trước chính mình sau mười mấy năm hiên ngang trước binh tướng. Can dự vào việc lập Tự Hoàng, lo lắng cho việc chôn cất Hiển Tông, ông đã không là khách trong nước An Nam này nữa. Mối dè dặt, e ngại can thiệp vào đất Lê cứ dần dà xoá tan trong đầu óc ông cho đến khi có những cuộc tiến quân sau. Nhưng hiện tại ông chưa dám bỏ ý tôn Lê. Tây Sơn còn lo đề phòng loạn ở các trấn của các tướng mất chức biến thành cướp như Đinh Tích Nhưỡng chiếm Cẩm Giang ở Hải Dương, của viên văn quan trở thành tướng bất đắc dĩ, Dương Trọng Tế, chiếm huyện Gia Lâm ngay bên thành Thăng Long. Nguyễn Huệ lo tìm cách cải thiện, tăng cường chiến cụ bằng cách tìm thợ rèn, và chỉ chăm chú rút về. Việc Nguyễn Nhạc hối hả ra Thăng Long làm cho ý định thêm chắc chắn.

Họ hàng Tây Sơn bàn mật ngày rút quân về mà không cho Chỉnh dự vào. Ngô Thì Chí cho là Vũ Văn Nhậm ghét Chỉnh, xúi Huệ bỏ rơi cho người Bắc Hà giết, tiện cho việc chiếm đất sau này. Nguyên cớ hiềm khích nhỏ mọn, lễ vật dân chúng đưa cho Chỉnh nhiều hơn cho Nhậm - cho ta thấy một lý do là sự cô lập của Tây Sơn giữa dân Bắc Hà. Tây Sơn chưa hẳn thù ghét Chỉnh, nhưng trước sự đắc thế, quen thuộc, cá trong nước của Hữu quân họ, một người vốn tự nhận có tài, dễ muốn làm việc độc lập, họ phải nghi kỵ.

Thế rồi nửa đêm 31-8-1786 Tây Sơn lén lút đi, thình lình như khi họ tới, duy không có Chỉnh cùng về. Biết được tình hình Bắc Hà yếu ớt, họ không nề hà gì mà không chiếm lấy một ít đất. Đóng quân ở dinh Vĩnh mươi ngày, họ cho Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, Vũ Văn Dũng 29 ở Hà Trung (Thanh Hoá) lui về châu Bố Chính, để Vũ Văn Nhậm giữ Đồng Hới ứng tiếp nhau. Nhân dịp đó, họ vơ vét kho tàng phủ Yên Trường chứa bảo vật của họ Trịnh ở xứ Thanh. Quân lính cũng thừa cơ trên đường về mà "cướp đoạt hai bên sông, bắt cóc đàn bà, con nít, làm nhiều điều nhơ uế" 30.

Nguyễn Hữu Chỉnh ở Kinh đô vội vã cướp thuyền chạy theo kịp. Nguyễn Huệ khôn khéo lấy cớ ngoài Bắc còn có Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng chưa trừ được nên cho vàng bạc, lưu Chỉnh lại Nghệ An rồi rút binh về thành Phú Xuân trong khoảng tháng 9-1786 31.

Trong một chuyến phiêu lưu dài 3 tháng, quân Tây Sơn đã đem lại tan rã cho đất Trịnh từ Thuận Hoá ra Thăng Long. Bắc Hà như một ngôi nhà ọp ẹp, bị xô đổ không gượng dậy được, một cái "nước không" như lời Chiêu Thống nói, chỉ còn chờ Tây Sơn ra cướp lần nữa là xong. Nhưng chuyến phiêu lưu dài này không phải là không có kết quả dội lại trong nội bộ Tây Sơn. Phản ứng dội ngược lại tai hại đến mực không ngờ có ảnh hưởng to lớn đến vận mệnh của họ 32.

Nguyên nhân * Chiến tranh * Kết quả: "ngư ông" Nguyễn Ánh.

Vào đầu năm 1787, trong khi người ta tưởng những lực lượng thống nhất có cơ tập thành thì một biến chuyển lớn lao làm tan vỡ viễn tượng đó: anh em Tây Sơn, hay nói đúng hơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đánh nhau. Tại sao có thể xảy ra như vậy?

Sách Hoàng Lê cho chúng ta biết sự rạn nứt có từ lúc Nguyễn Huệ nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh "tự chuyên" kéo quân ra Bắc. Chúa Tây Sơn vốn biết Huệ "khôn ngoan", "giảo quyệt" sợ Huệ lấy Bắc Hà trở về hợm hĩnh, khó mà kìm chế. Khi tiếp được thư báo Bắc Hà lấy được rồi, Nhạc lại sợ Huệ cầm đại quân ở xa, có tướng tài trong tay sinh biến, nên lật đật ngày đêm dẫn bộ binh ra lôi về. Mối rắc rối quyền bính này tưởng có thể dẹp yên được khi Huệ ra tận ngoài cửa ô Thăng Long đón tiếp Nhạc, dâng binh phù, tạ tội, dẫn về nhà giới thiệu vợ mới cưới, anh em đối đáp "y như anh em các nhà thường dân".

Nhưng chúng ta thấy mối nứt rạn vẫn còn: Nguyễn Nhạc nắm quyền thấy rằng cơ ngũ đã được đổi mới dưới quyền Huệ mà vẫn phải để nguyên. Xung đột nổ bùng khi quân Tây Sơn về đến Huế. Sách Hoàng Lê mượn lời Nguyễn Hữu Chỉnh tâu với Chiêu Thống mà nói rõ mối biến loạn này:

"Vua Tây từ khi về Nam thì kéo về luôn quốc thành, còn Thượng công thì ở Phú Xuân, nghỉ quân mua vui, hoặc là ban bố mệnh lệnh, sửa sang thành lũy. Bao nhiêu quân tướng, khí giới, các vật quý báu lấy được ở Bắc đem về, Thượng công đều chứa vào một chỗ, vua Tây cho người ra vời, Thượng công cũng không chịu vào chầu. Rồi thì phong quan ban chức, Thượng công đều tự quyết định, không hỏi gì đến vua Tây. Vua Tây cho người đem ấn ra phong Thượng công là Bắc Bình vương và hỏi những thứ của báu bắt được ở phủ Chúa Trịnh, Thượng công cũng không chịu trả lời. Vua Tây giận lắm, vì thế anh em mới gây ra cuộc binh đao".

Sử quan nhà Nguyễn khi bàn về chỗ này quy tội thực nhiều cho Nguyễn Nhạc. Họ cho rằng từ lúc đánh Bắc Hà thắng, Nhạc đắc chí, ngày càng buông thả dâm loạn, giết Nguyễn Thung, người cộng sự lúc đầu, lại hiếp vợ Huệ, "người người đều ghê tởm". Trong chuyến Bắc xâm, vàng bạc quý giá của Trịnh phủ Nguyễn Huệ lấy, Nhạc đòi không cho Huệ và ông lại còn tranh chiếm đất Quảng Nam nữa 33. Do đó, chiến tranh mới nổ bùng.

Một nhân chứng đương thời tại chỗ viết thư nói về việc xảy ra sau ngày Tây Sơn ở Bắc về, kể nhiều điểm tương tự với các người Việt: Nguyễn Huệ "để Nhạc đi về Quy phủ và ngay sau đó bắt dân chúng tôn lên làm Đức Chúa; Nhạc biết tin không bằng lòng nên nhiều lần đe doạ em..." 34.

Như vậy việc Huệ tự chuyên ở Huế, không muốn thuộc dưới quyền Nhạc nữa được xác nhận ngay cả trong lặng yên (lạ kỳ, có vẻ thiên vị đối với Huệ) của sử quan bởi vì Nhạc đã lôi em từ Bắc Hà về mà phải chịu để Huệ ở lại Phú Xuân với vàng bạc cướp được chứ không kéo được về ngay Hoàng Đế thành như những lần Nam chinh. Sở dĩ Nhạc chịu về Quy Nhơn một mình vì mối lo của Nhạc đã thành sự thực: binh lính quen chịu sự điều khiển của Huệ phần lớn đã theo ông này. Hoàng Lê cho ta thấy lúc Nhạc thu lại binh phù ở Bắc thấy có nhiều sự đổi thay, sắp đặt quân ngũ khác đi nhưng giả vờ không hay biết gì hết. Ông không thể làm khác hơn ở đất địch, nhưng về tới Phú Xuân ông cũng không lấy lại được thực quyền: một phần rất lớn thuỷ quân đã theo Nguyễn Huệ 35. Do đó, ta thấy hành động "dâm, sát" ở Quy Nhơn của Nhạc có thể coi là vì phẫn chí, vì mối bận tâm thanh toán nội bộ hơn là vì đắc chí như lời sử quan.

Nhưng tại sao bỗng dưng lần này Huệ trở chứng với ông anh khi đã không có gì xảy ra hết trong những chuyến viễn chinh Gia Định? Đó chính là vì Tây Sơn đã tiến đến một giai đoạn khác trong sự phát triển của họ. Một biến cố có căn cớ sâu xa bắt nguồn từ những chuyển biến lịch sử bên trong cũng như bên ngoài nước như biến cố Tây Sơn, tất có những giai đoạn phát triển khác nhau, kế tiếp nhau mà từng cá nhân đang đóng vai tuồng lịch sử đó không thể thấy được vì phải chịu giới hạn của cá tính, giáo dục, thành kiến thu nhận và khoảng thời gian sống nữa. Hãy trở về Nguyễn Nhạc. Như ta đã nói, ước vọng của Nhạc thổ lộ với Chapman là chiếm cả giang sơn Nam Hà, và chỉ chừng ấy đủ rồi. Ông vẫn tự nhận mình là vua Tây Sơn, "vua Trời" của binh dân đất Nam Hà. Đối với đất Bắc, ông trở lại thời kỳ thường dân xa xưa, mặc cảm tương tự xuất hiện như khi mới gặp Chapman ông đã vội vã thanh minh việc nổi loạn khiến người khách buôn này không khỏi ngạc nhiên. Trên đường lật đật ra Bắc, Nguyễn Nhạc gặp ở Nghệ An một đám dân quê khúm núm dâng lễ vật, gọi "quan lớn", ông gạt đi:

"Tôi không phải là quan lớn. Tôi là họ ngoại của Chúa Nam Hà vẫn quen gọi là Biện Nhạc đấy... Các người hậu tình thấy tôi đi xa, lương khô ăn nhạt mà đem những món ăn ngon lành biếu tôi, cám ơn, cám ơn..."

Vì vậy khi Nguyễn Hữu Chỉnh mang mầm mống phá hoại Bắc Hà vào miền Nam ươm giống phát triển, ông đã không biết sử dụng để lật đổ chúa Trịnh. Ông đã lớn tuổi rồi, từ một tên Biện lại làm loạn (cho dù có ý thức) lên được vua Trời, thế là đủ lắm rồi.

Nguyễn Nhạc dừng lại, nhưng những động lực vô ý thức của lịch sử vẫn thúc đẩy con người tiến tới. Ta thấy Nguyễn Hữu Chỉnh xui được Tây Sơn ra Bắc xô nốt dấu vết của nền phân tranh cũ. Rồi trong chuyến đi đó, ta đã thấy Nguyễn Huệ lớn lên như thế nào. Tuổi còn trẻ, ước vọng còn lớn, chuyến ra Bắc với đất Bắc tan rã hé cho ông thấy có cả một xứ sở dưới dấu vết đổ nát vẫn chứng tỏ tràn trề sinh lực, của cải phong phú, xứ sở đó sớm muộn gì cũng vào tay anh em ông. Thế mà ông cứ cản lại, "sợ khó kìm chế" ông. Lời hịch lúc đánh nhau có chữ chê Nhạc "khinh suất, can không nghe" 36. Khinh suất, can không chịu nghe chính vì Nhạc tự mãn trở nên coi thường những khuyến cáo đổi thay, trong lúc Huệ còn muốn tiến nữa 37.

Thế là anh em chia lìa. Quân đi Bắc đã có cơ ngũ đổi thay, khác với lúc xuất phát, đã luyện thành nếp mới. Một phần nữa họ là dân Thuận Hoá, Bố Chính, có thể có lính Bắc Hà, họ thích ở lại Huế hơn. Cho nên Nhạc về Nam mà Huệ còn giữ được quân.

Khi ra Bắc, Tây Sơn chiếm được kho tàng của Trịnh như các chứng nhân đã nói. Vàng bạc vốn không phải chỉ cần thiết cho bề ngoài một triều đình mà còn thiết yếu cho việc binh nhung nữa. Huệ phải giữ lại, và giữ được vì Nhạc cô thế ở Phú Xuân.

Nhưng Nhạc tất nhiên cũng cần vàng bạc. Ta đã thấy Tây Sơn cần tiền như thế nào. Chỉ cần thêm một chứng cớ nữa. Trước khi chiếm Thuận Hoá, vùng Tây Sơn có xẩy ra một vụ rối loạn phong tục do giáo điều Thiên Chúa gây ra, nên nảy sinh một vụ cấm đạo. Ấy thế mà những kẻ nào, nếu nghèo, nộp 10 cân đồng, nếu giàu, nộp từ 100-200 cân đồng thì khỏi phải chối đạo: Đến nỗi L.M Longer phải đưa ra nhận xét: "Có thể là bạo chúa chỉ làm như vậy vì keo cú bòn mót hơn là vì có ác cảm với đạo Thánh" 38. Số chi của quốc gia vì phải trao đổi với bên ngoài trong một tình trạng kém thế nên lại càng gia tăng gấp bội.

Tây Sơn, cả Nhạc lẫn Huệ, đều cần rất nhiều tiền. Nhạc đòi vàng đất Bắc, Huệ cố giữ và nhân đã có mâu thuẫn cũng muốn chiếm luôn kho vàng ở Quy Nhơn. Chiến tranh xảy ra.

Một bức thư viết ngày 12-5-1787 cho biết chiến tranh xẩy ra đã 3 tháng rồi 39. Kẻ nào mạnh thì ra tay trước lấn lướt cho nên Nguyễn Huệ mới kéo quân vào Quy Nhơn trong tuần lễ Tro (21-2-1787) 40. Số lượng quân đi, kẻ ước lượng 60.000 người 41, người tính đến 100.000 42. chỉ biết rằng với lối hành quân của Nguyễn Huệ số quân không nhỏ được. "Ông bắt tất cả mọi người phải ra trận", tất cả nghĩa là mọi người "từ 15 đến 60 tuổi". Cho nên vùng Thuận Hoá, nhà thờ biến thành trại lính, tượng thần phật bị lấy ra đúc súng đại bác, đúc nồi 43. Khi quân đi rồi không còn đàn ông, ở nhà chỉ có đàn bà, kẻ mất cha, người mất con, kẻ lại mất chồng.

Họ, những lực lượng quyết định tình thế trên giải đất này họ đánh nhau rất dữ. Lại bộ Hồ Đồng bị bắt ở trận Đồng Tuyên trước làm cho Nguyễn Huệ một bài hịch, chửi bằng "sài lang, chó heo" để kể tội Nhạc "làm nhơ uế cả một triều", "khinh suất, can không nghe" và cả quyết rằng "ngôi báu tất phải đổi dời".

Quân Nguyễn Huệ vào vây thành Quy Nhơn, đắp núi đất đặt đại bác bắn đổ vào. Nhạc kêu khóc ở đền thờ cha mẹ rồi kêu Đặng Văn Chân ở Gia Định về tiếp cứu. Chân đem binh về đến Tiên Châu (Phú Yên) thì bị đánh tan, chính mình phải đầu Huệ làm tỳ tướng 44. Hai ba lần giáp công, Huệ cũng bị mất đến nửa số quân và phải lấy thêm lính Thuận Hoá, bắt những kẻ vừa đủ 15 tuổi 45.

Nhạc phải lên mặt thành, khóc kêu gọi tình anh em ruột thịt cho Huệ giải vây. Tinh thần ăn đều chia đủ của anh em họ thật cũng đáng khen, nhưng đã đem lại tai hại không nhỏ cho triều đại. Trần Văn Kỷ của Nguyễn Huệ bèn lấy Bến Ván làm địa giới ngăn cách đất của Bắc Bình vương và Thái Đức Hoàng đế. Còn "chú Bảy" thì được đất Gia Định với tước Đông Định vương 46.

Cuộc chiến này thực là một kinh ngạc lớn cho dân chúng thời bấy giờ 47. Uy danh của gia đình Tây Sơn bị hạ xuống, người ta trông ngóng về một ông Chủng nào đó mà người ta chỉ biết là kẻ còn sót lại của triều đại vừa trị vì. Theo lời đồn thì người Hồng Mao sẽ đem Nguyễn Ánh trở về ngôi vị cũ. Chứng cớ rõ ràng là từ năm vừa qua có mấy chiếc tàu ngoại quốc đi dọc theo bờ biển Nam Hà, lăng xăng dò đường nước nông sâu, ghé vào cửa Thi Nại, rồi khi gặp thuyền buồm Tây Sơn cản lại thì nổ súng. Rõ ràng lắm là tiếng đại bác vọng lại từ bờ biển. Thế lực ông Chủng mạnh như vậy nên, cũng vẫn theo lời đồn, vua Trời bị ông em quý thúc đánh thái quá đã phái người xin với ông trả lại ngôi báu mà tên bà con họ ngoại này đã chiếm đoạt. Tiếng đồn chỉ dựa trên một sự thực là các tàu De Castries, La Dryade, Le Pandour lảng vảng ngoài bờ biển Nam Hà để dò xét tình hình xem có tiện cho một cuộc can thiệp không, thế mà gặp dịp lại được dân chúng thổi phồng lên tạo ra một dư luận mong ngóng về một vị cứu tinh nơi xa, trong lúc vị này đang bị giam lỏng và chăm chắm thoát khỏi thành phố Vọng Các.

Trong đám binh tướng Tây Sơn có kẻ ngả theo phe này hay phe khác, nên ngoài chiến tranh giáp công chính thức, Nhạc và Huệ còn lo thanh toán nội bộ. Có hai trường hợp điển hình: Nguyễn Văn Duệ, tướng Nhạc ở vùng Huệ và Nguyễn Đăng Vân, con nuôi Huệ ở vùng Nhạc.

Nguyễn Văn Duệ vốn được Huệ cho giữ Nghệ An để kìm chế Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh ra Bắc đuổi Trịnh Bồng, được thư Duệ hẹn cùng đánh vào, bèn sắp 10 lượng 10 tấm đoạn xúi Duệ mưu chiếm Nghệ An. Việc Duệ làm loạn này cũng là do mưu kế của Nguyễn Huỳnh Đức, người bị Huệ bắt sau trận Đồng Tuyên (1783) được cho làm tướng cùng giữ Nghệ An với Duệ mà lòng cứ đồ mưu về chúa cũ 48. Việc bị Vũ Văn Nhậm phát giác. Đức xúi Duệ đem quân theo ngả Thượng Lào về Quy Nhơn và lãnh quân đi trước. Nửa đường Đức bày tỏ ý thật và dụ Duệ theo mình đi tìm Nguyễn Ánh. Nghe Duệ tức giận "thằng này định bán ta đây", Đức tính chuyện không êm trốn thẳng qua Xiêm. Còn Duệ xuống Quy Nhơn.

Được Duệ về giúp, Nguyễn Nhạc lên tinh thần, tưởng có thể phục thù mối nhục kêu khóc năm ngoái. Tháng 3-1788, Duệ kéo quân ra Quảng Nam, nơi "biên giới Chăm". Không được may mắn như năm 1775, Duệ bị quân Phú Xuân đánh tan, thân phải bị bắt cho voi giầy, đầu bêu ở thành Hội An 49. Nhạc hoàn toàn tuyệt vọng không còn sức gượng dậy nữa.

Câu chuyện thanh toán nội bộ cũng xảy ra ở Quy Nhơn: Nguyễn Thung hẳn là một nạn nhân của cuộc xung đột ruột thịt bất ngờ đó. Một nạn nhân khác may mắn hơn vì ở mãi tận Gia Định. Vẫn biết Gia Định của Nguyễn Lữ nhưng vụ Đặng Văn Chân cho ta thấy Lữ theo phe Nhạc. Sử quan nhà Nguyễn chép rằng Nguyễn Đăng Vân là con nuôi của Huệ vượt bể qua hàng ở Vọng Các mùa thu 1787 vì thấy rõ Tây Sơn là "bạn nghịch" 50. Nguyên cớ viện ra để được nhận hàng không đáng kể cũng như câu chuyện về hết mệnh đế vương do Nguyễn Văn Trương bịa ra để hàng vậy. Chúng ta phải lưu ý rằng Nguyễn Đăng Vân là con nuôi yêu quý của Huệ đang ở trong vùng Nhạc và thời gian vượt bể sang hàng là ngay sau khi chiến tranh nồi da xáo thịt xẩy ra ở Quy Nhơn. Đăng Vân tất đã trải qua những dao động mà Nguyễn Văn Duệ đã gặp. Duệ không nghe lời Huỳnh Đức, nhưng Nguyễn Đăng Vân ở một vùng đầy vết tích của Nguyễn Ánh trong lúc con đường về Bắc mịt mù tất phải hướng về Vọng Các. Gió mùa không những chỉ chở quân đi chinh phục mà còn trỏ đường cho tướng trốn chạy nữa vậy.

Nhưng không phải chỉ có vài chuyện đó xảy ra là thanh toán xong mối hiềm nghi của tướng và các phụ tá giữa hai miền. Chúng ta thấy người nắm giữ Tả quân của Huệ ở Đồng Hới là Vũ Văn Nhậm lại là con rể của Thái Đức. Mọi người đương thời rõ ràng thấy Nhậm ở vào thế khó xử, dù muốn tỏ lòng trung thành với Huệ cũng vẫn bị gán cho ý nghĩ "trông về bên trong" (Quy Nhơn). Nguyễn Huệ cũng nghĩ vậy. Tuy nhiên, vốn là một tay có thủ đoạn, Huệ vẫn dùng, dùng mà nghi ngờ. Đến khi trao quyền lớn cho Nhậm đem quân hỏi "tội" Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ mới cần phải lo đề phòng biến loạn, khỏi như ông anh ông trước kia đã không lo đề phòng ông. Cho nên, ông dặn nhỏ Ngô Văn Sở "Điều lo của ta không phải tại Bắc Hà mà là tại Nhậm vậy" 51. Cái thế quân tướng hoài nghi như vậy làm cho Nguyễn Ánh sẽ có một viên tướng tài giỏi chờ đón ở Long Xuyên và cũng để có dịp cho một kẻ chăn trâu leo lên chức Đại tướng quân: Nguyễn Văn Trương.

May mắn cho Nguyễn Ánh hơn nữa là việc chia ba đất nước đã giúp Ánh ngăn cách với kẻ thù nguy hiểm nhất của ông, Nguyễn Huệ, bằng một giải đất của ông vua già Nguyễn Nhạc "ham dật lạc, cầu tạm bợ yên ổn, không tính lo về sau" 52. Thực vậy, Nguyễn Nhạc bị em vây đánh phải khóc mới được hoà, tinh thần suy đốn, không có một phản ứng nào khi Nguyễn Ánh về chiếm Gia Định, bỏ mặc cho Phạm Văn Sâm là một viên tướng tài, trung thành, lo toan đến thế cùng lực kiệt, hàng rồi mà vẫn tính chuyện mưu với Nguyễn Huệ phản Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ cũng không thể làm gì hơn. Như người đồng thời nhận xét: "Ông tập họp quân lính, hoặc để đánh anh, hoặc để đánh ông vua chính thức và có lẽ cả hai mục đích (vì ông không thể đánh ông vua mà không bước qua đất của anh ông" 53. Nhưng như ta đã nói, hoặc tình anh em ruột thịt đã không cho phép ông làm như vậy. Phải đợi đến con ông, tình thân đã cách xa hơn một ít và tình thế cũng bức ngặt đến nơi, họ mới chiếm Quy Nhơn để trực tiếp đối diện với Nguyễn Ánh. Nhưng bây giờ thì chậm mất rồi. Trở lại thời phân làm ba của Tây Sơn, "Gia Định đơn nhược yếu ớt" 54 dưới quyền Nguyễn Lữ là một cơ hội tốt cho Nguyễn Ánh và bọn bầy tôi lưu vong. Họ lục tục trở về.

Bắc Hà hay chế độ cũ dưới mắt Tây Sơn * Trận Đống Đa và tác động tâm lý của nó.

"Sáng ngày khi biết Tây Sơn kéo quân về Nam đêm trước, Lê Chiêu Thống đòi các quan vào triều và hỏi:

- Anh em hắn cướp hết nước ta mà đi, để cái "nước không" lại đây cho ta, nếu như có việc nguy cấp thì lấy gì mà chống chế?

Các quan ngơ ngác nhìn nhau, không biết nên nói thế nào. Tả hữu chợt có người tâu:

- Hôm qua vâng có chỉ truyền sớm nay đặt triều. Bây giờ ngự giá đã tới, dám xin nhắc lại.

Hoàng thượng lại hỏi các quan:

- Triều hãy thôi chăng?

Các quan đều nói:

- Hoàng thượng ra triều để giáng chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn sao lại thôi?"

Một đoạn thuật chuyện trong sách Hoàng Lê vắn tắt cho ta thấy sự tan rã của cái thế thống-nhất-về-Lê. Cái "nước không" mà Lê Chiêu Thống đã nói đây không phải chỉ là không bảo vật, không kho tàng. Nỗi kinh hoàng của Chiêu Thống chính do ở cái không khí trống trơn quyền bính mà Tây Sơn để lại ở Bắc Hà.

Đoan Nam vương chết, Tây Sơn đi người ta cứ tưởng quyền bính từ đây tập trung về tay Lê, nhưng tình thế trái ngược lại vì thói quen lâu đời đã không dễ gì một sớm một chiều xoá nhoà được.

Trước hết là về phía nhà vua. Vị thiên tử 21 tuổi đó có mối thù Trịnh giết cha, có kinh nghiệm tù ngục nhưng chỉ để nuôi dưỡng oán hờn chứ không được chuẩn bị cầm quyền nối ngôi ông nội. Ông chỉ mới muốn tự chủ trong việc chôn cất Tiên đế thì đã bị ông dượng rể giành lấy làm đến phải tạ tội mới được yên thân.

Triều thần nhà vua thì qua 200 năm ở nể cũng không biết việc gì làm hết. Hãy nhìn bộ mặt ngơ ngác của họ khi Chiêu Thống hỏi mưu lược giũ nước. Có kẻ lanh trí nghĩ ra thì chỉ được có mỗi một việc là đặt triều đã nói hôm qua. Thế rồi các quan mừng rỡ nhờ tìm được lối thoát, đốc xúi vua ra triều để được tung hô mừng thời mới. Ừ, việc lớn quá sao lại thôi?

Trong khi đó thì phải thấy rằng thói quen làm việc quanh Trịnh phủ dưới quyền họ Trịnh đã tập thành, để một khi xảy ra biến cố "đám cố gia di thần nhà Chúa" vẫn còn luyến nhớ họ. Hãy nghe Đỗ Thế Long biện hộ cho nhà Chúa mà đàn hặc Nguyễn Hữu Chỉnh:

- "Khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu, cái gì không phải là ơn nhà Chúa. Nay ông lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh để kéo quân ra, thật là quá tệ. Nếu bảo nhà Chúa hiếp chế nhà Vua là việc có lỗi thì sao khôngnghĩ cái công tôn phù hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ tức là bất nghĩa, bới cái lỗi để lấp cái công tức là bất nhân..."

Cho nên khi văn thần của Lê bất lực thì võ tướng làm việc ở các trấn một khi kéo quân về chỉ là để phù Trịnh. Khuôn mặt Trịnh nổi bật nhất là một người đã từng âm mưu giành ngôi anh, tính dựa vào Kiêu binh đoạt ngôi cháu: đó là Trịnh Lệ, em ruột Trịnh Sâm. Được Thì Trung hầu tìm đón về Thăng Long, Lệ nhận cho Dương Trọng Tế phản Chiêu Thống thần phục mình để lập nên triều chúa mới. Một khuôn mặt khác của Trịnh nhu hoà hơn, nhưng nhờ kích thích của thời thế cũng chứa nhiều tham vọng: đó là Trịnh Bồng, "ông quận Quế". Tấn tuồng xoay chiều, đổi chủ lại diễn ra chớp nhoáng. Nguyễn Mậu Nễ, bộ tướng của Dương Trọng Tế, noi gương chủ đi đón Trịnh Bồng về đuổi Trịnh Lệ chạy khỏi phủ Chúa (4-11-1786).

Trong họ Trịnh không còn ai giành quyền nữa để Chiêu Thống làm áp lực có hiệu quả với Trịnh Bồng nên đành chịu Đinh Tích Nhưỡng mang quân về ép ông phong chức cho Chúa. Ông cũng còn hy vọng ở Hoàng Phùng Cơ, nhưng viên tướng này cũng liệu gió phất cờ mà sắp hàng bên phủ Liêu.

Nhưng tình trạng đó không có nghĩa là quyền binh đã được tập trung quanh chiếc ngai "đố an" - Án Đô vương. Những người lăng xăng chạy từ cung Vua tới phủ Chúa tranh các danh vị Tham tụng, Bình chương:.. "khư khư những thứ cũ rích" không phải là một lực lượng đáng kể. Bên văn hãy xem một Ninh Tốn, tướng bại trận Đồng Hới ngày trước, đem cái khôn quyệt "nhanh trí" của mình ra để dò ý Hoàng Phùng Cơ xem thế mà đổi chiều phò tá. Đám người "sợ hãi xám mặt" trước Bắc Bình vương, đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh mỉa mai tài thuyết khách từng đem một tên trấn nước để khỏi làm "mê hoặc thiên hạ", đám người ấy quả không đủ sức nghĩ xa hơn cách tiến thân bằng mồm mép. Còn võ tướng Đinh Tích Nhưỡng chẳng hạn, một ông trấn thủ biến thành cướp, không dằn mặt nổi ông nghè Nguyễn Hãn, còn nói gì đến việc đánh ai? Tình trạng phân ly từ trên đem đến một sự kết tập binh lính, dân chúng lỏng lẻo, nay là của phe này, mai bị vào phe khác không có dáng gì hơn bọn trước.

Nguyễn Hữu Chỉnh thừa hưởng được lề lối kết tập của Tây Sơn có thắng được Trịnh Bồng vào cuối tháng giêng 1787 55 cũng là lẽ tự nhiên.

Từ khi bị Nguyễn Huệ bỏ rơi ở Nghệ An, Chỉnh phải lo kiến tạo lực lượng riêng để bảo vệ bản thân và chờ cơ hội phát triển. Không có Tây Sơn thì ông làm Tây Sơn vậy. Ông truyền hịch chiêu binh. Ai ngần ngừ, ngỏ ý chống báng, ông đem tay chân đến giết ngay. Chỉ 10 ngày ông đã có hơn 1.000 quân. Tất nhiên không phải chỉ có sự đe doạ làm nên tinh thần binh sĩ. Khả năng tổ chức quân binh của ông từ những kinh nghiệm qua được đem ra thử thách lần nữa. Quân có thiếu chính nghĩa thì phải tạo nó ra. Một chuyến liên lạc ngầm với Chiêu Thống được tuyên bố khoa trương khiến dân chúng Nghệ An bỏ phe chống đối mà theo ông.

Về phần Chiêu Thống từ khi thất vọng với Hoàng Phùng Cơ, quả vua thấy không còn ai có thể để kêu gọi về giúp ngoài Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Nghệ An rầm rộ tiến ra. Một trận nhỏ phá tan quân Trịnh Bồng gởi vào hỏi tội, bắt sống Phan Huy Ích, giết Lê Trung Nghĩa khiến uy thanh Chỉnh nổi dậy. Một lần nữa, quân tướng quanh phủ Chúa lại lảng xa. Trịnh Bồng có mếu máo chạy trốn cũng chỉ là thêm chút kinh nghiệm đắng cay cho con người thời loạn. Chỉ có họ Trịnh là không hy vọng trỗi dậy nữa: Chiêu Thống tức giận sai đốt tan phủ Chúa để tuyệt diệt dấu vết của một uy quyền đã áp bức dòng họ mình trên hai trăm năm dài.

Phát huy chiến thắng, Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân đánh bắt Dương Trọng Tế ở Gia Lâm, bắt Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây đem về giết, đuổi tan quân Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương. Uy quyền của Chỉnh lớn dần ngang với thực lực. Chỗ ở của Chỉnh tấp nập quan chức ra vào.

Tuy nhiên muốn lập riêng một triều Chúa mà hành động của Chỉnh vẫn có dấu vết của viên Hữu quân Tây Sơn. Thực vậy, muốn có lực lượng bình Bắc Hà, muốn tìm cách tập trung một quyền hành từ lâu vẫn phân tán nên bị khinh khi, Chỉnh đã áp dụng những phương pháp như của Tây Sơn đã làm. Sách Hoàng Lê với những nhận xét chủ quan, thiển cận vẫn cho ta thấy rõ điều đó:

"Bây giờ tiền bạc trong nước phần nhiều bị nhà giàu giấu cất, nhân dân đói khổ vì nạn khan tiền, vật giá đắt lên vùn vụt. Chỉnh bèn xin với Triều đình ra lệnh thu hết tượng đồng các chùa đem về Kinh sư mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi khắp tứ phía cướp bóc chuông, tượng của các làng xóm. Người nào mà dám giấu diềm, tức thì bị chúng bắt đem về khảo đả nghiêm trị. Duy có pho tượng đồng đen ở Quán Trấn Vũ phía bắc Kinh thành chúng không dám lấy mà thôi. Thấy Chỉnh làm việc như vậy dân chúng ai cũng ta thán. Một hôm có người dán ở cửa Đại Hưng hai câu (...), dịch ra quốc văn thời là:

Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc ở đâu được?

Hoàng thượng đốt phủ Chúa, phủ đốt, điện cũng trơ thôi.

Tất nhiên phương pháp đưa ra không ngăn được kẻ thừa hành nhũng nhiễu. Chỉnh lại không có đủ tay chân có tài để khống chế người và kìm chế mình. Chỉnh "mới" quá đối với Trịnh - Lê thần. Cho nên, đến như việc đánh dẹp Trịnh Bồng, Quận Thạc, Quận Liễn, những kẻ mà bọn thần tử cựu trào có hồi cũng mỉa mai, thế mà vẫn bị Ngô Thì Chí gọi là "mượn Hoàng thượng để sai cả nước (.:.), dùng quân trừ bỏ kẻ hại mình"; Đinh Nhạ Hành cũng tố cáo Chỉnh "lúc cầm quyền ra tay tàn sát; những huân thần, túc tướng, lệnh tộc và thế gia bị giết hại rất nhiều" 56.

Sự tồn tại của vua Lê cũng là một chứng cớ thất bại của Nguyễn Hữu Chỉnh. Lê đế vẫn còn đó là nền nếp cũ vẫn còn, dù dở đến đâu cũng còn có cớ tồn tại. Chỉnh sẽ bị luỵ vào cái không khí ươn hèn đó để đổi mình đi, như lời nhận xét của Ngô Nho nói với Trần Công Xán:

"Ông Bằng từ khi đắc thế đến giờ, vàng ngọc chật đai, không giống hồi nhai rễ rau làm việc được như ngày xưa. Tôi e ông ấy run rẩy ra chốn trận mạc ắt bị Văn Nhậm bắt được".

Đó không phải là lời tiên tri. Việc ra Bắc đã được Bắc Bình vương định từ trước, nhưng phải đình lại vì chiến trận Quy Nhơn 57. Nguyễn Hữu Chỉnh ở yên lại tưởng nhân Nhạc - Huệ xung đột mà có thể thu được mối lợi ngư ông. Ông xúi Nguyễn Văn Duệ chống Huệ không thành. Ông sai Trần Công Xán vào Phú Xuân đòi đất Nghệ để giải toả áp lực của Lê thần. Nhưng không phải chỉ số phận sứ bộ mà cả số phận Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã được định rồi, ở Phú Xuân. Nơi dinh trấn Nghệ, Vũ Văn Nhậm nói thẳng vào mặt Trần Công Xán:

"Tôi nay đã lãnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra Thăng Long, trước hãy chém đầu thằng giặc Chỉnh, rồi sau mới hỏi vua Lê tại sao bội ơn dong đứa làm phản?... Vua Lê đã không giữ được nước thì các trấn từ Thanh Hoá trở ra, tôi không lấy người khác cũng lấy..."

"Vua Lê đã không giữ được nước", ý kiến này không phải chỉ của Nhậm. Đó là nhận xét gây nên ước vọng của Nguyễn Huệ, đó là đầu mối gây nên chiến tranh nồi da xáo thịt.

Việc chuẩn bị đánh Thăng Long được Vũ Văn Nhậm sửa soạn ở Nghệ An vào hạ tuần tháng 10-1787 58. Quân đội của Nhậm vét ở Bố Chính, Thanh Nghệ được "hơn 30.000 người", bắt đầu tiến ra Bắc khoảng trung tuần tháng chạp. Đụng độ với Lê Duật, trấn thủ Thanh Hoá của Nguyễn Hữu Chỉnh, từ 26-12, Nhậm đánh trận tập kích thắng lớn, giết Duật rồi tiến ra Sơn Nam. Hoàng Viết Tuyển ở đấy lại xung đột với Chỉnh và có ý hàng Tây Sơn nên quân Nhậm tránh được một mũi nhọn. Quân Nguyễn Như Thái bị thua trên đường đi chiếm Tam Điệp. Quân tan, Thái bị bắt 59, Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự cầm quân. Con Chỉnh, Hữu Du, cũng không may mắn hơn các tướng khác. Đêm 6 rạng 7 tháng 1 (1788), Chỉnh lẻn về Kinh thành khóc với Chiêu Thống "Bloi oi la bloi, nhà Lê đã mất rồi!" rồi cùng vượt sông trốn sang Kinh Bắc.

Vũ Văn Nhậm vào thành Thăng Long (9-1-1788), cho quân đuổi theo Chỉnh, giết Hữu Du, bắt Chỉnh (12-1) đem về xử tử (15-1), bêu đầu cho công chúng xem.

Việc thanh toán quyền bính Bắc Hà, cũng như trước kia đối với Nam Hà, rõ ràng là không khó với thực lực của Tây Sơn. Nhưng theo với sự mở rộng quyền hành, họ còn phải tìm cách biện chính hành động, thuyết phục Lê thần, Nguyễn thần công nhận sự đổi thay rồi thu dụng những người này làm tay chân. Nguyễn Nhạc lúc ra Bắc đã định "xin" mấy ông nghè đem về nước. Nguyễn Huệ bắt Nguyễn Đăng Trường, thả đi rồi bắt lại ở Gia Định mới giết đi. Lúc đánh Phú Xuân, ông thu nhận được Trần Văn Kỷ rồi nhờ người này làm trung gian mời Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, hỏi dò Nguyễn Nghiễm (cha Nguyễn Du) để tìm đến ông già ở ẩn Nguyễn Thiếp trấn Nghệ An 60.

Tất cả những việc đó chứng tỏ Tây Sơn phải mất thì giờ và hao tốn công phu để khuôn nắn trong dòng ý thức hệ thời đại. Ta không lấy làm lạ, Nguyễn Huệ vẫn phải giải quyết vấn đề theo những dữ kiện có sẵn. Chính ông vẫn coi việc thu dụng Nho thần như một tiến bộ cho chính quyền ông. Tây Sơn thiếu Nho thần, không có một chính sách ở Gia Định, chỉ mang quân tới chiếm rồi đi, không thay đổi nổi lòng người. Ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ phải ai cầu Nguyễn Thiếp chính là để quân bình lại cái không khí sùng chuộng võ uy trong triều ông do ở nơi "những kẻ giúp việc trong nhất thời đều là những kẻ mạnh bạo" 61.

Nhưng hiện tại sức mạnh Tây Sơn vẫn là ở quân lực của họ, cụ thể ở Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Tình thế chưa đến để họ gạt triều Lê ra ngoài triều chính để thuyết phục ông già Nguyễn Thiếp, tuy rằng trong chuyến trôi dạt theo nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống đã qua kinh Bắc rồi lênh đênh ở Hải Dương với thổ hào Trần Quang Châu, ở Sơn Nam với trang Hoàng Viết Tuyển, ở Thanh Hoá, về lại Kinh Bắc, trải qua đủ mùi lưu lạc của ông vua một triều đại tàn kiếp. Ấy thế mà Lê còn làm cho Tây Sơn mất một dũng tướng nữa.

Nguyên cớ sâu xa như đã nói là mối bất hoà nội bộ tận xứ Quy Nhơn. Nhưng nguyên nhân gần cận là thái độ khác nhau của những kẻ chiến thắng đối với cái "nước không" của Chiêu Thống bỏ lại. Vũ Văn Nhậm cầm đầu quân tướng Bắc phạt nên hơn ai hết, ông thấy rõ tình hình nghiêm trọng do các tướng và thổ hào của Lê được dịp mượn tiếng Cần vương để thoả mãn khát vọng quyền uy trong một xã hội phân rã. Về phía đồng bọn, nói theo các giáo sĩ đương thời, "Ông còn lo sợ sự phẫn nộ của Bắc vương vì ông khăng khăng từ chối nhiều lần không chịu tuân theo lệnh gọi ông về Phú Xuân sau khi đã giết được Hữu Chỉnh. Ông lại còn bị tình nghi là đã có tham vọng chiếm ngai vàng Bắc kỳ đáng lẽ là của chủ ông nhân lúc người này đang đánh nhau với Tiếm vương Nhạc..." 62. Cho nên theo thói quen làm việc có sẵn cộng thêm ý tưởng đề phòng trước biến loạn, thụ hưởng chiến thắng, ông đã tận lực khai thác đất Bắc. "Người ta chỉ nghe đến mộ lính, quyên gạo, quyên tiền". Quân Nhậm bắt các chức sắc trong làng kê khai đinh đ