← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V. TƯ TƯỞNG VÀ NGHỆ THUẬT HỒI GIÁO PHƯƠNG ĐÔNG[140]-632-1058

I. BÁC HỌC

II. KHOA HỌC

III. Y HỌC

IV. TRIẾT HỌC

V. CHỦ NGHĨA THẦN BÍ VÀ TÀ THUYẾT

VI. VĂN HỌC

V. NGHỆ THUẬT

VIII. ÂM NHẠC

I. BÁC HỌC

Theo truyền thuyết, trái với với hầu hết các nhà cải cách tôn giáo, Mahomet khuyến khích và tán thưởng sự phát triển tri thức: “Kẻ nào từ biệt gia đình để tìm hiểu thêm, mở mang tri thức, là kẻ đó đi trên con đường của Thượng Đế… và mực của nhà bác học còn linh thiêng hơn máu của người tử vì “đạo”, nhưng truyền thuyết đó có vẻ như để khoe rằng người Ả Rập trọng sự giáo dục hơn các dân tộc khác. Dù sau khi người Ả Rập tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp ở Syrie thì họ thấy phấn khởi, muốn ganh đua; và chẳng bao lâu, họ trọng nhà bác học cũng ngang với thi sĩ.

Người ta dạy trẻ trẻ ngay từ khi nó mới biết nói; người ta dạy chúng ngay câu: “Con nhận rằng ngoài đấng Allah ra không có vị thần nào khác, và đức Mahomet là vị Tiên tri của Ngài”. Hồi sáu tuổi, một số trẻ nô lệ, một số con gái và hầu hết các con trai không nô lệ, trừ con nhà giàu (chúng có gia sư) vô một trường sơ học thường là thánh thất, đôi khi ở giữa trời, bên một phong ten công cộng. Thầy giáo đa số không lấy tiền học hoặc lấy thì rất nhẹ, ai cũng có thể trả được, vào khoảng mười lăm quan tiền Pháp mỗi trò[141]; những phí tổn khác do các nhà từ thiện đóng góp.

Sự dạy dỗ thực giản dị: những kinh cầu nguyện cần thiết, tập đọc đủ để đọc kinh Coran, khỏi dạy các môn khác vì kinh Coran vừa là sách thần học, vừa là sử kí, luân lí, luật pháp. Tập viết và tập làm toán thì để lên những trường cao cấp, có lẽ vì ở phương Đông, viết chữ là một nghệ thuật cần phải học riêng; với lại người Hồi giáo nghĩ rằng ai thực cần giữ sổ sách, văn thư thì đã có hạng kí lục giúp đỡ. Mỗi ngày người ta học thuộc lòng một đoạn trong kinh Coran; mục đích là thuộc trọn kinh. Ai thuộc được thì gọi là hafiz (người nắm được đạo lí) và được xiển dương trước công chúng. Người nào lại học viết, bắn cung và lội nữa, thì gọi là al-kamil (hoàn toàn). Phương pháp dạy là bắt buộc thuộc lòng, luyện kí tính, kỉ luật nghiêm, dùng roi; thầy giáo thường dùng một cành kè quất vào gan bàn chân trẻ. Vua Haroun bảo vị sư phó dạy hoàng tử Amin: “Đừng nghiêm quá mà khả năng của nó không phát ra được, mà cũng đừng dễ dãi tới mức… làm cho nó hoá ra biếng nhác. Rán nhỏ nhẹ ngọt ngào sửa tính cho nó, nhưng nếu như vậy không có kết quả thì đừng nghiêm khắc, roi vọt”.

Nền tiểu học nhằm luyện tư cách cho trẻ, nền trung học chú trọng về trí học. Ngồi xổm, lưng dựa vào một cái cột hay một bức tường trong thánh thất, các giáo sư giải thích kinh Coran và các hadith (truyền thuyết), dạy thần học và luật học. Không biết rõ từ hồi nào, các trường trung học không có thể thức gì ấy được quốc gia định, trợ cấp, thành những madrasa (học viện). Ngoài môn thần học căn bản ra, người ta dạy thêm các môn ngữ pháp, ngôn ngữ học, tu từ, văn học, luân lí, toán, thiên văn. Người ta dạy kĩ môn ngữ pháp, vì người ta cho tiếng Ả Rập là một ngôn ngữ hoàn hảo nhất, nói đúng tiếng ấy là dấu hiệu tỏ rằng mình thuộc hạng thượng lưu. Các học viện ấy không thu học phí và có khi chính quyền và các nhà hảo tâm chẳng những trả lương cho giáo sư mà còn gánh vác các phí tổn của sinh viên nữa. Sách học – trừ kinh Coran – không quan trọng bằng ông thầy; trò học thầy hơn là học trong sách; và có những sinh viên đi khắp đế quốc để tìm một ông thầy nổi danh. Sinh viên nào muốn được trọng vọng ở quê hương thì phải lại học các nhà đại thông thái ở La Mecque, Bagdad, Damas và Le Caire. Văn học có tính cách quốc tế như vậy là nhờ trong toàn thể đế quốc, tuy có nhiều dân tộc nhưng ngôn ngữ Ả Rập vẫn là ngôn ngữ của văn học, khoa học; tiếng La Tinh cũng không có được một phạm vi rộng hơn. Khi một du khách vô một thị trấn Hồi giáo thì biết chắc rằng gần như bất kì giờ nào, mình cũng có thể lại thánh thất chính để nghe một nhà bác học diễn giảng. Nhiều khi, một sinh viên ở một nơi khác tới, chẳng những được miễn học phí mà trong một thời gian còn được ăn ở khỏi trả tiền nữa. Không có bằng cấp, chức tước gì cả; sinh viên chỉ được thầy phát cho một chứng chỉ thừa nhận thế thôi. Vinh dự cuối cùng là học được adab, tức những cử chỉ, ngôn ngữ, giám thức thanh nhã và những kiến thức bất vị lợi của hạng thượng lưu, quí phái.

Khi người Hồi giáo chiếm Samarcande[142] (712), họ học được của người Trung Hoa cách giã cây gai và vài thứ cây có thớ nhỏ nữa thành một thứ bột nhồi tráng ra thành những tờ mỏng rồi phơi cho ráo. Ở Cận Đông, người ta dùng những tờ giấy ấy để viết, thay da cừu, da bò non và loại giấy papyrus[143] của người Ai Cập và gọi sản phẩm mới đó là papynos. Xưởng đầu tiên chế tạo giấy do al-Fadl, con vua Haroun thành lập ở Bagdad năm 794. Phương pháp ấy do người Ả Rập truyền qua Sicile, Y Pha Nho, rồi từ Y Pha Nho qua Ý, Pháp. Người ta thấy giấy được dùng ở Trung Hoa từ năm 105 sau T.L., ở La Mecque từ năm 707[144], Ai Cập năm 800, Y Pha Nho năm 959, Đức năm 1288, Anh năm 1390. Nhờ phát minh đó mà dễ đóng thành sách. Yakoubi bảo rằng thời ông (891) Bagdad có trên một trăm tiệm sách. Tiệm nào cũng là trung tâm chép sách, và nơi các văn nhân hội họp. Nhiều sinh viên sống nhờ việc chép các văn bản chép tay và gửi bán ở tiệm sách. Ở thế kỉ thứ X mà đã có những kẻ chạy chọt xin thủ bút, và những kẻ sưu tầm sách chịu trả đắt những bản chép tay hiếm có. Tác giả không được hưởng một chút tác quyền nào cả; họ sống nhờ những công việc khác hoặc nhờ sự trợ cấp của các ông hoàng, các đại phú gia; văn thơ, nghệ thuật đều sáng tác để thoả mãn thị hiếu của bọn quyền quí hoặc giàu có.

Hầu hết các thánh thất đều có thư viện, vài thị trấn có những thư viện công cộng rất lớn, ai vô cũng được. Khoảng 950, Mossoul có một thư viện do những người hảo tâm thành lập, sinh viên được vô đọc sách, lại được cung cấp giấy cho nữa. Phải có mười thư mục lớn mới ghi hết được tên sách của thư viện Sayy. Thư viện Bassora trả lương cho các học giả lại đó nghiên cứu. Nhà địa lí học Yakyl vô các thư viện ở Merv và Khwarizm nghiên cứu ba năm, kiếm tài liệu soạn bộ từ điển địa lí. Khi Bagdad bị Mông Cổ tàn phá thị trấn ấy có tới 36 thư viện công cộng. Thư viện tư thì nhiều vô kể; phú gia nào cũng đua nhau gây một tủ sách lớn. Một y sĩ từ chối một chức lớn ở triều đình vua Noukhara vì muốn chở theo thư viện của ông, phải dùng tới bảy trăm con lạc đà. Al-Wakidi, khi chết để lại sáu trăm hộp đầy sách, hộp nào cũng phải hai người khiêng mới nổi. “Những ông hoàng như Sahib ibn Abbas ở thế kỉ thứ X có thể có một số sách nhiều bằng sách trong tất cả các thư viện châu Âu gom lại”. Trong mấy thế kỉ VIII, IX, X và XI, khắp thế giới không đâu người ta mê sách như vậy, trừ Trung Hoa ở triều đại Đường Minh Hoàng. Văn học Hồi giáo hồi đó đạt tới tuyệt đỉnh. Các học giả nhiều như cột trong hàng ngàn thánh thất từ Cordou tới Samarcande, lời diễn giảng hùng hồn của họ làm run chuyển cả các tu viện; bọn sử gia, địa lí gia, thần học gia đi nườm nượp đầy đường trong đế quốc để học hỏi, nghiên cứu; triều đình của hàng trăm vua chúa vang lên những tiếng ngâm thơ và lời tranh luận triết học; không một nhà triệu phú nào mà lại mặt dày mày dạn tới nỗi không bảo trợ văn thơ hoặc nghệ thuật. Người Ả Rập trí óc mẫn tiệp, hăng hái hấp thụ văn hoá cổ của các nước bị họ xâm chiếm; và họ rất khoan dung cho nên trong số các thi sĩ, bác học gia, triết gia làm cho tiếng Ả Rập thành ngôn ngữ tinh thông nhất, phong phú, đẹp đẽ nhất thế giới, chỉ có một số ít nhà thuộc huyết thống Ả Rập.

Các học giả Hồi giáo thời đó nghiên cứu ngữ pháp để cải thiện ngôn ngữ Ả Rập, cho nó hợp với luân lí, có những cách phô diễn mẫu mực làm căn bản cho một nền văn học tuyệt cao; họ soạn tự điển để dụng ngữ thêm tinh xác, phong phú, soạn các bộ thi tuyển, văn tuyển, bách khoa toàn thư và các sách toát yếu để bảo tồn được nhiều cái quí; họ lại hiệu đính, phê bình văn học và lịch sử. Chúng ta không thể kể hết tên của họ được, nhưng mang ơn và ngưỡng mộ sự nghiệp của họ.

Các học giả chúng ta nhớ tới trước tiên là các sử gia, vì không có họ thì chúng ta không biết chút gì về văn minh Ả Rập, cũng như trước thời Champolion[145], người ta không biết chút gì về văn minh cổ Ai Cập.

Muhammad ibn Ishak (chết năm 767) viết cuốn “Tiểu sử Mahomet”, một tác phẩm mẫu mực; cuốn đó, Ibn Hisham (763) viết lại, tăng bổ, thành tác phẩm cổ nhất, quan trọng nhất – trừ kinh Coran – bằng văn xuôi Ả Rập, còn lưu truyền tới nay. Nhiều học giả tò mò, khảo cứu không biết mệt, soạn các bộ tự điển về đời sống các thánh, triết gia, tổng lí đại thần, luật gia, y sĩ, quan lớn, quan nhỏ, người viết chữ tốt, học giả và chép cả tình sử nữa. Ibn-Kutaiba (828-889) là một trong nhiều người Hồi giáo thử viết một bộ lịch sử thế giới; trái với hầu hết các sử gia, ông can đảm đặt tôn giáo của ông vào địa vị khiêm tốn, địa vị của bất kì dân tộc nào, tôn giáo nào so với thời gian vô cùng. Muhammad Nadim xuất bản năm 987 một “Mục lục các khoa học”, tức là một thư tịch ghi tất cả các sách bằng tiếng Ả Rập, nguyên tác hoặc dịch, trong mọi ngành tri thức, với một tiểu truyện thành lời phê bình về mỗi tác giả, chép những đức và cả những tạt của mỗi nhà; chúng ta thấy văn học Hồi giáo thời ấy phong phú ra sao, nếu chúng ta nhớ rằng ông kể tên cả ngàn tác phẩm, mà hiện nay không còn lưu lại được một tác phẩm nào.

Đại sử gia của Hồi giáo là Abu Jafar Muhamad al-Tabari (838-923). Như đa số các văn sĩ Hồi giáo, ông gốc Ba Tư, sinh ở Tabarstan, phía Nam biển Caspienne. Sau nhiều năm sống một đời sinh viên nghèo, nay đây mai đó, khi ở Ả Rập, lúc ở Syrie, Ai Cập, ông định cư ở Bagdad, chuyên trứ thuật về luật học. Ông bỏ ra bốn chục năm soạn một bộ kí sự thế giới vĩ đại: “Sử các Sứ đồ và các vua chúa” từ thời khai thiên lập địa tới năm 913. Hiện nay còn giữ được mười lăm cuốn lớn; người ta bảo rằng nguyên bản dài gắp mười như vậy. Như Bossuet[146], al-Tabari thấy biến cố nào cũng do Thượng Đế an bài cả, và mấy chương đầu đầy những lời bậy bạ: “Thượng Đế sinh ra loài người để thử thách họ”. Thượng Đế từ trên trời thả một ngôi nhà bằng Hồng ngọc xuống cho Adam (thuỷ tổ loài người), nhưng Adam có tội, Ngài lấy lại ngôi nhà. Al-Tabari theo Thánh kinh để viết lại lịch sử Do Thái; ông nhận rằng thánh mẫu Marie còn trinh khi sinh chúa Kitô (bà mang thai vì thánh Gabriel thổi vào tay áo bà); ông chép tới khi chúa Kitô là hết phần thứ nhất. Phần thứ nhì vững vàng hơn, kể lại lịch sử Ba Tư dưới triều đại Sassanide bằng bút pháp gọn, đôi khi linh động. Ông dùng phương pháp niên biểu, chép biến cố từng năm một, và đôi khi dùng một hay nhiều loạt truyền thuyết để đi ngược lên tới một người để trông hoặc nghe thấy biến cố. Phương pháp đó quí ở điểm tìm tòi, ghi chép cẩn thận xuất xứ, nhưng ông không rán kết hợp nhiều truyền thuyết để thành một truyện có mạch lạc nhất trí, thành thử bộ sử của ông chỉ là một núi tài liệu chứ không phải là một tác phẩm nghệ thuật.

Al-Masudi, người kế nghiệp nổi danh nhất của al-Tabari, ông là sử gia lớn nhất từ trước tới thời mình. Abu Hasan Ali al-Masudi, gốc Ả Rập ở Bagdad, du lịch khắp nơi: Syrie, Palestine, Ả Rập, Zanzibar[147], Ba Tư, Trung Á, Ấn Độ, Tích Lan và tới cả biển Trung Hoa nữa. Ông gom tất cả những điều ông lượm được vào một bộ Bách khoa toàn thư ba mươi quyển, mà ngay những học giả thích tìm hiểu đế quốc Hồi giáo nhất cũng cho là dài quá; ông cho ra một bộ toát yếu, nhưng vẫn còn vĩ đại; sau cùng, năm 947, có lẽ hiểu rằng mình có nhiều thì giờ để viết chứ độc giả có ít thì giờ để đọc, nên ông rút lại thành bộ hiện nay chúng ta được biết, và đặt cho nó một nhan đề hơi ngông: “Đồng cỏ vàng và mỏ ngọc”[148].

Quả thực môn gì ông cũng tiêu hoá được, từ địa lí, sinh vật học, sử kí tới phong tục, tôn giáo, khoa học, triết học, văn học của mọi nước, từ Trung Hoa tới Pháp. Ông vừa là Pline, vừa là Hérodote[149] của đế quốc Hồi giáo. Văn ông không cô động tới khô khan, trái lại lưu loát, dễ đọc, thỉnh thoảng kể thêm một chuyện vui. Về tôn giáo, ông hơi có tinh thần hoài nghi, nhưng không bắt độc giả theo ý kiến của mình. Năm cuối cùng trong đời ông, ông tóm tắt ý nghĩ của ông về khoa học, lịch sử và triết học trong cuốn “Tự ngôn” chủ trương rằng có sự tiến hoá “từ khoáng vật tới loài người”. Có lẽ ý kiến đó làm cho hạng bảo thủ ở Bagdad ghét ông; ông bắt buộc phải, như ông nói, “lìa nơi tôi sinh trưởng”. Ông lại ở Le Caire, phàn nàn vì phải xa cố hương. Ông bảo: “Thời đại chúng ta có đặc điểm là tìm cách chia rẽ hết thảy… Nhờ Thượng Đế sinh ra tình yêu gia đình, quê hương mà dân tộc mới cường thịnh; quyến luyến với nơi chôn nhau cắt rốn của mình là tỏ rằng mình lương thiện; không thích xa ngôi nhà và quê hương của tổ tiên là tỏ rằng mình thuộc dòng dõi cao quí”. Sau mười năm tha hương, ông mất ở Le Caire năm 956.

Các sử gia đó có một mục đích và hứng thú chung; họ khéo xen lẫn địa lí với sử kí, và không có gì liên quan tới con người mà họ không để ý tới; họ hơn hẳn các sử gia Kitô giáo đồng thời. Nhưng họ vẫn kể lể quá dài dòng về chính trị, chiến tranh, ham tật tu từ lải nhải, rất ít khi xét những nguyên nhân kinh tế, xã hội và tâm lí của các biến cố; chúng ta tiếc rằng những tác phẩm tổng hợp, chỉ là một mớ tài liệu rời rạc về các dân tộc, các nhân vật, các việc xảy ra. Rất ít khi họ chịu nghiên cứu kĩ lưỡng xuất xứ, quá trọng và quá tin những truyền thuyết móc nối vào nhau như mắt một sợi dây xích mà không ngờ rằng mỗi mắt có thể lầm lẫn hoặc nguỵ tạo, thành thử đôi khi họ kể những chuyện ngây ngô về điềm lành, điềm xấu, phép mầu và huyền thoại. Giống như nhiều sử gia Kitô giáo (tất cả trừ Gibbon) có thể viết về thời Trung cổ mà coi văn minh Hồi giáo chỉ là một chương ngắn phụ thuộc vào lịch sử Thập tự chiến; nhiều sử gia Hồi giáo cũng mắc tật thiên kiến đó, cho lịch sử thế giới trước khi có Hồi giáo chỉ là một thời đại lâu dài chuẩn bị cho Mahomet ra đời[150]. Nhưng một người có tinh thần phương Tây làm sao có thể phê bình tinh thần phương Đông một cách công bình được? Trong một bản dịch, cái đẹp của ngôn ngữ Ả Rập bị làm khô héo hết như một bông hoa lìa cành; và những truyện trong tác phẩm của sử gia Hồi giáo làm cho người Ả Rập mê; còn đối với độc giả phương Tây có thể là khô khan, vô ích, khi họ không hiểu rằng Đông Tây phải hiểu lẫn nhau, tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế.

II. KHOA HỌC

Trong mấy thế kỉ cường thịnh của Hồi giáo, các người Hồi giáo đã gắng sức giúp cho Đông Tây hiểu lẫn nhau. Các calife nhận thấy sự lạc hậu về khoa học, triết học của dân tộc Ả Rập, và sự phong phú của văn học Hy Lạp còn được truyền lại Syrie. Triều đại Omeyyade sáng suốt để cho các học viện Kitô giáo, Ba Tư… tự do hoạt động ở Alexandrie, Beyrouth, Antioche, Harran, Nisbis và Jud-i-Shapur; các trường đó còn giữ các tác phẩm cổ điển về khoa học, triết học Hy Lạp, thường là nhờ các bản dịch ra tiếng Syriaque[151].

Những người Hồi giáo học tiếng Hy Lạp hoặc tiếng Syriaque để ý tới các tác phẩm ấy và chẳng bao lâu có những người theo Cảnh giáo và những người Do Thái đem dịch ra tiếng Ả Rập. Các triều đại Omeyyade và Abbasside khuyến khích sự vay mượn rất có lợi đó. Al-Mansur, al-Mamoun và al-Mutawakkil phái sứ giả tới Constantinople và các thị trấn Hy Lạp khác – có khi tới cả những kẻ thù truyền kiếp của họ là các hoàng đế Hy Lạp – xin các sách Hy Lạp, đặc biệt là các bộ khoa học và toán học; do đó mà bộ “Nguyên lý” của Euclide mới truyền vô Ả Rập. Năm 830, al-Mamoun bỏ ra hai trăm ngàn dinar (950.000 Mĩ kim) để cất “Toà Minh triết” (Bayt al-Hikmah) gồm một viện khoa học, một đài thiên văn và một thư viện công cộng; toà tuyển dụng một đoàn phiên dịch viên do quốc khố đài thọ. Ibn Khaldoun cho rằng nhờ công việc của cơ quan đó mà văn nghệ Hồi giáo mới tái sinh, làm chấn động thế giới; cuộc cuộc tái sinh này giống cuộc Phục hưng văn nghệ Ý cả về nguyên nhân (thương mại khuếch trương, phát kiến lại được Hy Lạp), lẫn kết quả (khoa học, văn nghệ thịnh khai).

Từ 750 đến 900, họ tiếp tục dịch từ tiếng Syriaque, Hy Lạp, Pehlvi[152] và tiếng Phạn qua tiếng Ả Rập. Đứng đầu cơ quan dịch thuật của toà Minh triết là một y sĩ theo Cảnh giáo, tên là Hunain ibn Ashak, tức Jean, con của Isaac (809-873). Ông ta bảo chính ông ta đã dịch trăm cuốn của thầy trò Galien ra tiếng Syriaque, và ba mươi chín cuốn ra tiếng Ả Rập, nhờ vậy mà vài tác phẩm quan trọng của Galien còn lưu lại được, khỏi bị huỷ diệt. Ngoài ra, ông còn dịch nhiều bộ của Aristote, Platon, Dioscoride, Ptolémée và kinh Cựu ước nữa. Quốc khố lâm nguy vì al-Mamoun trả công quá hậu cho Hunain: đem cân dịch phẩm, nặng bao nhiêu thì trả bấy nhiêu vàng. Al-Mutawakkil phong Hunain làm ngự y, nhưng sau bỏ tù ông ta một năm vì ông – mặt dù bị doạ tử hình – không chịu chế một thứ thuốc độc để hại một kẻ thù của nhà vua. Con trai ông, Ishak ibn Hunain giúp ông trong việc dịch thuật và dịch ra tiếng Ả Rập các cuốn “Siêu hình học”, “Luận về linh hồn”, “Khảo cứu về sự sinh thực và sự suy bại của các loài vật” của Aristote, nhất là tập thuyết minh của Alexandre d’Aphrodisias, sau này có ảnh hưởng lớn tới triết học Hồi giáo.

Khoảng 850, hầu hết các tác phẩm cổ điển Hy Lạp về toán, thiên văn học, y học đều được dịch hết rồi (…). Có một điều là người Hồi giáo rất mê thơ và lịch sử mà lại không tìm hiểu thơ, kịch và thuật viết sử của Hy Lạp, về những môn đó, họ học Ba Tư chứ không học Hy Lạp (…). Các tác phẩm của Platon và Aristote được dịch hầu hết, mặc dầu nhiều chỗ dịch sai; nhưng vì các học giả Hồi giáo muốn dung hoà triết lí Hy Lạp với kinh Coran cho nên không theo nguyên tắc của hai nhà đó mà theo lối chú giải của phái Tân Platon[153]. Chỉ những sách về lôgích và khoa học của Aristote là được họ theo đúng.

Khoa học và triết học được lưu truyền một cách liên tục từ Ai Cập, Ấn Độ, Babylone qua Hy Lạp và Byzance, từ hai xứ này lại truyền qua đế quốc Hồi giáo phương Đông và Y Pha Nho, từ Y Pha Nho lại qua châu Âu và Bắc Mĩ, thành một sợi chỉ rực rỡ trong cuộn chỉ lịch sử. Khoa học Hy Lạp mặc dầu đã suy từ lâu, nhưng vẫn còn sống sót ở Syrie khi người Hồi giáo tới đó; ngay từ buổi đầu thời kì xâm lăng, Severus Sebokht, tu viện trưởng ở miền thượng lưu sông Euphrate, vẫn viết về thiên văn bằng tiếng Hy Lạp; ông là người ngoại quốc đầu tiên nói tới những con số Ấn Độ[154] (662). Khoa học của Ả Rập chịu ảnh hưởng của Hy Lạp trước hết, rồi tới ảnh hưởng của Ấn Độ. Năm 773, al-Mansur ra lệnh dịch bộ thiên văn học Siddhantas Ấn Độ viết từ năm 425 trước T.L.; có thể do công việc dịch đó mà những con số Ả Rập và con số “không” (0) được truyền từ Ấn qua Ả Rập. Năm 813, al-Khwarizmi dùng con số Ấn Độ trong môn thiên văn; vào khoảng 825, ông cho in một cuốn sách bằng tiếng La tinh, nhan đề là Algoritmi de numero Indorum (nghĩa là: Al-Khwarizmi viết về các con số Ấn Độ); do đó mà sau này tiếng algorithme trỏ cả hệ thống số học dùng cách đếm thập phân. Năm 976, Muhammad ibn Ahmad trong cuốn “Chìa khoá khoa học”, bảo khi làm tính, nếu không có một số nào xuất hiện ở hàng chục, thì phải dùng một vòng tròn nhỏ thay thế vào để “giữ hàng”. Người Hồi giáo gọi vòng tròn ấy là sifr, nghĩa là trống không, do đó mới có tiếng Pháp “chiffre”[155] (con số); các học giả La tinh đổi sifr thành zephyrum, rồi người Ý gọi tắt là “zero” (số không).

Môn đại số đã có từ Diophante, học giả Hy Lạp ở thế kỉ thứ III; người Ả Rập phát triển thêm nhiều, và tiếng “Algèbre” (đại số học) của Pháp cũng là gốc Ả Rập. Môn ấy có lẽ là môn toán cao nhất thời Trung cổ, mà nhà đại số học nổi danh nhất là Muhammad ibn Musa (780-855), tức al-Khwarizmi; Khwarizm[156] là nơi chôn nhau cắt rốn của ông (nay là Khiva), ở phía Đông biển Caspienne. Ông góp công đắc lực vào năm ngành khoa học, nghiên cứu các các con số Ấn Độ; lập các bảng thiên văn; sau này, khi các nhà bác học Hồi giáo ở Y Pha Nho sửa lại, được tất cả các nhà thiên văn học từ Cordoue tới Trường An (Trung Hoa), dùng làm mẫu mực trong mấy thế kỉ; lập những bảng lượng giáo cổ nhất của nhân loại; hợp tác với sáu mươi chín nhà bác học khác soạn một bộ tự điển địa lí cho al-Mamoun; và trong cuốn “Tính tích phân và phương trình”, chỉ những cách giải phương trình bậc hai bằng phân tích và hình học. Tác phẩm này không còn bản tiếng Ả Rập nhưng đã được Gérard de Crémone ở thế kỉ XII dịch ra và các đại học Âu châu làm sách căn bản mãi cho tới thế kỉ XVIII; do đó tiếng Al-jabr (có nghĩa là phục hồi nguyên trạng, hoàn thành) mới truyền qua châu Âu thành tiếng algèbre (đại số học) của Pháp. Thabit ibn Kura (826-901) ngoài các công trình dịch thuật quan trọng, còn nổi tiếng về thiên văn, y học và thành nhà hình học lớn nhất Hồi giáo. Abu Abdallah al-Battani (850-929), ở Rakka – người châu Âu gọi ông là Albategni – làm cho môn lượng giác tiến hơn thời Hipparque và Ptolémée nhiều; những tỉ trọng lượng giác[157] hiện nay chúng ta dùng là do ông đặt ra.

Vua al-Mamoun dùng một nhóm thiên văn gia để quan sát tinh tú, lập các bản thiên văn, kiểm soát lại các phát kiến của Ptolémée và nghiên cứu các vết trên mặt trời. Tin chắc rằng trái đất tròn, họ cùng một lúc lấy vị trí của mặt trời ở Palmyre và ở cánh đồng Sinfar để đo xem mức độ địa cầu dài bao nhiêu và họ được con số 561,5 dặm[158] (mille), chỉ dài hơn con số chúng ta tính ngày nay có nửa dặm; và họ tính ra được vòng tròn trái đất là ba mươi lăm ngàn cây số. Các nhà thiên văn học đó áp dụng những qui tắc hoàn toàn khoa học; cái gì mà thí nghiệm hoàn toàn không thấy đúng thì họ không chấp nhận. Một nhà tên là Abu I-Farghani, ở Transoxiane viết (vào khoảng 860) một thiên khảo cứu về thiên văn được cả châu Âu lẫn Tây Á dùng trong bảy thế kỉ. Al-Battani còn nổi danh hơn nữa, ông quan sát trắc nghiệm về thiên văn vừa rộng vừa chính xác, so với kết quả ngày nay chỉ sai có một chút (…)

Vẽ bản đồ trái đất còn quan trọng hơn bản đồ vòm trời, vì người Hồi giáo sống nhờ trồng trọt và thương mại. Suleiman al-Tajir (có nghĩa là thương gia Suleiman), vào khoảng 840 đã chở hàng hoá qua bán ở Viễn Đông; một tác giả khuyết danh (851) chép cuộc lữ hành của Suleiman; thiên kí sự về Trung Hoa cổ nhất bằng tiếng Ả Rập đó xuất hiện 425 năm trước cuốn “Lữ hành” của Marco Polo. Cũng trong thế kỉ thứ IX đó, Ibn Khoradadhbeh viết một cuốn tả xứ Ấn Độ, Tích Lan và Trung Hoa, có vẻ như chính ông đã tới những xứ đó để quan sát; còn Ibn Haukal thì tả Ấn Độ và châu Phi. Ahmad al-Yakoubi, ở Arménie và Khorasan, viết năm 891 một cuốn về “Các xứ”, tả đúng các tỉnh, thị trấn Hồi giáo và nước ngoài nữa. Muhammad al-Mukaddasi thăm tất cả các xứ trong đế quốc Hồi giáo, trừ Y Pha Nho, trải qua nhiều nỗi gian truân và năm 985 viết cuốn “Địa chí Đế quốc Hồi giáo”, tác phẩm địa lí vĩ đại nhất của Ả Rập trước khi có bộ “Ấn Độ” của al-Biruni.

Abu al-Rayhan Muhammad ibn Ahmad al-Biruni (973-1048) là học giả tiêu biểu của Hồi giáo. Ông vừa là triết gia, sử gia, địa lí gia, ngôn ngữ gia, toán gia, thiên văn gia, vật lí gia, vừa là thi sĩ mà đi du lịch rất nhiều; trong tất cả các khu vực đó ông đều lưu lại những tác phẩm quan trọng, độc đáo; ít nhất cũng phải coi ông là Leibnitz, gần như là Léonard de Vinci của Hồi giáo.

Cũng như al-Khwarizni, ông sinh gần thị trấn Khiva ngày nay, và cũng làm cho miền đó nổi tiếng trong thế kỉ mà khoa học thời Trung cổ đạt tới đỉnh đó. Các vua chúa ở Khwarizm và Tabaristan nhận định được thiên tài của ông, vời ông lại triều đình. Nghe tiếng ở Khwarizm có một nhóm thi sĩ và triết gia, Mahmud ở Ghazni[159] xin vua Khwarizm phái al-Biruni, al-Sina và các nhà bác học khác lại triều đình mình, vua Khwarizm phải tuân lệnh (1018), và al-Biruni được sống vinh quang, yên ổn nghiên cứu bên cạnh Mahmud, ông vua hiếu chiến đã xâm lăng. Có lẽ al-Biruni đã theo đoàn tuỳ tùng của Mahmud và vô Ấn Độ; nhưng dù sao thì ông cũng ở đó nhiều năm, học ngôn ngữ và cổ sử của Ấn. Trở về triều đình Mahmud, ông thành sủng thần của ông vua chuyên chế lạ lùng ấy. Một người khách ở phía Bắc châu Á bảo đã thấy một miền mà trong mấy tháng liền, mặt trời không lúc nào lặn, ông không tin, cho là dám nói láo gạt mình, tính bỏ tù người ấy; al-Biruni giảng hiện tượng ấy, nhà vua nghe ra, thoả mãn, và người khách kia thở phào, nhẹ nhõm. Masoud, con trai của Mahmud, cũng là một học giả tài tử, tặng al-Biruni rất nhiều tiền bạc, phẩm vật, al-Biruni thường trả lại quốc khố, bảo không cần chi tới nhiều như vậy.

Tác phẩm quan trọng đầu tiên của ông (vào khoảng 1.000), nhan đề Athrul-Bakiya[160] (Di tích quá khứ) có tính cách cực kì kĩ thuật, khảo về các lịch, lễ tôn giáo của Ba Tư, Syrie, Hy Lạp, Kitô, Do Thái, Ả Rập. Ông có tinh thần vô tư dị thường, tránh được hết những ác cảm về tôn giáo. Ông theo phái Shiite của Hồi giáo và có khuynh hướng rất kín đáo rằng trí óc của loài người không thể biết được cái tuyệt đối. Nhưng ông vẫn giữ được một chút tinh thần ái quốc (ông là người Ba Tư), trách người Ả Rập đã tiêu diệt nền văn minh rất cao dưới triều đại Sassanide. Ngoài ra, ông có một thái độ của một học giả khách quan, thận trọng, thường tự nhận có nhiều điều mình không biết, và hứa sẽ tiếp tục nghiên cứu tới khi thấy được chân lí. Trong bài tựa cuốn Di tích quá khứ, ông nghĩ như Francis Bacon rằng “chúng ta phải trừ những nguyên nhân làm cho con người hoá mù quán, không nhìn thấy sự thực, tức những cổ tục, tinh thần phe đảng, óc đối kháng, lòng đam mê, thích gây ảnh hưởng”. Mahmud, người trọng đãi ông, ra công tàn phá Ấn Độ, còn ông lại bỏ ra nhiều năm nghiên cứu các dân tộc, ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn hóa, tập cấp trong xã hội Ấn Độ. Năm 1030, ông cho ra tác phẩm lớn của ông: Tarikh al-Hind (Lịch sử Ấn Độ). Ngay từ đầu, ông đã phân biệt điều nào ông chỉ nghe nói với điều nào ông đã trông thấy tận mắt, ông lại chia ra nhiều hạng sử gia “nói láo”. Ông viết rất ít về lịch sử chính trị của Ấn, nhưng bỏ ra bốn mươi hai chương để chép thiên văn học Ấn và mười một chương chép tôn giáo Ấn. Ông mê kinh Bhagavad Gita của Ấn, thấy phần thần bí trong triết thuyết Védanta, Soufi[161] của Ấn giống phần thần bí trong triết thuyết Tân Pythagore và Tân Platon của Hy Lạp, và tỏ ý thích Hy Lạp hơn, bảo: “Ấn không sản xuất được một Socrate, không có một phương pháp luận lí nào để trục xuất sự tưởng tượng ra khỏi khu vực khoa học”. Mặc dầu vậy, ông cũng dịch nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Phạn[162] ra tiếng Ả Rập và như để trả món nợ tinh thần đó, ông dịch tác phẩm của Euclide, Ptolémée ra tiếng Phạn.

Ông nghiên cứu hầu hết các khoa học, viết một cuốn có giá trị nhất thời Trung cổ về các con số Ấn Độ, lập những bảng thiên văn cho vua Masoud… Ông chấp nhận không chút do dự rằng trái đất tròn, bảo “vật gì cũng bị hút về phía trung tâm trái đất”, và các luận cứ về thiên văn giảng bằng hai cách: hoặc trái đất mỗi ngày quay chung quanh một vòng, và mỗi năm quay chung quanh mặt trời một vòng; hoặc ngược lại, mặt trời quay chung quanh nhật trục một vòng, và mỗi năm quay quanh trái đất một vòng, cách nào cũng được cả. Ông cho rằng thung lũng Indus thời xưa có thể là đáy biển. Ông viết một bộ lớn nghiên cứu rất nhiều thạch loại và kim loại về phương diện tự nhiên, thương mại và y học. Ông tính được trọng lượng riêng[163] của mười tám bảo vật nặng hay nhẹ tuỳ theo khối nước nó dời đi nhiều hay ít. Ông tìm được cách khỏi làm một loạt dài tính cộng mà cũng biết được hễ tăng gắp đôi hoài một số thì sẽ được bao nhiêu. Ông chứng minh được nhiều định lí mang tên ông. Ông soạn một bộ toàn thư về thiên văn học, một bộ địa lí, một sách toát yếu về khoa thiên văn, khoa chiêm tinh và môn toán. Ông cũng dùng luật thuỷ tĩnh học về các bình thông nhau để giảng các giếng phun và các suối tự nhiên. Ông viết các bộ sử về đời Mahmud, về các xứ Sukukitigin và Khwarizm[164]. Các sử gia phương Tây gọi ông là “siheik”[165], tức tôn ông là bực thầy các học giả. Những tác phẩm của ông cùng với những tác phẩm của Ibn Sina, Ibn al-Haitham và Ferdousi đồng thời với ông, làm cho văn hóa Hồi giáo và tư tưởng Trung cổ đạt tới mức cao nhất ở cuối thế kỉ thứ X và đầu thế kỉ XI.

Gần như nhờ các nhà bác học Hồi giáo mà môn hoá học thành một khoa học; vì theo chỗ chúng tôi biết thì trong khu vực đó, người Hy Lạp mới chỉ thí nghiệm về kĩ nghệ và đưa ra những giả thuyết mơ hồ thôi, chính người Hồi giáo mới nhận xét một cách chính xác, thí nghiệm rồi kiểm soát, đo lường kĩ lưỡng. Họ chế tạo ra “nồi cất” mà họ gọi là Al-amik[166], (gốc tiếng alambic của Pháp), phân tích vô số chất, viết sách về thạch loại, kim loại, phân biệt các alcali (ba dờ) và các acide (acít), nghiên cứu và chế tạo mấy trăm thứ thuốc[167]. Khoa luyện đan (alchemie) mà người Hồi giáo học được của Ai Cập giúp cho hoá học phát triển nhờ cả ngàn phát minh ngẫu nhiên và cũng nhờ phương pháp luyện đan của Hồi giáo có tính cách khoa học hơn hết thảy các phương pháp khác ở thời Trung cổ. Thật ra tất cả các nhà bác học Hồi giáo đều tin rằng bất kì kim loại nào phân tích tới cùng, cũng đều có những nguyên tố như nhau, vậy thì có thể làm cho một loại này biến thành một loại khác được. Họ tìm cách biến đổi những kim loại “căn bản” như sắt, đồng, chì, hoặc thiếc thành bạc hoặc vàng; thứ “tiên đơn” (pierre philosophate) là một chất – thời nào người ta cũng tìm kiếm mà không bao giờ thấy – nếu biết cách dùng thì có thể gây sự biến chất sự biến chất đó được (nghĩa là cho đồng, chì… biến thành vàng hay bạc). Người ta đem máu, tóc, phân và nhiều chất khác ra thử với một chất gọi là chất thử (réactive) rồi đem đốt lửa, phơi nắng, cho chúng thăng hoa (sublimer) để xem chúng có chứa chất thần diệu (al-iksir) tức thần dược đó không. Người nào có được thần dược đó thì sẽ trường sinh bất tử. Nhà luyện đan nổi tiếng nhất là Jabir ibn Hayyan (702-765), ở châu Âu quen gọi là Gebir. Vốn là con một người bán dược phẩm ở Kafa, ông làm nghề y sĩ, nhưng suốt đời cặm cụi vào việc luyện đan. Có tới trên một trăm tác phẩm mang tên ông nhưng thực ra là của tác giả vô danh, nhất là ở thế kỉ thứ X, nhiều cuốn được dịch ra tiếng La tinh và kích thích mạnh sự phát triển của môn hoá học ở châu Âu. Sau thế kỉ thứ X, môn ấy cũng như nhiều môn khác thành những ma thuật và suy đồi gần 300 năm.

Hiện nay còn rất ít tác phẩm về sinh vật học của Hồi giáo ở thời đó. Abu Hanifa al-Dinawari (815-895) viết một cuốn về “thực vật” căn cứ vào Dioscoride[168] và thêm được nhiều cây vào mục lục dược vật học. Các nhà thực vật học Hồi giáo biết dùng cách tháp cây mà sản xuất được nhiều loại trái cây mới; họ tháp cây hồng với cây hạnh mà có được những hoa rất quí, rất đẹp. Othman Amr al-Jahif (chết năm 869) đưa ra một thuyết tiến hoá tựa thuyết của Masudi: “đời sống tiến từ khoáng vật tới thực vật, từ thực vật tới sinh vật, rồi từ sinh vật tới loài người”. Thi sĩ Jalal Ud-din, có khuynh hướng thần bí, chấp nhận thuyết đó, chỉ thêm rằng nếu sự tiến hoá đã xảy ra thực thì tới giai đoạn sau, thì loài người biến thành thiên thần, và cuối cùng sẽ thành Thượng Đế.

III. Y HỌC

Trong khi chưa thành thiên thần và Thượng Đế, loài người cứ hưởng lạc thú ở đời đã, đồng thời bôi nhọ cuộc đời, tiêu những số tiền lớn để đẩy lùi thần chết. Khi người Ả Rập vô Syrie, kiến thức về y học và phương pháp trị liệu của họ còn thô sơ. Khi họ giàu có lên thì có những y sĩ tài giỏi hơn xuất hiện ở Syrie, Ba Tư, hoặc Hy Lạp, Ấn Độ tới. Vì Hồi giáo cấm họ giải phẫu hoặc mổ xẻ thây người, nên họ đành phải học trong sách của Galien[169], nghiên cứu các người bị thương.

Họ thêm vào các phương thuốc cũ được nhiều vị thuốc mới: long diên hương, long não, ba đậu, đinh hương, thuỷ ngân, mộc dược, hoa hoè; nhiều cách chế thuốc: thuốc sirô (sirop), tiếng Ả Rập là sharab, nước hoa hồng, thuốc nước (julep), tiếng Ả Rập gọi là golab, vân vân… Dược phẩm là một số hàng hoá nhập cảng nhiều vào Ý. Người Hồi lập ra những nhà thương thí và những tiệm bào chế đầu tiên, dựng trường Dược học đầu tiên ở thời Trung cổ, và viết nhiều bộ sách lớn về dược học. Y sĩ Hồi giáo rất thích dùng cách tắm để trị bệnh, nhất là cách tắm hơi để trị bệnh sốt. Phương pháp trị bệnh đậu mùa và bệnh sởi của họ cũng hoàn hảo, ngày nay khó mà cải thiện được. Trong vài trường hợp mổ xẻ, họ cho bệnh nhân thuốc mê; cây hachish (một thứ cây gai) và thứ thuốc khác làm cho bệnh nhân ngủ say. Thời đó, họ xây dựng được ba mươi bốn dưỡng đường, có lẽ là theo mẫu của y viện và dưỡng đường Ba Tư ở Jund-i-Sahapur; ở Bagdad, dưỡng đường cổ nhất do Haroun al-Rashid xây cất, tới thế kỉ thứ X, kinh đô đó có thêm năm dưỡng đường nữa; sử chép năm 918, có một viên làm giám đốc các dưỡng đường Bagdad. Dưỡng đường nổi danh nhất đế quốc là dưỡng đường Bamaristan cất ở Damas năm 706; năm 978, dưỡng đường ấy có tới hai mươi bốn y sĩ. Y khoa thường được dạy ngay trong các dưỡng đường. Muốn làm một y sĩ thì phải qua một kì thi, được bằng cấp Quốc gia; những người chế thuốc, làm nghề chỉnh hình, cạo râu và mổ xẻ đều phải theo qui chế của nhà nước và có viên chức đi thanh tra họ. Viên y sĩ đại thần Ali ibn Isa tổ chức một nhóm y sĩ đi từ thị trấn này tới thị trấn khác để trị bệnh cho dân (931); một số y sĩ ngày nào cũng vô khám đường thăm bệnh cho tội nhân; những người điên được trị một cách đặc biệt nhân từ. Nhưng trong đa số trường hợp, vệ sinh chung chưa được phát triển; tại miền Đông đế quốc, trong bốn thế kỉ, có bốn chục bệnh dịch tàn sát dân chúng.

Năm 931, ở Bagdad có tám trăm sáu chục y sĩ được phép hành nghề. Càng ở gần khu có triều đình, cung điện thì tiền tạ lễ càng cao. Jibril ibn Bakhtisha, ngự y của vua Haroun, al Manoun và dòng Barmécide, kiếm được rất nhiều tiền, gia tài lên tới tám mươi tám triệu tám trăm ngàn dirhem (7.104.000 Mĩ kim); tương truyền mỗi năm ông chích huyết cho nhà vua hai lần được thù lao trăm ngàn dirhem; ba tháng cho nhà vua uống thuốc xổ một lần cũng được trăm ngàn dirhem một năm; một thiếu nữ nô lệ vì ưu uất mà bị chứng bại, ông lột truồng chị ta giữa đám đông mà chị hết bệnh. Nhiều y sĩ kế tiếp ông ở phương Đông: Yuhanna ibn Masawayh (777-857) mổ xẻ loài khỉ để tìm hiểu cơ thể con người; Hunain ibn Ishak, nhà dịch thuật trứ danh, viết cuốn sách đầy đủ và cổ nhất về nhãn khoa, cuốn “Mười khái luận về mắt”; và Ali ibn Isa, y sĩ nhãn khoa danh tiếng nhất Hồi giáo viết cuốn “Sách chỉ dẫn cho các y sĩ nhãn khoa”; cuốn đó được dùng ở châu Âu mãi cho tới thế kỉ XVIII.

Y sĩ tài giỏi nhất là Abu Bekr Muhammad al-Razi (844-926), danh vang tới châu Âu, và người Âu gọi ông là Khazès. Như hầu hết các nhà bác học và thi sĩ đại danh đương thời, ông là người Ba Tư viết bằng tiếng Ả Rập. Sanh ở Rayy gần Téhéran, ông học hoá học, phép luyện đan và y khoa ở Bagdad, viết vào khoảng 131 cuốn mà một nửa về y khoa, hầu hết đã thất lạc. Bộ Kitab al-Hawi gồm hai mươi cuốn về một ngành trong y khoa. Bộ ấy được dịch ra tiếng La tinh, nhan đề là Liber continents[170], là tác phẩm y học được quí nhất, dùng nhiều nhất ở châu Âu trong nhiều thế kỉ; cả viện Y khoa ở Đại học Paris năm 1935 chỉ có chín bộ mà Liber continents là một. Cuốn “Bệnh đậu mùa và bệnh sởi” là một tác phẩm trứ danh về phương diện chiêm nghiệm và phân tích chứng bệnh; cũng là công trình nghiên cứu chính xác đầu tiên về các bệnh truyền nhiễm, phân biệt được bệnh đậu mùa và bệnh sởi. Bản dịch ra tiếng Anh được in đi in lại bốn chục lần từ 1498 tới 1866, như vậy chúng ta biết ảnh hưởng của nó ra sao. Tác phẩm nổi danh nhất của al-Razi là một bộ y học toát yếu gồm mười cuốn, nhan đề là Kitab al-Mansur (Sách tặng al-Mansur, một ông vua xứ Khorasan). Gérard de Crémone dịch ra tiếng La tinh, cuốn thứ chín, nhan đề là Nonus Almansoris, rất phổ biến ở châu Âu mãi tới thế kỉ XVI. Al-Razi phát minh được những phương pháp mới như dùng dùng thuỷ ngân làm thuốc ra sao, dùng ruột loài vật để khâu vết thương. Thời đó các y sĩ có thói xét nước tiểu để đoán mọi bệnh, đôi khi chẳng cần thấy mặt bệnh nhân nữa; ông bài bác, làm cho thói ấy giảm đi. Ông còn viết một số truyện ngắn có tính cách vui vẻ hay đùa cợt, như cuốn “Bàn về sự thực này: cả những lương y cũng không thể trị được mọi bệnh”, và cuốn: “Tại sao hạng y sĩ tầm thường, hạng phàm nhân không biết gì về y học và hạng phụ nữ ngu dốt lại thành công hơn các y sĩ biết nhiều hiểu rộng”. Mọi người đều coi ông là y sĩ Hồi giáo có tài nhất, người trị bệnh giỏi nhất thời Trung cổ. Ông mất năm tám mươi hai tuổi, nhà cửa thanh bạch.

Tại trường Y khoa Đại học đường Paris hiện nay có hai bức chân dung của hai y sĩ Hồi giáo: Khazès và Avicenne tức Ali al-Husein ibn Sina (980-1037) là triết gia lớn nhất và một trong những y sĩ nổi danh nhất Hồi giáo. Đọc cuốn tự truyện của ông – một tác phẩm quí trong văn học sử Ả Rập – chúng ta thấy đời một học giả, một triết nhân thời Trung cổ có thể trôi nổi ra sao. Ông là con một người đổi tiền ở Boukhara, có tinh thần khoa học mà các gia sư lại tiêm cho ông những tư tưởng huyền bí. Ibn Khallikan như mọi người phương Đông, hay phóng đại, bảo: “Mười tuổi ông đã thuộc làu kinh Coran, văn học tổng quát, và biết được ít điều về thần học, số học, đại số học”. Ông tự học y khoa, và ngay từ hồi niên thiếu, đã bắt đầu trị bệnh ăn tiền. Mười bảy tuổi ông trị hết bệnh cho vua Boukhara, tên là Nuh ibn Mansur, được phong làm ngự y và ham mê đọc các sách trong thư viện lớn của nhà vua. Vào khoảng thế kỉ thứ VI, dòng họ Samanide hết quyền hành, ông phải phục vụ al-Mamoun, vua xứ Khwarizm.

Khi Mahmud ở Ghazni cho người mời ông, al-Biruni và các hiền triết khác của triều đình Mamoun, ông không chịu đi, trốn vào sa mạc với một bạn học, Mashihi. Mashihi chết trong một cơn bão cát; còn Avicenne, sau nhiều gian truân, tới được Gurgan và phụng sự Kabus. Mahmud cho dán khắp xứ Ba Tư một bức chân dung của Avicenne, hứa thưởng người nào bắt được ông đem nộp, nhưng Kabus che chở ông. Sau Kabus bị ám sát, Avicenne được mời tới trị bệnh cho viên thống đốc ở Hamadan; ông thành công tới nỗi thành một vị đại thần. Nhưng quân đội ghen tị quyền hành của ông, bắt ông nhốt khám, cướp hết của cải của ông và đề nghị xử tử ông. Ông trốn thoát, ẩn núp trong nhà một người bán thuốc và bắt đầu viết tác phẩm làm cho ông nổi danh. Ông lẻn trốn ra khỏi Hamadan, bị con trai viên thống đốc nhốt khám mấy tháng nữa. Ở trong khám ông lại trốn được, cải trang thành một tu sĩ soufi (một giáo phái tin thuyết thần bí); từ đó ông trải không biết bao nhiêu nỗi lao đao, nguy hiểm, không sao kể hết ở đây được, sau cùng được yên thân và trọng vọng ở triều đình Ala ad-Dawla, viên thống đốc Ispahan. Một nhóm triết gia và bác học quây quần chung quanh ông, hội họp nhau thảo luận, nghiên cứu, và viên thống đốc đó cũng thích chủ toạ. Có vài truyện cho ta ngờ rằng triết gia đó cũng hiếu sắc ngang với hiếu học; nhưng lại có sách bảo ông suốt ngày đêm mải mê việc nghiên cứu, dạy học và việc nước; và Ibn Khallikan dẫn của ông vài lời khuyên khá đặc biệt này: “Mỗi ngày ăn một bữa thôi… Rán giữ gìn tinh dịch, nó là nước của đời sống, chỉ để cho nó tuôn vào tử cung thôi”. Sớm suy kiệt, ông mất hồi năm mươi bảy tuổi trong một chuyến đi lại Hamadan; nơi đó, hiện nay người ta còn sùng kính ông, chiêm bái lăng ông.

Tượng Avicienne (tức Ali al-Husein ibn Sina) tại Hamadan, Ba Tư

(http://wwwdelivery.superstock.com/WI/223/1606/PreviewComp/SuperStock_1606-34047.jpg)

Trải qua bao nhiêu gian truân như vậy mà ông còn có thì giờ trong khi làm quan hoặc nằm khám, viết khoảng một trăm cuốn sách bằng tiếng Ba Tư, Ả Rập về hầu hết mọi khu vực khoa học và triết học. Để cho tâm hồn được thăng bằng, ông làm nhiều bài thơ rất hay mà mười lăm bài lưu lại hậu thế; một trong những bài này chép lộn vào tập Rubaiyat của Omar Khayyam, một bài khác, “Linh hồn từ trên cao giáng xuống, nhập vào thể xác”, hiện nay còn được dạy ở các trường các quốc gia Hồi giáo phương Đông. Ông dịch Euclide, quan sát tinh tú, chế tạo một dụng cụ tựa chiếc du xích (vernier) của chúng ta. Ông có những công trình nghiên cứu đặc sắc về chuyển động, sức mạnh, khoảng chân không, ánh sáng, sức nóng, trọng lượng. Cuốn sách ông viết về các khoáng chất được dùng làm tác phẩm căn bản cho môn địa chất học ở châu Âu mãi cho tới thế kỉ XIII. Những nhận xét của ông về sự tạo thành các ngọn núi thực là sáng sủa, đáng làm mẫu mực:

“Có hai nguyên nhân tạo thành núi. Hoặc là do vỏ trái đất nổi lên, như khi có một cuộc động đất; hoặc do một dòng nước chảy qua một đường mới mà làm trụi các thung lũng. Các lớp đất không đồng loại: lớp mềm, lớp cứng; gió và nước làm tan rã các lớp mềm, còn các lớp cứng thì y nguyên. Phải một thời gian dài lắm mới thấy những biến đổi ấy… nhưng nước là nguyên nhân chính của hậu quả ấy, chứng cứ là chúng ta thấy trên núi những bộ xương hoá thạch của những loài xưa kia sống dưới nước”.

Avienne lưu lại hai tác phẩm vĩ đại: bộ Kitab al-Shifar (Sách trị bệnh tâm hồn), một bộ sách bách khoa gồm mười tám cuốn về toán học, vật lí, siêu hình học, thần kinh, kinh tế, chính trị và âm nhạc; và bộ Kanun fi-l-Tibb (Tiêu chuẩn y học), một công trình nghiên cứu lớn lao về sinh lí học, vệ sinh, trị liệu học, dược vật học, trong đó xen nhiều đoạn lạc đề bàn về triết học. Trong bộ “Tiêu chuẩn” đó bố cục vững vàng và nhiều trang hùng hồn, nhưng có mỗi một bệnh ông không chỉ cách trị, là bệnh ham phân tích, phân biệt, giảng giải mà chính tác phẩm đó mắc phải. Ông mở đầu bằng lời cảnh cáo mà ta đâm ngại: “Phải thuộc kĩ lưỡng những điều cốt yếu trong bộ này thì mới hiểu được và biết dùng những lời tôi dạy bảo”, mà bộ ấy dài tới một triệu tiếng. Ông cho y khoa là nghệ thuật trừ khử cái gì cản trở sự vận hành bình thường của thiên nhiên. Trước hết ông nghiên cứu các bệnh quan trọng – triệu chứng, cách chẩn bệnh, cách trị; có vài chương về cách ngừa bệnh, về vệ sinh chung, vệ sinh riêng, lại có những chương về phép trị bệnh bằng cách rửa ruột, chích huyết, đốt, tắm và đấm bóp. Ông khuyên nên hít thật sâu, thỉnh thoảng nên la hét nữa, để ngực, phổi được nở, lưỡi gà ở đầu cuống họng được phát triển. Cuốn II tóm tắt về kiến thức Hy Lạp và Ả Rập về các loài thảo mộc dùng làm thuốc. Cuốn III viết về bệnh lí, có những đoạn bàn rất hay về bệnh sưng màng phổi, mủ đóng trong ngực (empyème), các bệnh đau ruột, bệnh sinh thực khí, bệnh thần kinh, lại bàn về ái tình nữa. Cuốn IV xét về các bệnh sốt, về thuật giải phẫu, các thuốc xức tóc; cách giữ gìn tóc và da. Cuốn V chỉ kĩ cho ta cách bào chế bảy trăm sáu mươi thứ thuốc. Bộ đó dịch ra tiếng La tinh ở thế kỉ thứ XII, đánh bạt al-Razi và cả Galien nữa, được dùng làm sách giáo khoa chính trong các trường Y khoa châu Âu; mãi tới thế kỉ XVII mà các đại học Montpellier và Louvain vẫn còn bắt sinh viên đọc.

Avienne là tác giả lớn nhất về y học, al-Razi là y sĩ giỏi nhất, al-Biruni là nhà địa lí học uyên bác, al-Haitham là nhà quang học tài nhất, Jabir có lẽ là nhà hoá học lớn nhất thời Trung cổ; mà trong các quốc gia Kitô giáo hiện đại, rất ít người biết tới họ, như vậy đủ thấy ý kiến của chúng ta về lịch sử thời Trung cổ có tính cách hẹp hòi ra sao. Khoa học Hồi giáo cũng như toàn thể khoa học Trung cổ thường bị những thuyết thần bí làm cho mất thanh khiết; trừ môn quang học, các nhà khoa học thời đó chỉ giỏi tổng hợp những điều thu thập được hơn là phát minh hoặc tìm tòi, nghiên cứu; nhưng về môn luyện đan họ phát triển được – tuy còn do dự – phương pháp thực nghiệm mà ngày nay chúng ta lấy làm kiêu hãnh nhất vì có được một dụng cụ tốt nhất để tìm tòi, phát minh. Năm trăm năm sau Jabir, sở dĩ Roger Bacon giới thiệu phương pháp đó là nhờ ông học được của người Maure ở Y Pha Nho, mà chính những người này lại tiếp thu ánh sáng từ Hồi giáo phương Đông.

IV. TRIẾT HỌC

Về triết học cũng như về khoa học, người Hồi giáo được xứ Syrie theo Kitô giáo truyền cho di sản của Hy Lạp, rồi lại do Y Pha Nho theo Hồi giáo trả lại di sản đó cho châu Âu theo Kitô giáo. Có nhiều ảnh hưởng gây nên sự chống đối về tư tưởng của phái Mutazilite[171] và các triết gia al-Kindi, al-Farabi, Avienne và Averroès, ảnh hưởng của Ấn Độ, qua trung gian là Ghazni và Ba Tư; thuyết tận thế của Bái hoả giáo và Do Thái giáo; bọn Kitô giáo theo tà thuyết cũng làm cho không khí Cận Đông sôi nổi một thời vì những cuộc tranh luận của họ về Thượng Đế, bản thể của chúa Kitô, về thần ngữ, sự khải thị, lí trí, về định mệnh và ý chí tự do. Những cái men làm cho tư tưởng Hồi giáo dậy lên, chính là sự tái phát kiến ra Hy Lạp – ở Ý thời văn nghệ Phục hưng sau này cũng vậy. Dù là đọc những bản dịch sai các nguỵ biện thư của Hy Lạp, người Ả Rập cũng thấy có một thế giới mới: một thế giới mà mọi người được lí luận về mọi điều, chẳng sợ sệt gì cả, chẳng bị các thánh thư cấm đoán, cản trở, một vũ trụ không do những phép mầu kì cục không sao kiểm soát nổi, mà do một luật tôn nghiêm, bàn bạc khắp nơi tạo nên. Môn lô-gích Hy Lạp, trình bày rất sáng sủa trong cuốn Organon của Aristote, tới đúng vào lúc người Hồi giáo được nhàn hạ đã suy tư và làm cho họ say mê; họ thấy trong đó những từ ngữ và phương tiện giúp họ suy cứu; từ nay, luôn ba thế kỉ, họ say mê với trò mới ấy – môn lô-gích – y như các thanh niên Hy Lạp thời Platon, họ cảm thấy cái “thú” tuyệt trần của triết lí. Chẳng bao lâu, cả cái toà giáo lý Hồi giáo bắt đầu rung rinh, rạn nứt, cũng như hồi xưa, chính làn gió Hy Lạp đã bị tài hùng biện của các triết gia nguỵ biện làm cho tan rã; và cũng như sau này (ở thế kỉ XVIII), chính giáo Kitô phải run rẩy lùi bước trước những ngọn roi của Voltaire và các nhà soạn bộ Bách khoa toàn thư của Pháp.

Cái mà người ta có thể gọi là “ánh sáng” của Hồi giáo phát sinh từ một cuộc tranh biện kì dị: kinh Coran do Thượng Đế khải thị, có tính cách vĩnh cửu, hay chỉ là được tạo nên? Từ thuyết của Philon về Thần ngữ tới kinh Phúc âm thứ tư, thuyết Tân Platon, tín ngưỡng của người Do Thái, tất cả đều gây cho Hồi giáo chính thống quan niệm rằng kinh Coran đã có sẵn từ hồi nào trong óc của Allah và chỉ có sự khải thị kinh ấy cho Mahomet là một biến cố hiện thế thôi. Triết lí ở đế quốc Hồi giáo xuất hiện lần đầu tiên do sự phát triển của phái “Mutazilite”, tức phái phản đối, bất qui phục, phủ nhận sự vĩnh cửu của kinh Coran. Họ vẫn thực tâm trọng thánh kinh ấy, nhưng bảo khi thánh kinh và các truyền thuyết trái với lẽ phải thì nên coi là ngụ ngôn mà phải giải thích theo ngụ ngôn; họ bảo sự dung hoà lí trí và tín ngưỡng đó là kalam, tức lô-gích. Họ thấy thực là vô lí mà hiểu theo nghĩa đen những đoạn trong kinh Coran bảo Allah có tay, chân, cũng giận dữ, oán ghét; thuyết thần nhân cũng có hình thể, tâm linh như người ấy, có tính cách nên thơ, dù rất hợp với mục tiêu luân lí và chính trị của Mahomet tới mấy thì bây giờ một người có học thức cũng khó chấp nhận được. Trí óc con người không làm sao biết được bản thể và thần đức của Thượng Đế, chỉ có thể xác nhận đúng với đức tin rằng có một quyền lực tinh thần làm cơ sở cho thực tại. Vả lạ, đối với phái Mutazilite, thì có hại cho đạo đức và sáng kiến của con người, nếu tin, như Hồi giáo chính thống, rằng mọi việc lớn nhỏ đều do Thượng Đế an bài hết, kẻ nào được vĩnh viễn cứu rỗi hoặc vĩnh viễn đày địa ngục, cũng đã có số mạng cả rồi, do Thượng Đế, tự ý quyết định rồi.

Học thuyết Mutazilite bàn đi bàn lại hoài về những đề tài đó và truyền bá mau dưới các triều đại al-Mansur, Haroun al-Rashid và al-Mamoun. Thuyết tân duy lí ấy được một số người chấp nhận, gây được ít nhiều ảnh hưởng nữa, mới đầu trong những nhóm học giả và tà giáo, rồi trong các buổi mạn đàm của các vua chúa, sau cùng trong các buổi diễn giải ở các học viện, các thánh thất. Al-Mamoun mê lối lí luận đó, bênh vực thuyết Mutazilite, sau cùng tuyên bố nó là quốc giáo, năm 832, ban một sắc lệnh bắt tất cả các tín đồ Hồi giáo phải coi kinh Coran là đã được sáng tác; sau đó ban một sắc lệnh khác bảo phải chấp nhận giáo lí mới thì mới được làm chứng nhân hoặc thẩm phán ở toà; còn nhiều sắc lệnh khác buộc tín đồ phải chấp nhận thuyết lí tự do (nghĩa là con người có thể làm chủ hành động của mình chứ không bị định mệnh chi phối), phải nhận rằng mắt trần không làm sao thấy được Thượng Đế; sau cùng ai không chịu thề tin thuyết mới thì là phạm một trọng tội. Al-Mamoun mất năm 833, nhưng hai người kế nghiệp ông: al-Mutassim và al-Wathik tiếp tục chiến dịch của ông. Nhà thần học Ibn Hanbal tố cáo lối bắt bớ lạm quyền đó: khi bắt ông thề, ông dẫn những câu trong kinh Coran theo chính giáo để trả lời mọi câu hỏi. Ông bị quất tới bất tỉnh rồi nhốt khám; nhưng dân chúng coi ông là một vị thánh chịu khổ nhục vì đạo, và một phong trào phản động bắt đầu phát sinh, xâm chiếm cả triết lí Hồi giáo.

Trước khi có phong trào này, triết lí Hồi giáo cũng có được một đại triết gia đầu tiên. Abu Yusuf Yukub ibn Ishak al-Kindi sanh ở Kufa vào khoảng 803, cha làm thị trưởng; ông học ở Kufa rồi ở Bagdad, nổi tiếng là một nhà dịch thuật, một nhà bác học và một triết gia tại các triều đình al-Mamoun và al-Mutassim. Như biết bao tư tưởng gia trong mùa xuân của văn hóa Hồi giáo đó, ông là một học giả uyên bác, môn nào cũng học, cũng tiêu hoá được, viết 265 cuốn về mọi ngành: số học, hình học, triết học… Ông đồng ý với Platon rằng trước hết phải là một nhà toán học rồi mới thành một triết gia được và ông rán đặt môn y học, vệ sinh, âm nhạc thành những hệ thức toán học. Ông nghiên cứu thuỷ triều, tìm những luật về sự rơi của các vật, nhận xét các hiện tượng ánh sáng rồi viết một cuốn về quang học có ảnh hưởng tới Roger Bacon sau này. Cuốn “Biện hộ cho Kitô giáo” của ông làm cho tín đồ Hồi giáo thấy chướng; ông dịch chung với một người khác nguỵ thư “Thần học của Aristote”, ngạc nhiên và thích thú rằng nguỵ thư đó hoà giải Aristote và Platon, và làm cho hai nhà đó thành những nhà Tân Platon. Triết thuyết của al-Kindi cũng là một phó bả