← Quay lại trang sách

Chương 5 Sự Củng Cố Đôi Bên Ở Thế Giằng Co.

Tính cách chung của đôi bên * Tổ chức quân chính của Tây Sơn * Vai trò bổ khuyết của những chiếc thuyền cướp biển Tề Ngôi * Tổ chức khai thác Gia Định * Ưu thế vũ khí, công sự phòng thủ và thuỷ quân Nguyễn Ánh.

Trong 10 năm sau cùng của thế kỷ XVIII, ta thấy tình thế cát cứ có vẻ đơn giản dần. Tuy vào năm 1789 chẳng hạn, nước còn chia ba với Nguyễn Huệ ở Phú Xuân, Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn, Nguyễn Ánh ở Gia Định, nhưng thực ra chỉ có Tây Sơn và Nguyễn đối đầu thôi. Những lực lượng gài nên thế phân tranh cũ tàn lụi dần: Cựu Nguyễn biến mất với cái chết của Duệ Tông, Tân Chính vương, Di thần Trịnh Lê thì tan rã sau trận Đống Đa, tản nát sống nhờ sự cô lập địa phương hay chạy vào Gia Định đầu quân 1. Quy Nhơn sống lây lất, chỉ còn Phú Xuân và Gia Định có động lực biến thành hai đầu nam châm thu hút các tay muốn tận dụng khả năng mình trong chiều hướng thực tế.

Các đối phương đều tìm hết thế cách để lật nhau và trong tiến trình đó càng đi đến gần nhau về lề lối tổ chức chính trị, quân đội, nội dung kỹ thuật tranh chiến. Điều kiện chung của ý thức hướng dẫn tổ chức xã hội đương thời bắt buộc như vậy, nhưng ban đầu họ cũng phải theo những quy định của hoàn cảnh địa phương, của tình thế mà phát triển khả năng, vun bồi thực lực riêng.

Phía Tây Sơn chẳng hạn. Họ đi từ vùng núi phía tây, lấy sức mạnh cường bạo nơi đám người Thượng, Trung Hoa khách thương liều lĩnh, nông dân Việt đi khai phá đất hoang tâm tính trở thành hung dữ rồi truyền tấm lòng hăng hái, nhiệt thành, tính chất vong mạng đó cho dân đồng bằng hiền lành chân chất 2 gây nên một cuộc đảo lộn dữ dội nhất trong nước. Nguyễn Huệ phải thú nhận tính cách quân phiệt đó với Nguyễn Thiếp. Ngô Văn Sở ở Thăng Long nghe Tôn Sĩ Nghị sang, lấy đó làm một dịp để diễu cợt quan Thị lang Ngô Thì Nhậm:

"Phải phiền ông làm một bài thơ để đuổi quân giặc. Nếu không thì túi đao bao kiếm vẫn là phận sự của kẻ võ thần" 3.

Không phải chỉ với đám nho thần của triều đại cũ mà thôi, võ tướng còn coi thường một số tin tưởng cũ nửa. Nghe ở kinh Đôi Ma có hai con ma hiện về, họ đốt quan tài, đem súng đại bác bắn nát lùm bụi bên sông 4. Ở miền Bắc, viên trấn tướng Nghệ An ngạo mạn trong lễ tế thần: "Chó còn có ích hơn thần Xã tắc" 5.

Họ tự phụ cũng phải vì sự nghiệp này do công lao hãn mã của họ tạo nên. Nhưng khi trút cái lớp cường đạo để trở thành kẻ điều khiển quốc gia thì người ta phải thấy vấn đề phức tạp hơn nhiều để chịu đựng dung hợp với truyền thống cũ. Mặt khác việc Tây Sơn bị đưa đẩy di chuyển trọng tâm tập họp tinh hoa từ Quy Nhơn ra Phú Xuân rồi mong ngóng ngày về Phượng Hoàng Trung đô, đi ngược con đường ly khai về nam cũ, chứng tỏ cái thế bắt buộc và ý muốn tự khuôn nắn của họ.

Vị trí Nghệ An với hình ảnh công cuộc hợp tác giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp nói lên tất cả những đặc sắc của triều đại Tây Sơn trong thời gian xây dựng, phát triển tột cùng của họ. Quy Nhơn mới Việt hoá chỉ mang lại sức mạnh cường bạo, Phú Xuân, Thăng Long thì đầy dấu vết các cựu triều, lại tàn tạ với đám nông dân mệt mỏi trong loạn lạc hàng mấy trăm năm, với đám sĩ phu điều khiển quốc gia ngắc ngoải trong cái học từ chương thiếu sinh khí. Nghệ An, ngoài ý nghĩa là quê hương của chúa Tây Sơn, còn là vị trí ở giữa những ảnh hưởng đối kháng, muốn giữ vai trò dung hoà mà không muốn bị lệ thuộc.

Cho nên khi Tây Sơn thấy cần thiết phải thuần hoá triều đại, thì đến với họ không phải là Nguyễn Đăng Trường, Lý Trần Quán, Trần Công Xán... mê đắm với triều đại cũ mà là Ngô Thì Nhậm lẩn trốn Trịnh chúa sau vụ án Canh Tý 1780, Phan Huy Ích nhục nhã vì cái tiếng "nhà nho nói khoác" của Nguyễn Hữu Chỉnh gán cho. Nguyễn Huệ "tái tạo" Nhậm 6, đem "cơ duyên" 7 độc nhất đến cho Ích, gây dựng cho những sĩ phu ít hay nhiều đã không gặp may mắn dưới triều trước. Cũng nên kể vào hàng bất mãn với thời đại - bất mãn mới đi ở ẩn - đó là xử sĩ Nguyễn Thiếp, ông già "vai cày, tay câu".

Tất cả được khuôn nắn thâm hậu trong Nho giáo rồi tuỳ phản ứng cá nhân mà lục tục phụng sự Tây Sơn. Đặc biệt là họ đã từng đứng ngoài triều chính cũ, có dịp để phán xét, ít nhiều cũng không bằng lòng, nên làm quan với Tây Sơn, họ đưa ra những ý niệm tổ chức xã hội, tuy vẫn là của Nho giáo, nhưng dưới những khía cạnh lãng quên hay không biết đến ở các triều trước. Nguyễn Thiếp, trong một bài biểu gởi Quang Trung 8 công kích mạnh mẽ lối học từ chương, xa rời thực tế, thấy lối thoát là trở về với tinh tuý Kinh Sách: "Ban đầu giảng Đại học, rồi Luận ngữ, đến Mạnh tử, đến Trung dung, sau lại đến Ngũ kinh, Chư sử, tuần tự mà tiến, đọc cho kỹ mà ngẫm nghĩ cho tinh". Đi vào thực hành, ông chịu vâng mệnh Quang Trung giúp việc dịch Kinh Sách ra chữ Nôm trong Sùng Chính thư viện ở Vĩnh Kinh để phổ biến đạo học sâu rộng trong dân gian.

Cùng một chiều hướng hồi cố để thích hợp đó, Ngô Thì Nhậm dâng sớ (1788) cho Quang Trung định cách cai trị, phủ nhận thể chế tập trung của Trịnh Lê mà tuyên dương cái thế phân phong cho con em đồng tính cai trị các nơi theo lối giữ nước của nhà Hán, nhà Chu 9. Con đường giáo huấn mà Nguyễn Thiếp đề cao "theo Chu tử" rồi Nguyễn Huệ cũng thuận "nhất định theo phép học Chu tử" 10 và lề lối tổ chức xã hội phong kiến của Ngô Thì Nhậm thể hiện giao điểm ý thức của đám sĩ phu cũ tự cải tạo, thức tỉnh trước tiếng dội từ miền Nam ra và đám quân tướng Quy Nhơn bơ vơ đi tìm ý thức hệ.

Triều chính Tây Sơn là cả một tính cách dung hoà đó mà yếu tố quân sự lúc nào cũng giữ ưu thế. Thực là dễ hiểu khi nhớ lại quá khứ của họ và tình hình sôi sục lúc bấy giờ.

Phải bắt đầu chấn chỉnh lại thì họ nhìn vào đám nông dân điêu linh trong loạn lạc để sắp xếp việc làm ăn, kiểm soát dân số. Tờ chiếu "khuyến nông" mà Ngô Thì Nhậm cho biết chính sách lúc bấy giờ, ra lệnh bắt về bản quán những người ngụ cư chưa được ba đời, nhắm vào đám lưu dân vì loạn lạc, vì trốn tránh giao dịch, để làng cũ có đủ tay sản xuất. Các sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng phải làm việc kiểm tra số ruộng cày cấy, số ruộng bỏ hoang, số đinh thực tại, làm sổ bộ dâng lên triều đình 11, "nếu gian lận: coi người ở nhà như đi vắng, coi người còn sống như chết, làm sót sổ dân, làm thiếu thuế đều phải chịu trọng tội" 12.

Có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử dân ta mới gặp một chính quyền cố thi hành hiệu nghiệm chính sách đến mức tối đa bằng cách bắt dân mang thẻ "tín bài". Đó là một tấm thẻ giữa in 4 chữ triện "Thiên hạ đại tín" chung quanh viết tên họ quê quán của người có thẻ và có đánh dấu một ngón tay bên trái làm bằng. Thẻ phải đeo luôn trong mình phòng khi xét hỏi. Không có là dân lậu phải sung quân và xã trưởng, tổng trưởng của họ phải phạt tội 13. Để coi sóc công việc, bộ máy hành chánh trong nước phần lớn nằm trong tay các võ tướng. Tự trên triều đình, những chức Tam không, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư mã, Đại tư không, Đại tư cối... 14 mang vết tích của tổ chức Trung Hoa thời xưa đầy hùng khí rất thích hợp cho tính cách quân chính triều Tây Sơn. Ở các trấn, trấn thủ là quan võ và quan văn chỉ là "hiệp" trấn. Mỗi huyện có Võ phân suất và Văn phân tri hợp với Tả Hữu quản lý coi sóc. Cách tổ chức cho ưu thế về võ quan này có thể coi như lấy ý của Nguyễn Thiếp, nhưng chính Thiếp cũng căn cứ trên thực tế để khuyên Quang Trung "chọn trong các bầy tôi lấy một viên thanh, cần, nhân, dũng để làm chánh trấn, một viên sẵn có văn học để làm hiệp tá" 15. Đặc điểm này được phái đoàn Macartney (1793) ghi nhận đúng: "Giai cấp quân sự đứng đầu hết trong xứ rồi sau đó là các quan toà" 16.

Vì lẽ đó ta không lấy làm lạ khi thấy chánh sách chung là nhằm vào việc thành lập một đạo quân hùng mạnh. Tuy không nhận Lưỡng Quảng thuộc vào địa bàn cũ của người Việt trung châu Nhị Hà, ta cũng không thể phủ nhận ý định chiếm đất này của Quang Trung 17, ý định mở mang bằng việc dâng sớ đòi lại 6 châu ở Hưng Hoá và 3 động ở Tuyên Quang 18, xúi giục các thuyền Tề Ngôi cướp phá ven biển Trung Hoa, rồi tiếp đến việc sứ bộ cầu hôn, xin đất do Vũ Văn Dũng lãnh đạo (1792).

Xét nguyên nhân hiếu chiến, có người 19 đã thấy tính chất Napoléon của chế độ Quang Trung: dùng chiến thắng quân sự bên ngoài để đánh bạt sức phản động của cựu chế, để bịt miệng những phản kháng bên trong do sự thoả hiệp của chính quyền với một phần các lực lượng cũ khiến quần chúng cách mạng không bằng lòng. Sự so sánh đó quá thô sơ đã quên mất những thực tế sống động, dồi dào, riêng biệt của một trường hợp cụ thể. Chúng ta có thể tìm ra những nguyên nhân chính yếu, xác đáng hơn, tương hợp hơn với hoàn cảnh đương thời.

Chiến thắng tương đối dễ dàng với quân Thanh sau những chiến thắng liên tiếp ở các chiến trường khác là nguyên nhân tâm lý 20 khiến Tây Sơn hướng về Lưỡng Quảng. Trận Đống Đa làm e dè bọn biên thần nhà Thanh, mở đường cho những văn thư ngoại giao trao đổi, đưa đến việc Thanh đế nhận Quang Trung làm An Nam Quốc vương, quên mất tham vọng thừa nước đục thả câu chiếm lĩnh phương Nam. Một bên là Phúc Khang An và Hoà Khôn, một bên là Ngô Thì Nhậm có Nguyễn Quang Hiển, cháu Quang Trung, đến "gõ cửa thành", việc hoà hiếu được mau lẹ tiến hành đầy vinh quang cho Tây Sơn. Tiếp theo việc phong vương và việc ban nhân sâm cho mẹ Quang Trung là việc sứ bộ Giả vương 21 sang chầu lễ thọ bát tuần của Càn Long (tháng 8 Canh Tuất 1790). Sứ bộ gồm Nguyễn Quang Thuỳ, Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phạm Công Trị và các văn quan Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn... với hai thớt voi tiến cống tượng trưng "cái đinh" của quân lực Tây Sơn. Cuối năm 1790 sứ bộ về nước sau khi hưởng được những ưu đãi đặc biệt hơn những sứ bộ trước 22. Thái độ đó làm khoái trá, khiếp phục được các văn quan như Phan Huy Ích, nhưng tất đã làm tăng uy thế của Tây Sơn và thêm phần kiêu hãnh cho đám võ tướng.

Trong nước lại bất an do các di thần cố Lê gây ra: Lê Duy Chỉ ở Cao Bằng, Trần Quang Châu ở Bắc Ninh, Trần Phương Bỉnh ở Nghệ An... Nguyễn Ánh lại là mối lo lớn nhất của Quang Trung cho đến khi nhắm mắt 23, tuy rằng ông chưa phải thử sức trực tiếp với Gia Định trung hưng. Tất cả buộc Tây Sơn phải lo củng cố quân lực và theo biến chuyển tự nhiên, họ bành trướng thế lực để bảo vệ thế lực sẵn có.

Lực lượng họ như thế nào? Sử quan ghi vào khoảng tháng 3 Nhâm Tý (1792), Quang Trung tính đem 2-30 vạn quân đánh Gia Định (nghĩa là quân số còn có thể hơn thế nữa) 24. Theo lối kiểm soát dân số đã nói và việc lấy 3 suất đinh một lính, một khách ngoại quốc thấy là "số người trong quân ngũ rất đông". Riêng ở Huế đã có 30.000 người luyện tập hàng ngày. Họ võ trang bằng dao găm, giáo mác, súng điểu thương, rất nhiều súng ngắn có miệng loe ra kiểu thế kỷ XVI của Tây phương (có lẽ mua lại) và súng bắn phải mồi lửa do họ tự chế (hoả hổ?). Người Anh đi lạc trong thành Quảng Nam không thấy có một khẩu đại bác nào, nhưng chúng ta biết họ cũng có súng lớn - và có nhiều là khác khi chiếm được của Nguyễn, Trịnh, của quân Thanh - hàng 2-3.000 khẩu 25.

Lực lượng chủ chốt của bộ binh là đám chiến tượng tập luyện hàng ngày mà các võ tướng rất tin cậy ở khả năng chiến thắng và Tôn Sĩ Nghị phải lo đề phòng trước. Gia Định cũng e dè số lượng 300 con voi ồ ạt dày xéo trên đường tấn công 26. Tượng quân quý báu ở tính chất đa hiệu của nó: voi là lực lượng vận tải không những quân lương, binh sĩ mà còn là vũ khí nặng nữa; voi là lực lượng tấn công kiến hiệu - như một thứ thiết giáp binh có đại bác hỗ trợ.

Mọi chi phí gìn giữ quân lực này rõ ra là rất lớn. Thế mà như ta đã biết, vùng Tây Sơn trong cấp thời lại với lề lối khai thác nông nghiệp cổ điển trên đất đai đã tận dụng, không thể nào sản xuất đủ để cung cấp như Nguyễn Thiếp đã trần tình: "Nghệ An đất xấu, dân nghèo. Về trước chỉ chịu xuất binh chứ không phải chịu tiền gạo, nay thì binh, lương đều phải xuất. Số lính ngày một tăng bội. Kẻ cày cấy thì ít mà kẻ đợi ăn thì nhiều...". Trong ý nghĩa đất đai kiệt lực đó, ta hiểu được danh từ phong thuỷ ngày xưa chỉ về một vùng đất "mất hết vượng khí" như chữ dùng trong văn thư ngoại giao Tây Sơn - Thanh để chỉ đất Thăng Long 27. Đòi đất Lưỡng Quảng là tìm đất mới thay đất cũ đã kiệt lực, là tìm cách giải quyết những khó khăn gặp phải trong thời kỳ xây dựng vậy. Cho nên, việc đánh chiếm kinh đô Vạn Tượng vào năm 1791 của bọn Trần Quang Diệu, ngoài ý nghĩa phá mối lo bị đánh tập hậu, quân Tây Sơn còn tìm của cải ngựa voi, nghĩa là những thứ nuôi dưỡng, tăng gia binh lực mà Ai Lao đáng lẽ hàng kỳ hạn phải nạp với thể lệ triều cống 28.

Một con đường khác có thể mở ra cho họ là giao thương với bên ngoài. Thế mà tình trạng giao thương ở miền Bắc Đại Việt lúc bấy giờ như thế nào? Chúng ta đã thấy nơi khác những biến cố khiến thương nhân Trung Hoa và Tây phương xa lánh Tây Sơn. Tình trạng đó vẫn chưa kịp xoá bỏ. Tuy Quang Trung đã mở được các chợ ở ải Bình Thuỷ (Cao Bằng), Du Thôn (Lạng Sơn) và nhà hàng ở Nam Ninh (Quảng Tây) để buôn bán với Trung Hoa "khiến hàng hoá không ngưng đọng, lợi cho dân dùng" 29, nhưng vấn đề không phải chỉ là giao thương với Trung Hoa trong lục địa mà là sử dụng các hải cảng trong nước, gần từng địa phương một hơn để mong thừa hưởng chút tiến bộ kỹ thuật Tây phương.

Phái đoàn Macartney tới nhận thấy ở Tourane có những ghe thuyền Trung Hoa, những thuyền đi dọc biển của Macao theo kiểu Tây phương nhưng nhỏ bé và không võ trang. Ở đây người Bồ nắm hết việc buôn bán còn sót lại, mà cũng chỉ mua vét các chợ ở Quảng Châu đem bán lại thôi. Cho nên khi Macartney tới, viên trấn thủ ở Quảng Nam nài nỉ người Anh bán khí giới và đạn dược, lộ cho họ thấy rằng Tây Sơn cần được giúp với bất cứ giá nào! 30.

Quang Trung trước khi chết cũng tính gởi giáo sĩ Labartette đi Macao mời gọi người Tây phương tới buôn bán. Giữa khi người Âu còn e ngại với Tây Sơn thì Gia Định mở rộng cửa buôn bán, lôi cuốn các tàu tấp nập ghé bến Đồng Nai, chỉ còn sót những chiếc tàu bất mãn với Nguyễn Ánh mới quay ra giao thiệp với Phú Xuân thôi: cũng Labartette cho biết có một tàu Macao, một tàu Manille đem bán cho Quang Trung 100.000 cân lưu hoàng 31. Vì vậy cho nên đường cát rất nhiều và rất rẻ ở Quảng Nam mà không trở thành một món hàng xuất cảng như ở Biên Hoà trong khi trước nội chiến, Tourane nườm nượp những ghe trọng tải từ 40-150 tô-nô đến chở cau, đường mà riêng thứ sau mỗi chuyến đem đi hàng 40 ngàn tô-nô 32.

Kết quả là hiệu năng vũ khí kém đi với những khẩu súng nhồi bằng thuốc đạn Trung Hoa không bắn xa bằng thứ cùng loại ở Gia Định nhồi bằng thuốc đạn Tây phương. Lực lượng quân sự phía mặt biển yếu thấy rõ. Tây Sơn phải tìm cách bù đắp. Bọn cướp biển Tề Ngôi bổ túc vào sự thiếu sót đó.

Thực ra sau khi làm chìm chiếc tàu Macao tịch thu được của người Bồ bị bão dạt vào Quy Nhơn, Tây Sơn cũng cố gắng phát triển thuỷ quân. Nguyễn Huệ đã cho đóng những chiếc "đại-hiệu-thuyền" có thể chở nổi con voi 33. Có lẽ đó là những chiếc tàu mà người Anh đi lạc vào thành Quảng Nam chuyến tháp tùng phái bộ Macartney đã nhìn thấy và ước lượng đến 150 tấn trọng tải và chắc cũng là loại tàu Định quốc mà Vũ Văn đem án ngữ ở cửa Thi Nại trong trận thuỷ chiến 1801. Nhưng chúng ta hãy nghĩ tới những chiếc tàu bọc vỏ đồng của Nguyễn Ánh rõ là có sức chịu đựng hơn nhiều. Cho nên các thuyền Tề Ngôi vừa giữ nhiệm vụ tiếp tế cho nội địa vừa chính là một bộ phận của thuỷ quân Tây Sơn để quân bình yếu kém vậy 34.

Tề Ngôi hải phỉ là gì? Có khi gọi là Ô Tàu hải phỉ, danh từ được thấy ở Thực lục 35 chỉ rõ đám cướp biển Đông gồm có hai nhóm: giặc Tàu Ô ở vùng Lưỡng Quảng và Thiên Địa hội ở Tứ Xuyên (nên nhớ Hà Hỉ Văn thuộc Thiên Địa hội đã hoạt động ở vịnh Xiêm). Các đầu mục được Quang Trung phong chức Tổng binh (hay Thống binh) cho đi cướp phá khắp nơi. Thực lục và Liệt truyện cho ta biết một số tên các người này như: Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng, Phiền Văn Tài... Và đặc biệt là người cầm đầu xưng Đông hải vương Mạc Quần Phù 36.

Là quan Tây Sơn nên sào huyệt họ ở ngay trên đất liền, khi Nguyễn Ánh tiến đánh thì họ bỏ thuyền chạy bộ để bị bắt sống. Phạm vi hoạt động của họ lan xa đến nỗi Nguyễn Ánh lần đầu bắt được thuyền Tề Ngôi vội vã sai sứ đem cho Xiêm để tuyên dương uy thế của mình. Kỹ thuật thuỷ chiến tinh vi nên Tây Sơn dùng họ chống đánh thuỷ quân Nguyễn Ánh. Ngay từ trước khi Nguyễn Huệ chết, hơn 40 thuyền Tề Ngôi men theo ven biển Bình Khang, Bình Thuận vào khuấy rối. Trận đánh cuối cùng dữ dội nhất ở Trấn Ninh (1802), thuỷ quân Tây Sơn gồm toàn các thuyền Tề Ngôi. Đó chỉ vì chiến tranh càng kéo dài ra, thuỷ quân Tây Sơn hoặc phải đồng hoá các đơn vị Tề Ngôi, hoặc phải tổ chức như họ. Cho nên, trong trận Đà Nẵng, Võ Tánh bắt được hơn 20 Tàu Ô và tướng của họ không phải Tổng binh mà là Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ.

Vai trò bổ túc của họ quan trọng như thế nên không phải chỉ vùng Nguyễn Huệ mới có Tề Ngôi thuyền. Nguyễn Nhạc cũng phải cho phụ trách kiểm soát vùng biển Quy Nhơn: thuyền Tề Ngôi Nguyễn Ánh bắt được đem khoe với Rama I là ngoài khơi Thi Nại của Nguyễn Nhạc.

Giữa lúc Tây Sơn miền Bắc dựa vào trung châu Nhĩ Hà cùng vài khu vực cằn cỗi khác để nỗ lực phát triển trong những điều kiện khó khăn thì Nguyễn Ánh cũng vội vã lo củng cố thế lực ở vùng đất chưa được tận dụng hết khả năng: đồng bằng miền Nam.

Trong khoảng 1789-1792, gặp lúc Tây Sơn không đủ sức nhìn về phương Nam nữa, ông có được thời cơ để lo tổ chức Gia Định. Thêm nữa, ông còn có sẵn sự ủng hộ bền dai của các cựu thần, sự đóng góp kỹ thuật của đám phiêu lưu thương nhân và giáo sĩ Tây phương, cùng một lề lối ý thức tổ chức xưa cũ có thể không thành công với những vùng thâu nhận ảnh hưởng Việt lâu đời, nhưng lại rất có hiệu lực ở những vùng mới mẻ.

Chế độ đồn điền đã từng được áp dụng từ đầu Lê để khai thác lãnh thổ theo tính cách tập thể, quân sự hoá, bây giờ được Nguyễn Ánh tiếp tục với sự đóng góp của đám trí thức Gia Định mới về đầu. Là sĩ phu cố giữ tiết tháo trong thời loạn, noi gương theo xử sĩ Võ Trường Toản, thấm nhuần Khổng giáo trong cả những ý nghĩa tích cực nhất, một khi ra làm việc, họ là những tay hăng hái nhiệt thành nhất. Ý thức hệ Khổng giáo gắn liền với một lề lối tổ chức kinh tế nông nghiệp, một khuôn mẫu tổ chức binh đội lấy sức mạnh ở nông dân nên mỗi lần bàn đến việc khai đất tuyển binh là Nguyễn Ánh viện đến "Chu Đường cố sự", đến quan niệm "tứ dân chi trung duy nông vi bản" 37.

Hành động đầu tiên là vào tháng 6 Kỷ Dậu (1789) - thángHoàng tử Cảnh về - Nguyễn Ánh bổ nhiệm Điền tuấn quan. Mười hai người trong số có Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu, Lê Quang Định, Hoàng Minh Khánh, chia nhau đi 4 doanh Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định khuyến dụ dân chúng từ phủ binh tới dân cùng cố cứ theo sổ bạ mà bắt làm ruộng, dân không có nghề nông thì bắt phủ binh thế. Đến mùa lúa chín, đạp ra, quan khám thu mỗi người, ruộng đồng lấy 100 cơ lúa (một cơ bằng 40 bát), ruộng núi lấy 70 cơ. Phủ binh nạp trên số đó được miễn một năm tòng chinh, dân trơn được miễn một năm lao dịch làm xâu. Nếu không đủ số không được chuẩn miễn.

Ai mộ được dân ngoài sổ bộ lập thành các đội điền tốt, Điền tuấn quan sẽ cấp ruộng hoang cho. Nếu trâu cày điền khí không đủ, quan cho mượn, đến mùa nạp lúa thế 38. Tiếp tục thúc đẩy chính sách, tháng 8 năm sau (1790), lại có lời dụ khuyến nông, cũng bấy nhiêu nội dung tổ chức ấy. Việc nông trang được chăm sóc kỹ vì một lẽ nữa là năm này lúa cao, dân đói. Ánh bắt các nha văn võ phải đi mộ các đội đồn điền, mỗi năm mỗi người phải nộp 6 đấu lúa. Dân gian, ai mộ được 10 người trở lên thì được làm Cai trại, rút khỏi sổ thôn.

Lính ở các nơi trấn đóng cũng không được ở không. Nơi luỹ Vàm Cỏ ở Gia Định, các quan văn bắt lính ra làm ruộng lấy tên Đồn điền trại. Lúa giống, trâu cày, dụng cụ làm ruộng đều được quan cấp. Lúa thu thành đem bỏ vào kho (tên là kho Tích Trữ sau cải là kho Đồn Điền). Biện pháp này đến tháng tư Tân Hợi (1891) thì được áp dụng lan đến vùng Bà Rịa, Đồng Môn. Lính ở đó phải tìm đất làm đồn điền để "tự thực kỳ lực" 39.

Chính sách lan cả đến dân thiểu số. Dân Hoa ngụ cư - Đường nhân - ở Long Xuyên nếu tự nguyện làm đồn điền mà thiếu dụng cụ sẽ được cho mượn. Mỗi người mỗi năm nộp 8 hộc lúa thì được miễn giao dịch. Ai không làm ruộng sẽ phải sung quân. Dân Miên ở Ba Thắc, Trà Vinh cũng không thoát: họ bị buộc khẩn đất, nộp mỗi người 15 đấu lúa (sau giảm còn 5) 40.

Nói tóm lại, chính sách đồn điền nhắm vào việc khai phá đất đai làm ruộng bằng cách bắt mọi người không đừng được, phải tham gia với sự đôn đốc, kiểm soát, trợ giúp của chính phủ. Đó là một chính sách nông nghiệp cưỡng ép, tận dụng nhân công, có từ xưa nhưng bây giờ lại được áp dụng trên một quy mô rộng lớn, khiến vùng Gia Định trở nên phồn thịnh, sản xuất dồi dào quyến rũ được đám dân nghèo đói Bình Thuận, Phú Yên... bỏ xứ chạy vào làm tăng dân số, uy tín nội bộ cho Nguyễn Ánh 41, để dư gạo giúp Xiêm đói, giúp Thanh đánh Tây Sơn 42 và cuối cùng, để đủ binh lương cho quân lính dùng những khi tràn ra phía bắc đánh đám người kiệt thiệt đã làm ông khốn đốn khi xưa.

Công cuộc khai thác ruộng lúa, đối với thương nhân Tây Phương không quan trọng mấy cho việc buôn bán của họ. De Guignes, viên lãnh sự Pháp ở Quảng Châu có tiếc rằng Vua đã không làm chủ được "những tỉnh giàu có hơn ở miền Bắc" mà chỉ chiếm một vùng "không tốt" vì "sản xuất có lúa mà thôi" 43. Nhưng nếu ta lưu ý đến công việc buôn bán với người Xiêm, Chà-và, Trung Hoa... và các thương nhân Tây phương thực hiện các chuyến tải hàng trong địa phương - le commerce d’Inde en Inde của họ - thì rõ ràng lúa gạo cũng còn là một sản phẩm trao đổi được để từ đó làm giàu cho quốc khố 44. Vả lại, tuy sử quan nói toàn chuyện cày ruộng, thu lúa, nhưng ta vẫn thoáng thấy có những canh tác khác. Các vườn cau mọc lên nhiều để cung cấp một sản phẩm cần thiết cho phong tục địa phương 45. Sản phẩm quan hệ nhất là đường cát. Nguyễn Ánh đã nhắc đi nhắc lại cho dinh Trấn Biên biết rằng đường cát cần thiết dùng để đổi binh khí Tây phương nên phải có chính sách riêng. Một mặt nhà nước ép dân sản xuất, hạn định mỗi năm phải nạp 100.000 cân (6.000KG), một mặt phát tiền cho dân có vốn làm ăn, đến mùa tính theo giá chợ mà nhà nước mua lại. Chính sách có vẻ có hiệu quả vì số lượng sản xuất tăng lên, giá thị trường hạ xuống trong mấy năm thi hành: cuối năm 1789, nhà nước phát trước 10 quan cho mỗi 100 cân còn hẹn đến mùa theo giá chợ phát thêm mà đến gần cuối năm 1796, nhà nước chỉ phát 9 quan cho 100 cân thôi 46.

Nguyễn Ánh cũng chú ý đến việc tìm các lâm sản. Người trong các đội Hoàng Lạp mỗi năm nếu nạp 10 cân sáp vàng thì được miễn giao dịch, thuế má, tòng quân. Trầm hương, kỳ nam lấy ở dân Chàm Bình Thuận, đậu khấu, sa nhân cùng với các sản phẩm Cao Miên thì theo đường nước của sông Tiền, sông Hậu chuyển xuống 47. Nhưng khi chế độ sản xuất được đôn đốc kỹ lưỡng thì chế độ thương mại cũng phải theo một sự kiểm soát gắt gao. Những thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán không được lén chở lúa gạo, kỳ nam, trầm hương, ngà voi, sừng tê. Ai thông đồng buôn bán riêng tư thì phải tội 100 roi, làm phu 3 năm, tài sản bị tịch thu. Người kiểm soát cũng không được lơ là nhiệm vụ: thất thoát, tội cũng như vậy, ai tố cáo được thưởng 300 quan tiền! 48. Sở dĩ có sự kiểm soát gắt gao như vậy vì chính quyền muốn giữ các quý vật ấy làm món hàng trao đổi binh khí, đạn dược cần thiết cho binh dụng. Việc mua bán với bên ngoài thực hiện do các tư nhân hoặc chính tay chân Nguyễn Ánh. 49. Từ trước khi Cảnh về đã có một chính sách mời gọi các thuyền Thanh đến buôn bán. Nếu họ chở tới sắt, gang, chì đen (?), lưu hoàng thì phải bán cho quan để quan tuỳ theo ít nhiều cho miễn thuế bến đổi gạo mang về nước. Cứ thuyền có các thứ ấy trên 10 vạn cân thì miễn thuế cho chở 30 vạn cân gạo đi, thuyền có 6 vạn cân, chở 22 vạn cân gạo, 4 vạn cân chở 15 vạn cân gạo, đều miễn thuế. Những thuyền ít hơn thì cứ mỗi 100 cân đổi 300 cân gạo về, nộp thuế y lệ định 50. Sau đó vào khoảng năm 1791 (tháng hai Tân Hợi), có người Bồ tên là Chu-di-nô-di (?) đến buôn bán, Ánh mới đưa thư cho quốc trưởng (chắc toàn quyền Goa hay Macao) để mua một số lớn binh khí: súng điểu thương 1 vạn cây, súng gang lớn 2.000 cỗ (mỗi cỗ 100 cân), hoả tâm đạn 2.000 viên13 51.

Về việc người đi buôn thì tay chân Ánh phái đi tuy chắc mang tính cách bầy tôi ăn lương chúa nhưng hẳn cũng có thể kiếm ăn riêng được. Các quan lớn cũng có phương tiện chuyên chở riêng: năm 1800 một ông Chưởng dinh Hữu quân (Nguyễn Huỳnh Đức?) đã bán cho Despiau một chiếc thuyền lớn để ông này đi buôn. Despiau cũng nằm trong sự đãi ngộ chung của Nguyễn Ánh đối với người Tây phương dưới quyền: họ vừa làm cho Ánh vừa kiếm lợi riêng. Những khu vực họ thường lui tới nhất là ở phía Tây: để mua binh khí, Nội viện Trần Vũ Khách đã đi Giang-lưu-ba (Batavia), Cai đội Ô-li-vi, Đội trưởng Ba-la-di đi Goa, Mã-la-kha (Malacca). Tài liệu Tây phương cho biết L. Barizy còn trương hiệu kỳ của chúa Nguyễn buôn bán với thương nhân Đan Mạch, Hanop và Stevenson, trung lập trong chiến tranh Anh - Pháp, làm đại lý cho Ánh ở Tranquebar (Ấn Độ) 52. Có lẽ chính vì việc buôn bán hướng về phía Ấn Độ, Mã Lai, nơi người Anh đang phát triển thế lực, danh tiếng vang dội trên mặt biển lúc bấy giờ, nên có việc sử quan ghi rằng Ô-li-vi đi Hồng-mao mua binh khí, có thuyền Hồng-mao đến buôn bán và L. Barizy là dân Hồng-mao 53.

Tất cả những hoạt động nông nghiệp, thương mại đó có chủ đích tạo lập một lực lượng khả dĩ chống đối được Tây Sơn, tràn ra Bắc chiếm lại cố đô. Ta đã kiểm xét đám người Tây phương trợ giúp Gia Định. Nhưng điều quan trọng vẫn là việc kết hợp được một lực lượng quân sự gồm những người trong nước, điều hoà được việc binh với sự cần thiết sản xuất 54.

Những kỳ kiểm tra liên tiếp vào sổ bộ đám dân Việt gồm dân sở tại, dân đói rách lưu vong từ ngoài vào, tăng ni, đạo đồng, lính Tây Sơn tan rã trốn nấp vào đám người thiểu số người Tàu, Miên, Chàm, Thượng, khiến chính quyền biết rõ được dân số để tận dụng họ 55.

Quân số Gia Định bao nhiêu, sử quan không đếm được, John Barrow người đi theo sứ bộ Macartney, lấy tài liệu của L. Barizy để ghi quân số Gia Định vào đầu thế kỷ XIX như sau:

Bộ binh:

24 đội kỵ binh 6.000 người

16 đại đội tượng quân (200 voi) 8.000 người

30 đại đội pháo binh 15.000 người

25 liên đội (mỗi đơn vị 1.200 người) võ trang súng tay 30.000 người

Khinh binh võ trang gươm giáo và súng mồi 42.000 người

Cận Vệ tập luyện chiến thuật Tây phương 12.000 người

113.000 người

Thuỷ binh:

Lính làm thuốc đạn của xưởng đóng tàu 8.000 người

Thuỷ binh trên các tàu trong cửa biển 8.000 người

Thuỷ binh trên các tàu đóng kiểu Âu 1.200 người

Thuỷ binh trên các ghe bầu 1.600 người

Thuỷ binh trên các thuyền chiến có chèo 8.000 người

26.800 người

Tổng số quân lực là 139.800 người 56.

Danh xưng chỉ các ngành quân đội và các thuật ngữ về chiến cụ của John Barrow dùng tuy có khác với sử quan nhưng so sánh để soát xét lại ta vẫn thấy dấu vết của sự thực, tuy phức tạp hơn nhiều. Nên nhớ thêm rằng bảng tổng kết này làm bằng những tài liệu có lẽ thu lượm 1, 2 năm cuối thế kỷ XVIII, nghĩa là trong lúc binh Gia Định đã phát triển mạnh, thu thêm vào hàng ngũ của mình đám hàng binh Tây Sơn cùng chiến cụ, chiến tượng của họ.

Xét sách Thực lục, ta thấy có các danh từ: lạc tòng quân, chiến tâm quân, hương binh, phủ binh, tinh binh, thần sách quân, cấm vệ binh 57. Không có xác nhận rõ rệt, ta chỉ căn cứ vào ý nghĩa danh xưng cùng hoạt động của các đội đó mà giải thích tổ chức thôi. Lạc Tòng quân rõ là đám dân tình nguyện, nhưng vì việc lập ra đạo quân này sau thời kỳ vây đánh Quy Nhơn (1793), nên phải hiểu dè dạt chữ "tình nguyện" vì đó chính là binh tướng Tây Sơn đầu hàng vậy. Chiến Tâm quân là các binh cảm tử. Nguyễn Ánh sai các dinh tuyển chọn, lọc lừa trong các binh đội lấy người để lập thành đội ngũ nhập vào ước thúc của dinh Trung quân. Xung trận, họ phải liều mình tiến trước, nếu lùi lại phải chịu quân pháp, trốn đi cha mẹ, anh em họ phải chịu tội thay. Hương binh, Phủ binh là lính làng, lính địa phương, trong khi Tinh binh là lính túc trực, lính chính quy: ta thấy khi dẹp xong Phạm Văn Sâm, Nguyễn Ánh cho phủ binh về làm ruộng, chỉ giữ lại tinh binh. Chuyện xảy ra ở Phiên Trấn nên có thể là tinh binh chỉ ở Gia Định, còn các dinh khác (Vĩnh Trấn, Trấn Định) thì phải tuyển phủ binh để dùng 58. Cấm vệ binh, đã nói rồi, được hưởng quyền lợi rất lớn, nhưng quân số chắc ít ỏi. Thần Sách quân - quân ở Kinh - được nhắc tới nhiều chính là đám cận vệ 12 ngàn người tập luyện theo chiến thuật Tây phương mà Barrow đã ghi nhận vì có Olivier là một kẻ điều khiển với chức Vệ uý. Sau này, trùng hợp với lúc Olivier đi, danh từ Thần Sách quân ít được sử quan nói tới và thay bằng đội Ngự Lâm quân tuyển toàn dân Quy Nhơn, giao cho các hàng tướng Tây Sơn trông coi vì sự hăng hái, gan dạ của họ, tướng cũng như quân.

Đáng lưu ý là sự đổi thay kỹ thuật chiến đấu do người Âu đem lại hay gián tiếp qua các sách dịch của Pigneau: J. Barrow có nói đến pháo binh, đến các đội kỵ binh di chuyển bằng trâu. Nếu ta nhớ rằng Pigneau khi bàn bạc việc viện trợ cho Nguyễn Ánh với các tướng lãnh Pháp có nghĩ cách dùng trâu kéo súng lớn và ta ghép lời xưng tụng công đức Bá-đa-lộc: "chế hoả xa, bầy trái phá..." 59 thì ta thấy quân đội Nguyễn Ánh có súng nặng lưu động dễ dàng trên bộ như chứng tỏ trong trận Đập Đá tháng 7 âm lịch (1793) với "hoả xa đại bác" 60.

Khí giới ngoài các thứ mua cũng được chế tạo tại chỗ. Qua lời xưng tụng quá đáng của J. Barrow, ta cũng lược qua được sự thực. Ông nói Nguyễn Ánh đã làm một nhà máy chế diêm tiêu ở Phiên Trấn, khai một mỏ sắt, xây các lò đúc chế hàng ngàn súng mồi lửa, các súng đại bác đủ cỡ 61. Sử quan xác nhận điều này khi cho biết việc phân phiên làm việc của các Cục tượng: thợ đúc, thợ rèn, thợ súng, thợ bạc8. Trịnh Hoài Đức 62 cũng nói về chế tạo cục trong thành Gia Định, ghi rõ "có 3 gian nhà ngói đối mặt nhau", dãy trại đặt súng bên tả phía trước. Chế tạo cục có 15 gian lợp ngói, lát ván, đặt đồ phụ tùng súng, bên trong sắp các khẩu đại bác đồng, sắt, hoả xa, trụ súng, đều có xe chở. Bên hữu là một dãy trại lá vừa là nơi trú ngụ cho các thợ tạo tác, vừa là nơi thu chứa thổ sản hoá vật. Ngoài ra, còn có 12 gian mái ngói, tường gạch chứa thuốc súng dồn trong những thùng gỗ đặt trên sàn. Bên ngoài cửa Khôn Minh 2 dặm là nơi chế tạo thuốc súng, 4 phía rào gai, có đủ khí cụ cối chày để nghiền thuốc.

Việc tổ chức phòng thủ cũng được thực hiện đồng thời với việc huấn luyện binh sĩ. Nguyễn Ánh đã lo củng cố công sự phòng thủ nhiều đến nỗi các giáo sĩ phải lên tiếng công kích thái độ mà họ gọi là "lẩn tránh chiến tranh". Phần lớn các luỹ đắp bằng đất. Một số luỹ là để ngăn chặn đề phòng những nhóm Miên nổi dậy như luỹ Trấn Di (cái tên tỏ rõ được công dụng) ở sông Ba Thắc, luỹ Thanh Sơn ở Ba Lai. Cũng có những luỹ như các tiền đồn hướng về phía Tây Sơn: luỹ Đồng Chàm ở Trấn Biên, luỹ Bà Rịa 63.

Nhưng công sự làm cho Ánh hãnh diện nhất và công trình xây cất cũng trải qua nhiều khốn đốn nhất là thành Gia Định. Thực lục chép rằng ngày Kỷ Sửu tháng 3 Canh Tuất (1790) bắt đầu xây thành bằng đá Biên Hoà vì luỹ ở làng Tân Khai không đủ dùng cho binh vụ 64. Trịnh Hoài Đức ghi ngày 4 tháng 2 và tả thành theo khuôn mẫu Á đông: thành có hình bát quái, các cửa chính theo phương vị càn tốn, cấn đoài... Thành giống hình hoa sen nở, 8 cửa, ngang dọc có 8 đường, từ Đông qua Tây rộng 131 trượng 2 thước, từ Nam qua Bắc cũng vậy cao 13 thước, chân thành dày 7 trượng 5 thước day mặt ra hướng tốn (Đông Nam).

Việc xây thành này, các tài liệu Tây phương cho biết là do Le Brun và Olivier de Puynamel theo lời yêu cầu của Nguyễn Ánh. Hoạ đồ phố xá hình như của Le Brun gồm có 40 con đường rộng từ 15 đến 20 thước cắt nhau theo hình thước thợ và dự án này không được thực hiện. Nhưng Le Brun còn ở đến đầu năm 1792 và rõ ràng việc thiết kế đô thị chịu ảnh hưởng hoạ đồ ông rất nhiều. Ta hãy nghe Trịnh Hoài Đức so sánh nơi đó trước kia "nhà ở lộn xộn, đường lối cong quẹo, để dân tuỳ tiện, chưa rảnh sắp đặt (!)" với quang cảnh sau khi xây thành "phố xá chợ búa, hàng lối dọc ngang đều có thứ tự"... "quan lộ... gặp những khúc quanh co đều chăng dây sửa lại cho thẳng, rộng 6 tầm... bằng phẳng như đá mài" thì đủ công nhận xác quyết trên. Thư của giáo sĩ Boisserand (2-1792) cho biết có pháo đài, hào, điếu kiều, đường mở ra đất trống trước thành và luỹ vòng cung... Nguyễn Ánh muốn làm tức khắc tuy cần phải đợi thời cơ thuận tiện hơn. Người ta phải phá nhà cửa, bắt đến 30 ngàn dân làm việc. Loạn nổi lên, dân chúng và quan binh đổ riết cho Olivier và Le Brun gây nên tội muốn bắt giết làm hai ông này phải chạy trốn, nhờ Bá-đa-lộc che chở. Bình yên trở lại, Nguyễn Ánh cho lính về và dân rảnh rang cày cấy 65. Chi tiết sau phù hợp với việc sử quan ghi tới hai lần xây cất thành mà không nói lý do ngưng nghỉ: một lần vào tháng 3 Canh Tuất như đã nói và lần "sửa sang lại" vào tháng chạp năm đó.

Qua những chứng dẫn trên ta biết thành xây theo kiểu phòng thủ Tây phương nhưng cố uốn nắn theo quan niệm phong thuỷ Đông phương (bát quái). Tuy nhiên hiệu quả phòng thủ của nó vẫn không thay đổi. Từ đấy Tây Sơn không vào Gia Định lần nào để nó được thử thách nhưng đứa em sinh sau nó, thành Diên Khánh, đã chứng tỏ hiệu lực trước đám quân Trần Quang Diệu thiếu vũ khí công phá tương xứng.

Nhưng người ta còn phải nghĩ tới việc tấn công nữa. Ta đã nói tới nỗi lo âu của Gia Định về sức mạnh của đám tượng quân Tây Sơn, sức mạnh chứng tỏ trong cuộc tấn công Vạn Tượng "làm rung động Miến Điện, Xiêm La và khiến cho Đồng Nai sửa soạn chạy trốn". Tự nhiên, với phản ứng bắt chước, Nguyễn Ánh cũng phải lo củng cố tượng quân. Từ sau vụ phá thuỷ quân Tây Sơn ở cửa Thi Nại, Nguyễn Ánh sai người đến các vùng Đồng Nai, Bà Rịa bắt voi về nạp 66. Số voi tăng cường nhờ trao đổi với các nước Chân Lạp, Xiêm, nhờ cống phẩm của dân thiểu số Chàm, nhờ bắt được của Tây Sơn. Theo với tiến triển của tình thế chiến tranh và với sự rút lui của người Tây phương, lực lượng tượng quản sẽ tăng mạnh hợp sát với thực tế địa phương và để cố gắng quân bình với thuỷ quân.

Bởi vì Nguyễn Ánh đã có một đội thuỷ quân hùng mạnh. Bầy tôi của Ánh và chính Ánh cũng thấy rõ điều đó. "Thuỷ chiến là sở trường của ta" 67, Đặng Đức Siêu thực đã tri bỉ, tri kỷ vậy. Nhờ ưu thế đó mà Nguyễn Ánh thắng trận thuỷ chiến Thi Nại 1792 làm ưu uất Quang Trung. Trong cuộc tiến quân ra, thuỷ quân bao giờ cũng đi mau và đi xa vào đất địch hơn bộ binh. J.M. Dayot phục vụ Nguyễn Ánh trong những năm 1790-1795 đã nhân dịp điều khiển các tàu Tây trong chuyến xuất quân vào khoảng tháng 5 đến tháng 10 dương lịch để mà lập cả một chương trình vẽ các hải cảng, đi dò đáy nông sâu. Chính đội này dắt theo sau cả hàng ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính - cả lính bộ - có khi phải ghé lại một bến đến vài ngày để chờ bộ binh tới lãnh lương 68. Nhận biết thuỷ binh là quan trọng ở một xứ đầy sông rạch như Gia Định này, nên từ tháng 5 Kỷ Dậu (1789) ta thấy giá bắt lính đào ngũ có cách biệt rõ rệt: quân bắt được lính bộ thưởng 30 quan, còn được thuỷ binh thì được hưởng tới 40 quan! 69

Cấu tạo lực lượng đó như thế nào thì tài liệu để lại của sử quan cũng còn lờ mờ. Họ cùng với Trịnh Hoài Đức có nói đến Chu Sư xưởng lập tháng 12 Canh Tuất (đầu 1791), dọc từ bờ sông Tân Bình đến sông Bình Trị, chứa những dụng cụ thuỷ chiến và các loại ghe tàu. Lelabousse vừa tả các xưởng này vừa tâng bốc: "Các xưởng thuỷ quân và quân cảng của ông làm người ngoại quốc ngạc nhiên và chắc sẽ khiến cả Âu châu thán phục nếu Âu châu có thể chứng giám. Một bên người ta thấy các thứ súng tay, súng lớn đủ mọi cỡ, dụng cụ, giá súng, đạn... phần lớn đẹp đẽ chỉ nhường kiểu mới nhất thôi. Một bên, vô số các thuyền chiến (galère), các chiến hạm đủ mọi cỡ, mọi hình thức, rất chắc chắn. Tất cả những cái đó là công trình của ông hoàng ưa hoạt động cũng như chăm chỉ này, được các sĩ quan người Pháp luôn luôn giúp đỡ vì nghệ thuật và công nghệ đó ở xứ này còn xa mới đuổi kịp Âu châu". Ở mục nói về Chu Sư xưởng, sử quan cũng như Trịnh Hoài Đức có tả rõ các thứ thuyền. Theo họ, thuyền Hải đạo là tàu thuỷ chiến hay nhất, chiến hạm là thuyền buôn không buồm mà nhỏ (chú này sử quan ghi cho thuyền Hải đạo), ghe Ô, ghe Chu là các ghe đánh giặc thân lớn, dài, ghe Lê có chạm vẽ ở mũi thuyền và lái. Ngoài ra, ở những chỗ khác, sử quan ghi thêm các thuyền hiệu (5 thuyền hiệu tạo tháng giêng năm Nhâm Tý 1792: Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến, Huề Hạc), các Ô sai thuyền (chắc là ghe Ô), Đại hiệu thuyền và Tây dương dạng thuyền 70.

Tài liệu của người Pháp giúp việc Nguyễn Ánh để lại hay nói đến các chiến ghe rõ là các thứ ghe Ô, Chu, Lê. Có lẽ từ ngữ này cũng chỉ các thứ ghe mà L. Barizy gọi bằng các tên galère, chaloupe canonière, demi canonière... khác nhau từ lớn tới nhỏ. Còn Tây dương dạng thuyền hẳn là các "vaisseaux construits à l’européenne" mà Barrow nói tới, J. Liot tả rõ, một loạt frégate có phía sau và buồm dạng của Trung Hoa trong khi phần còn lại mang dạng Tây, có 6 đại bác mỗi bên, mỗi cái mỗi đầu 71. Đó là các Thao (tàu) Thoại Phụng của Barizy điều khiển, Loan Phi của Chaigneau, Bằng Phi của De Forçan, Phượng Phi của Vannier...

Tuy nhiên, trước đó khi chưa lập Chu Sư xưởng, Nguyễn Ánh cũng thuê được các tàu Bồ đi buôn (10 chiếc) võ trang thành chiến hạm. Chiếc "tàu đồng" do Dayot chỉ huy tiến vào cửa Thi Nại (1792) là một kinh ngạc lớn cho Tây Sơn. 72. Rồi sau đó Nguyễn Ánh mới bắt chước theo các tàu Tây mà đóng tàu vỏ đồng nhờ số kim loại dồi dào trong các cuộc trao đổi thương mại. Còn các ghe thì đóng toàn bằng gỗ ván lấy trên các vùng nguồn Băng Bót, Quang Hoá trên đất ta, Sơn Phụ, Sơn Bốc, Sơn Trung trên đất Miên. 73

Tóm lại, đặc sắc của thuỷ quân Gia Định là sự dồi dào vũ khí, hiệu suất cao của chúng, là các tàu bọc vỏ đồng chắc chắn cùng chiến thuật mới của các sĩ quan Tây Phương đưa vào. Lực lượng này là kết quả của công cuộc khai thác đất Gia Định mở rộng trao đổi với bên ngoài. Nó trở thành nòng cốt của lực lượng thống nhất một khi Tây Sơn trên bộ chưa tìm được cách phát triển hơn thì lại phải đối phó với sự tan rã nội bộ ở trung tâm Phú Xuân nữa. Biển cả thênh thang ở phía đông với đội hải thuyền lớn mạnh của Gia Định biết uốn nắn theo quy luật gió mùa sẽ mang đầy đủ ý nghĩa của một yếu tố kết liền hơn là một yếu tố ngăn cách vậy.

Các sắc dân trong tiến trình tiếp xúc * Đời sống vật chất thường nhật * Đời sống với ảnh hưởng của chiến tranh * Đời sông tinh thần.

Trên con đường phát triển của đôi bên Tây Sơn và Nguyễn dần dần đưa tới chỗ biến đổi thế quân bình có lợi cho Gia Định, chúng ta đã phân tích ảnh hưởng bên ngoài cùng thái độ, công việc của lớp người cầm quyền. Nhưng ta cũng không quên rằng thấp thoáng sau những sự kiện chứng dẫn vẫn có bóng quyền uy, mồ hôi nước mắt của đám dân chúng đã đưa Quang Trung đến trận Đống Đa, mời gọi Nguyễn Ánh về Gia Định, nghĩa là thúc đẩy lịch sử đi theo bước tiến của nó mà chính họ, họ cũng không hay biết gì. Trước khi bước gấp tới để nhìn đôi bên thanh toán nhau, chúng ta hãy dừng lại sống cuộc sống không tên không tuổi của người xưa vào thời đó qua những tài liệu quá hiếm hoi, quá vắn tắt đã để lại.

Bản đồ nhân chủng Đại Việt vào hậu bán thế kỷ XVIII có khác với bây giờ, nhất là ở miền Nam Hà. Trên con đường tràn về Nam, đám nông dân đồng bằng tiếp xúc với những nhóm thiểu số hoặc từ đời nào vẫn có cuộc sống bộ lạc dời đổi như các sắc dân phía Tây, hoặc đã từng là phần tử của những quốc gia hào hùng trong quá khứ như Chiêm Thành, Chân Lạp, hoặc là những kẻ từ phương xa tới, những con chim đi tìm đất lành như Tiêm, Trung Hoa... Chúng ta đã thấy sức mạnh của Nam Hà dựa trên sự kết hợp này như thế nào rồi. Tuy nhiên các phần tử không phải đã được nhất hoá - cũng như ở Bắc Hà - các nhóm sẽ hướng về trung ương mà dần dần biến đổi.

Trước nhất là dân Chiêm Thành. Khoảng 1773-1774, chúng ta gặp họ tụ đoàn xa nhất về hướng Bắc là Thạch Thành ở Phú Yên. Nữ chúa Thị Hoả của họ đã hưởng ứng với Tây Sơn và bị Tống Phúc Hợp giết. Nhóm thứ hai quan trọng hơn, ở Bình Thuận, được Nguyễn đặt riêng là Thuận Thành trấn, từ Kế-bà-tử đến Chưởng cơ Tá vẫn thế tập kế truyền.

Từ năm 1782, Tây Sơn vào, Tá đem vàng bạc ra hàng. Năm 1788, Nguyễn Ánh về, Tá đem quân lên núi giết quân Ánh biến thành một tiền đồn quan trọng của Tây Sơn. Khi quân Nguyễn ra đến Phan Rí, Nguyễn Văn Hào dẫn bắt giết Tá. Từ đó mới chấm dứt vương hiệu. Ánh phong cho Nguyễn Văn Chiêu làm Chưởng cơ, Nguyễn Văn Hào, Nguyễn Văn Chấn làm Cai cơ coi trấn Thuận Thành. Các tên đó vốn là Nguyễn-hoá rồi chứ thật ra Chiêu tên Môn-lai-phù-tử, Hào tên Thôn-ba-hú, Chấn tên Bô-kha-đáo. Sau Chiêu được phong Tán lý theo quân Nguyễn Ánh đánh giặc trở thành một viên quan triều, còn Hào lên thế coi sóc Chử Chân, Tiểu Trà Dương, Đại Trà Dương 74 có Chấn phụ tá.

Đầu năm 1793, lại thêm 3 sóc về hàng là Phố Châm và Ba Phủ 75, Nguyễn Ánh lo tổ chức cai trị trấn Thuận Thành, đặt Lịnh-sử-ti 10 người coi xét công việc trong trấn. Sưu dịch họ phải làm ngoài binh vụ là bắt voi nạp, vào tổ chức An tượng cơ để dạy voi cho thuần, dùng trong chiến tranh. Thuế Gia Định đánh vào họ là trầm hương, kỳ nam, thuế lúa nạp thay tiền. Ruộng ở đó thường bị khô cháy, không cày cấy được miễn thuế. Ruộng Trà Nương ở xứ Long Hương 76, Phan Rí, Phố Hài là lộc ăn của vua Chàm cũng theo quy chế trên, nghĩa là chỉ chịu thuế những khoảng nào có người cày thôi.

Các trận chiến qua lại trên trấn Thuận Thành khiến cho hơn 36 sóc người Thượng phải bỏ xuống phía nam nơi các vùng Đồng Môn, Phước Hưng, La Bôn 77 xin trú ngụ và phụ thuộc vào dinh Trấn Biên. Chiến tranh gây sách nhiễu cho lớp người thiểu số này nên có sóc như sóc Ba Phủ đã nổi loạn suốt mấy năm 1796, 1797, 1798, 1799 đến nỗi Nguyễn Văn Thành phải kêu lên: "Ba Phủ là mối lo tâm phúc của ta". Chính loạn Ba Phủ lúc dừng, lúc phát, lúc ẩn náu trong rừng sâu, lúc ồ ạt ngoài đồng nội đã làm ngăn trở ít nhiều những cuộc tiến quân ra Bắc 78.

Một điều đáng chú ý là sự quy phục càng ngày càng đông của những người Thượng về phía Gia Định. Rải rác đây đó, Thực lục ghi việc tháng 4 âm lịch 1791 dân Thượng Bình Khang đánh Tây Sơn, việc Ánh kêu gọi các tù trưởng Phố Châm, Ba Phủ kêu gọi đồng bào họ về hàng để ngăn giặc, việc dân Thượng Đồng Hương ở Bình Khang (1793), Thuỷ Xá ở Phú Yên (1794) ra hàng được cấp vải vóc, tiền bạc, chiêng cồng. Các việc này cũng như việc Hà Công Thái tù trưởng Mường ở Thanh Hoá đưa thư vào Gia Định xin đánh giặc chứng tỏ thái độ bất phục tùng của đám dân phía Tây đối với Tây Sơn. Hành động này có thể do uy danh của Nguyễn Ánh lan rộng ra, nhưng đằng khác cũng bắt nguồn từ việc Tây Sơn không có đủ để trao đổi với họ gạo lúa, vải vóc, sắt đồng... nghĩa là những thứ họ cần dùng trong khi Gia Định rộng rãi hơn 79.

Người trung gian quan trọng giữa Gia Định và các sắc tộc miền Cao Nguyên là Nguyễn Long, bộ tướng của Châu Văn Tiếp từ lúc chiếm cứ núi Chà Rang với dân Thượng Phú Yên. Chức Thượng đạo Tướng quân mà ông giữ suốt cả thời gian từ lúc về Gia Định đến khi thống nhất, chứng tỏ Nguyễn Ánh đã biết dùng uy tín của ông để chiêu dụ họ. Tên tuổi ông có vẻ lấp sau các chiến tướng đánh Tây Sơn, nhưng nội một vai trò giữ yên miền Thượng cũng đủ là cả một đại công rồi.

Xa nữa về phía Nam cũng có những vấn đề phức tạp về chủng tộc phải đặt ra. Ở đây, sử quan gọi người Việt là Hán nhân, người Hoa đến ở là Thanh nhân, Đường nhân, người Miên là Lạp dân hay Phiên dân. Chính sách tự trị, phân biệt được thực hiện trong một chừng mực có lợi cho quốc gia. Một người Thanh làm Chưởng cơ tên Trần Công Dẫn được phái trông coi làm sổ bộ cho những người Đường cũ và mới ở các tỉnh, kể cả binh lính. Có lẽ Lư Việt Quan làm Tổng phủ ở Trà Vinh coi Đường nhân, trưng quan thuế, là một người Hoa; cũng có lẽ người Hoa là Tường Vĩnh Quan làm Đồng khấu coi ruộng muối, Lâm Ngũ Quan Tổng phủ Ba Thắc.

Về phía người Miên, tháng 1 âm lịch 1791, Ốc-nha La làm An phủ ở Ba Thắc trông coi các phiên liêu, bộ lạc 80. Chính sách tự trị này là kết quả của những bước dò dẫm. Ban đầu dẹp xong Phạm Văn Sâm, giết được Ốc-nha Ốc, Ánh thấy không cai trị trực tiếp được họ nên phải để cho một viên "phiên liêu về hàng" là Gia-tri-giáp coi phủ Ba Thắc. Triều đình trông chừng bằng cách lập luỹ Trấn Di kiềm chế.

Thế nhưng chính sách tự trị quá rộng rãi này lại không được hiệu quả. Thổ dân vẫn hướng về Chân Lạp nên khi Gia-tri-giáp được rút về Nam Vang thì viên tù trưởng mới lại đánh phá luỹ Trấn Di khiến Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương phải đến thay thế Trương Phúc Khoa mới dẹp an được. Số lượng quân chinh phạt lên đến 8.000 người và kết quả là đồng ruộng bị đốt cháy, bọn nổi loạn chắc bị giết hết nếu không có Bá-đa-lộc can kịp 81. Nguyễn Ánh rút bớt quyền các tù trưởng, để Ốc-nha Kê dưới quyền đạo Trấn Di đi thu mối lợi lớn là thuế hoa chi của Đường nhân, còn các chức việc Miên (phiên liêu) thì dưới quyền một An phủ như ta đã thấy.

Việc Ba Thắc lôi thôi cũng vì Chiêu-thuỳ Biện, viên phụ chính ở Nam Vang. Ông này luôn luôn tìm cách gây hiềm khích giữa Gia Định và Vọng Các bằng cách báo rằng Nguyễn Ánh đúc súng đạn để xâm chiếm Xiêm khiến Ánh phải sai sứ sang phân trần. Việc Biện muốn chiếm lại Ba Thắc có lúc đã được Rama I nghe theo nên khiến sứ qua Gia Định điều đình về việc đó nhân tiện muốn lan rộng ảnh hưởng đến vùng Hà Tiên bằng cách xin cho Mạc Công Bính giữ Long Xuyên, Kiên Giang. Ánh từ chối khéo: "Vì cớ Chiêu-thuỳ Biện chớ riêng người Xiêm thì đâu có tiếc". Cho đến tháng 9 âm lịch 1794, Biện chạy về Battambang, Gia Định nhân đó đòi Nặc-ấn từ lâu ở Xiêm, Nguyễn Ánh mới thoát được một kẻ làm rầy rà, nhất là khi thực lực ông đã lớn mạnh hẳn 82. Người Việt tới, người Miên cũng không tránh khỏi nạn bị giành đất. Nguyễn Ánh phải ra sắc bắt dân chúng phàm xứ nào ruộng đất canh tác thành ruộng rồi thì cứ trông coi, ai làm chủ nấy, dư ra chia đều mà không được tranh tụng gì cả. Về phần người Hoa ngụ cư, như có đất hoang được quan chứng cho khai phá thì được cấp làm.

Phân định rõ ràng quyền lợi, người Miên trở thành một phần tử trong một quốc gia. Cho nên, Nguyễn Ánh cũng không quên nguồn nhân lực này. Ta đã nói tới đội binh Miên của Nguyễn Văn Tồn, người dịch đình nô (mõ làng) sau này vào năm 1795 cùng với 1.500 binh và chánh, phó chi binh Miên là Ốc-nha Diệp, Ốc-nha Oa đi trấn Bà Rịa 83. Chúng ta cũng nghe đến đoàn quân Miên 5.000 người cùng 10 voi do Cao-la-hâm-sâm cầm đầu có mặt ở Quy Nhơn trong trận phá vây cho Võ Tánh. Tất cả vừa đủ để chứng minh sự tham gia của họ vào chiến tranh. Điều đáng lưu ý là theo với thời gian lối sinh sống của họ cũng như của những đám dân thiểu số khác dần dần Việt hoá đi. Lịch sử Đại Việt có họ thêm dồi dào, phức tạp, thêm yếu tố thúc đẩy năng lực tiến thủ cần thiết cho bất cứ một tập thể nào muốn sinh tồn và lớn mạnh.

Những sự kiện trên nhìn xét trong giao tiếp của từng khối người trên bình diện quốc gia, không làm cho chúng ta quên người dân trong sinh hoạt hàng ngày. Chúng ta còn thấy họ khi chúng ta về thăm lại những làng, sóc miền quê, khi nhìn lại chung quanh ta. Điều ấy xác quyết được vì sự tiến bộ bao hàm đổi thay cũng có ý nghĩa cái gì được giữ lại. Tuy nhiên không vì lẽ đó mà chúng ta lẫn lộn hiện tại với quá khứ, nhất là khi quá khứ có chứng tỏ đã quan sát vào lúc đương thời của nó.

Sinh hoạt thường ngày 84 khác nhau tuỳ theo cách khai thác sản vật. Trên miền núi hay bìa rừng người ta sống với lề lối lượm hái, săn bắn có khi có tổ chức khá cao. Ở Nghệ An dân tổng Hữu Đạo, huyện Thượng Du phải đi lấy vỏ quế và sáp ong vàng để dâng lên Vua 85. Việc lấy sáp vàng thấy có khắp nơi trên đất Việt (hoàng lạp nậu ở Gia Định), nhưng quế là đặc biệt ở vùng Thanh, Nghệ, Quảng cũng như trầm hương, kỳ nam thấy nhiều ở phía nam, nghề nghiệp của dân Thượng Bình Khang, dân Chàm... Dân Thượng len lỏi hái trầu, măng le, cây trái chuyển qua các nguồn. Ngoài ra ngà voi, sừng tê cũng là những sản phẩm có danh ngoài xứ.

Người dân miền núi dữ dằn, đen điu thì người dân đồng vẻ mặt trông nhẹ nhõm hơn, nước da ít sậm hơn, lễ phép, đáng yêu, lành và giản dị. Nông phu, theo nhận xét của người ngoại quốc, có dáng lanh lẹ và thông minh. Đàn bà nhiều hơn đàn ông và cũng làm việc đồng áng nhiều hơn. Ruộng thì có ruộng núi nhờ nước trời mưa và ruộng đồng. Ở vùng quê Quảng Nam ruộng cắt thành từng mảnh nhỏ hai bên những bờ đất nhỏ. Các rạch dẫn nước từ sông vào. Ruộng nào nước không tới thì người ta tưới bằng vò. Tuy nhiên có hệ thống dẫn thuỷ nhập điền được trông nom chu đáo bằng những công cụ khá tinh xảo như các xe nước ở bắc Bình Định và Quảng Ngãi. Cày có hai trâu kéo. Cái cày toàn bằng gỗ. Thực lục có dẫn việc cấp ngưu canh điền khí cho những người ở đồn điền trại, dẫn việc trâu bò của Kiến Hoà phải chết dịch nhiều.

Người dân chài có khi sống cả năm trên các ghe mui cong. Muốn cho những đứa bé rủi có lọt xuống sông khỏi chết trôi, người ta cột những chiếc phao to vào cổ chúng. Chiếc ghe giản dị nhất thì bằng tre đan rồi quét vôi lên. Nhưng cũng có những thuyền gỗ thường dùng, làm bằng 5 tấm ván ghép chung với nhau không có sườn nâng đỡ. Chúng được uốn cong bằng lửa rồi nối bằng các then nhỏ và lạt tre cột lại. Chính dân chài tự đóng thuyền lấy và họ sử dụng nhiều đến các ngón chân phụ giúp các bàn tay khiến chúng cứng khều như bàn chân vậy.

Việc buôn bán những thổ sản đối với các nghề nông, chài thật đã đem lại nhiều mối lợi lớn hơn. Chúng ta đã thấy Nguyễn Nhạc buôn trầu (hiểu theo nghĩa buôn qua các nguồn: lâm sản đi xuống, cá, muối, kim khí đ