3- Các truyền thống y học của Ấn Độ và Trung Quốc
Trong các khảo sát về lịch sử y học, sự phát minh ra khoa học và y học duy lý thường được gán cho các triết gia tự nhiên người Hy Lạp sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước CN. Quen với việc truy tìm nguồn gốc nền văn hóa Tây phương bắt nguồn từ Hy Lạp, với một chút chiếu cố dành cho các nền văn minh được nhắc trong Kinh thánh, các học giả châu Âu thường bỏ qua sự tiến bộ trong y học, khoa học và triết học tại Ấn Độ và Trung Quốc. Sự tập trung đặc biệt khá hẹp này mang tính chất rất không may mắn trong lịch sử y học, bởi vì khác với các truyền thống y học cổ xưa tại vùng Lưỡng Hà và Ai Cập, các truyền thống của Ấn Độ và Trung Quốc vẫn còn hoạt động rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, học thuật gần đây đã làm rõ rằng những con đường rất khác biệt được chọn để mưu cầu sức khỏe, chữa bệnh và truy vấn mang tính hệ thống tại Trung Quốc và Ấn Độ cũng rất đáng để chúng ta khảo sát.
Các sử gia nhận định rằng những truyền thống khoa học và y học phát triển tại Trung Quốc và Ấn Độ đều phức tạp, phong phú và khác hẳn với các truyền thống châu Âu về nhiều mặt cơ bản. Nhiều vấn đề còn tồn tại, nhưng rõ ràng là những vấn đề đáng chú ý nhất liên quan đến sự tiến bộ của khoa học và y học của các nền văn minh khác nhau đều có liên quan đến các nhà tư tưởng, nhà nghiên cứu và thầy thuốc trong các nền văn hóa cổ xưa suy nghĩ về những gì họ làm hơn là câu hỏi thông thường ai làm cái gì trước tiên.
ẤN ĐỘ Là một tiểu lục địa đông đúc dân cư, với nhiều sắc tộc, ngôn ngữ, văn hóa, và tôn giáo pha trộn, Ấn Độ là một thế giới chứa đầy sự phức tạp đáng kinh ngạc. Vào những năm 20 của thế kỷ trước, việc nghiên cứu lịch sử Ấn Độ được cách mạng hóa nhờ sự phát hiện các kỳ quan của Mohenjo-daro và Harappa, là hai thành phố chính thuộc nền văn minh sông Indus bị quên lãng vốn đã từng phồn thịnh khoảng từ năm 2700 đến 1500 trước CN. Các khai quật gần đây đã cung cấp bằng chứng có sự giao lưu buôn bán mạnh mẽ giữa Ai Cập và Ấn Độ khoảng 2.000 năm trước đây. Các học giả trước đó đã cho rằng sự giao dịch bằng đường thủy thời cổ đại giữa Ấn Độ và La Mã là sản phẩm kinh doanh của người La Mã, nhưng các nghiên cứu về các thành phố cảng một thời thịnh vượng của Ai Cập cho thấy rằng các con tàu tham gia các chuyến hải hành dài đầy nguy hiểm vốn được đóng tại Ấn Độ và được điều khiển bởi thủy thủ đoàn là cư dân của xứ này. Con đường tơ lụa, một hệ thống các con đường lữ hành bằng lạc đà, đã đóng vai trò gạch nối văn hóa và thương mại chính giữa Trung Quốc và châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 100 trước CN đến thế kỷ thứ 15. Tuy nhiên, con đường thương mại trên biển giữa Ai Cập và Ấn Độ có thể đã từng là một gạch nối khác với vùng Viễn Đông.
Hồi ức về sự phát triển, xáo trộn và suy thoái của nền văn minh Ấn Độ xa xưa còn đọng lại cho đến ngày nay qua 4 văn bản được gọi là kinh Vệ Đà, vốn được tín đồ Ấn Độ giáo tôn thờ là sách thiêng chứa đựng sự khôn ngoan do thần thánh truyền đạt. Kinh Vệ Đà được bổ sung với các bản chú giải sau này được gọi là Phạm Thư (Brahmanas) và Áo-nghĩa thư (Upanishads), là hai kinh giải thích các văn bản xưa hơn và chiêm nghiệm về bản chất của vũ trụ và kiếp người. Nghệ thuật chữa bệnh truyền thống của người Ấn Độ được biết dưới tên y học là Ayurvedic.
Nhiều khía cạnh của lịch sử Ấn Độ vẫn còn mù mờ mãi cho đến thế kỷ thứ 4 và thứ 3 trước CN, khi vùng thung lũng sông Indus bị người Ba Tư, sau đó là Alexander Đại đế (356-323 trước CN) chinh phục. Mặc dù Alexander chỉ lưu lại tại Ấn Độ chưa đầy hai năm, nhưng cuộc xâm lăng này đã mang lại sự trao đổi văn hóa giữa thế giới nói tiếng Hy Lạp và các dân tộc của Ấn Độ. Trong những năm đầy xáo trộn sau cái chết của Alexander, Chandragupta Maurya đứng lên đánh đuổi các viên chức gốc Macedonia còn sót lại và lập một đế quốc riêng. Cháu nội của ông này, Asoka, trị vì từ năm 272 đến 232 trước CN đã thống nhất phần lớn xứ Ấn và lập ra vương triều Maurya. Người ta cho rằng văn bản Artha Sastra, bàn về khoa học chính trị và thuật cai trị, đã được viết ra theo lệnh của Chandragupta. Bộ sách này chứa nhiều luật liên quan đến lịch sử y học, mại dâm, vệ sinh và y tế công cộng. Đội ngũ đông đảo các nhà phẫu thuật hẳn có được công ăn việc làm từ những sự cắt xẻo cơ thể theo luật được quy định cho các hành vi bất xứng. Lấy ví dụ, hình phạt cho một người lăng mạ cha mẹ hoặc thầy dạy của mình là cắt lưỡi.
Lúc khởi đầu được coi là một vị vua độc đoán tàn ác, hoàng đế Asoka cảm thấy hối hận trước cảnh máu chảy và lầm than mà mình đã gây ra đến nỗi ngài từ bỏ chiến tranh và trở thành một Phật tử. Phật giáo phát tích từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên dựa trên lời dạy của Đức Phật, “Bậc giác ngộ”, và biểu lộ sự phản kháng chống lại sự phân chia giai cấp ngặt nghèo của xã hội Hindu và những nghi thức tôn giáo do giới tăng lữ Bà La Môn kiểm soát.
Lời dạy của Đức Phật nhấn mạnh đến bác ái, sự tận tụy và sự an bình trong tâm hồn có được khi từ bỏ dục vọng. Căn cứ theo các chỉ dụ khắc trên những bia đá lớn được dựng lên khắp đế quốc, vua Asoka đã dốc lòng cho hòa bình và sự công chính thông qua chính nghiệp, từ bi, hỉ xả và thanh tịnh. Từ bỏ thú vui săn bắn và ăn thịt, Asoka ban phát sự bảo vệ cho động vật cũng như con người và xây dựng nhà nghỉ dưỡng, nơi chăm sóc người ốm và các cơ sở từ thiện khác.
Mặc dù các chỉ dụ của vua Asoka có nêu các bệnh viện và bệnh xá miễn phí được xây dựng khắp nước Ấn Độ thời cổ đại, nhưng các bằng chứng lại không được ghi rõ. Vào thế kỷ thứ 5, một nhà du hành người Trung Quốc có mô tả những bệnh viện Ấn Độ chăm sóc cho người ốm và người nghèo, nhưng ghi nhận rằng đó là các cơ sở tư nhân tài trợ chứ không phải của nhà nước. Những người khác có nhận xét là các nhà nghỉ do nhà vua tài trợ là nơi khách lữ hành và người nghèo có thể được khám chữa bệnh, cũng như được cung cấp thực phẩm và thức uống. Một số đền thờ và trường học rõ ràng là có chăm sóc y tế. Các bệnh viện từ thiện dường như biểu hiện rõ hơn tại các lân bang đã du nhập đạo Phật và triết lý y học Ấn Độ. Các du khách đến Ấn Độ sau này ngỡ ngàng khi thấy có bệnh viện dành cho thú vật và xác nhận rằng sự từ thiện và bác ái dường như dành cho chó và bò nhiều hơn là cho người.
Dưới triều vua Asoka, các tăng lữ Phật giáo tổ chức kết tập lớn tại Patna (năm 250 trước CN) nhằm xác định văn bản nào nên được coi là luận thuyết chân thực của đạo Phật và tăng đoàn nên được tổ chức như thế nào. Các nhà truyền đạo Phật đi tới Syria, Ai Cập, Hy Lạp, Tây Tạng và Trung Quốc. Mặc dù đạo Phật phát triển mạnh tại nhiều nơi khác trên thế giới, tại Ấn Độ truyền thống Vệ Đà cổ xưa dần dà cũng chiếm lại vị thế của mình. Sau triều đại vua Asoka, lịch sử Ấn Độ trở nên đầy rẫy những cuộc ám sát, phản bội, và bị người Hy Lạp, Scythian, Hồi giáo, Mông Cổ, châu Âu xâm lược. Nền độc lập do nước Anh trao trả năm 1947 đã dẫn tới bạo loạn, di cư ồ ạt, tàn sát và cuối cùng là phân tách ra thành những vùng theo đạo Hồi và đạo Hindu. Năm 1950, Ấn Độ trở thành nước cộng hòa dân chủ và Pakistan trở thành một cộng hòa theo Hồi giáo riêng rẽ vào năm 1956.
Thế là, mặc dù đạo Phật đã tạo nên một ảnh hưởng sâu rộng tại nhiều nước đã du nhập đạo Phật và y học Ấn Độ, nhưng y học Ayurvedic vẫn gắn chặt với các truyền thống tôn giáo Hindu. Vũ trụ theo cách mô tả của các tôn giáo Ấn Độ có kích thước vô cùng lớn và rất xa xưa, trải qua không biết bao nhiều chu kỳ phát triển và tan rã. Nhân loại vướng vào chu kỳ vũ trụ này khi đầu thai vào các tầng cao hoặc thấp trong hệ thống giai cấp (caste) phức tạp. Theo cách giảng giải của các thầy tu Bà La Môn, thì hệ thống giai cấp của Ấn Độ phản ánh trật tự của tự nhiên gặp trong tụng ca sáng thế của kinh Độc thư Vệ Đà (RigVeda). Phát xuất từ cái xác hiến tế để tạo ra thế giới, giai cấp Bà La Môn (tu sĩ) được sinh ra từ cái đầu; Sát Đế Lợi (kshatriyas) bao gồm chiến binh và quý tộc sinh ra từ tay; Phệ Xá (vaisyas) bao gồm nông dân, thương gia và thợ thủ công sinh ra từ bắp vế; và Thủ Đà La (sudras) bao gồm người hầu và nô lệ sinh ra từ bàn chân. Từ 4 giai cấp chính trên tiếp tục phân chia ra hơn 3.000 đẳng cấp nhỏ hơn và cuối cùng là những người Hạ Tiện (untouchables).
Xuất phát từ bên trong và sau đó vượt ra ngoài biên giới của khối tri thức thần thoại và các chiến trận mang tính sử thi của các vị thần, người chinh phục và giai cấp, y học Ấn Độ đã hình thành qua ba giai đoạn rõ rệt: thời tiền sử, thời Vệ Đà và thời Ayurvedic. Theo thần thoại đạo Hindu, thì Brahma, người thầy đầu tiên của vũ trụ, là tác giả của Ayurveda (nghĩa là Khoa học của sự sống), là một trường ca bao gồm một trăm ngàn bài tụng ca và là cội nguồn của mọi kiến thức liên quan đến thuốc và y học. Hiền giả thần thánh Dhanvantari, người được sinh ra từ đại dương vũ trụ đã mang theo một lọ thuốc thần kỳ giúp các vị thần bất tử, đã mang khối tri thức Ayurvedic dạy cho nhiều lớp trí giả trước khi được viết ra thành chữ. Người ta cho rằng những văn bản còn sót đến ngày nay chỉ là cái bóng của kinh Ayurveda đã mất vốn do đấng Brahma soạn ra.
Trong lúc không thể xác định được chính xác được ai là tác giả cũng như thời điểm soạn ra kinh Vệ Đà, thì người ta cho rằng Độc thư Vệ Đà (RigVeda) đại diện cho các tài liệu của giai đoạn từ năm 4500 đến 2000 trước CN và Atharvaveda có lẽ bao gồm các tài liệu được soạn ra trong giai đoạn từ năm 1500 đến 1000 trước CN. Trong các tụng ca và thần thoại Vệ Đà, thần thánh và thầy thuốc chiến đấu chống lại các thế lực ma quỷ và cử hành các nghi thức có tác dụng như các phương thuốc thần bí chống lại bệnh tật và dịch bệnh. Tất cả các thứ thuốc, kể cả trên một ngàn cây cỏ làm thuốc được coi là có nguồn gốc từ trên trời, dưới đất và trong nước. Mặc dù nguồn gốc của lý thuyết y học Ayurvedic còn chưa chắc chắn, nhưng dược liệu của ngành y khoa này đã phát triển từ khối tri thức về thuốc từ thời Vệ Đà hoặc thậm chí thời tiền sử nữa.
Bộ Vệ Đà chứa rất nhiều dẫn liệu về khối tri thức y học, giải phẫu học, vết thương, bệnh tật, thầy thuốc, ma quỷ, thuốc, bùa mê và phù chú. Cùng với một hệ thống phức tạp các thần thánh, người theo đạo Hindu cổ đại tin tưởng vào một loạt vô số các ma quỷ gây ra bệnh tật. Do bệnh tật là hậu quả của tội lỗi hoặc do hành động của quỷ thần, cho nên muốn chữa khỏi đòi hỏi sự thú nhận, thần chú, cầu đảo và trừ tà. Các thầy thuốc Vệ Đà soạn các món thuốc thảo dược và bùa chú để chống lại các quỷ thần gây nên bệnh sốt, gãy xương, vết thương và vết cắn có nọc độc. Các phương thuốc và các kỹ thuật mổ xẻ chuyên biệt chỉ có hiệu lực điều trị khi được kết hợp với nghi thức cúng bái phù hợp, nhưng vai trò của thầy pháp, thấy thuốc và mổ xẻ trong chừng mực nào đó không hề giống nhau. Thầy mổ xẻ điều trị các vết thương và vết rắn cắn, múc con mắt bị tổn thương, rút mũi tên, cắt bỏ chi và gắn chân giả cho người bệnh. Nếu những xương sọ được phát hiện tại hai địa điểm khai quật vùng Harappa là đại diện của một truyền thống thất truyền, thì các thầy thuốc ngoại khoa người Ấn cũng đã thực hiện kỹ thuật khoan sọ.
Khi sàng lọc các luật lệ, công trình kỷ niệm, bia khắc, dụng cụ phẫu thuật, đồ nghệ thuật và các câu chuyện do các nhà du hành, hành hương và quân xâm lược, ta có thể hiểu thêm về cách hành nghề của nền y học và phẫu thuật Ấn Độ. Một nghiên cứu về truyền thống dân gian đương thời và công việc của các thầy lang cũng giúp ta hiểu được cách hành nghề thời xa xưa như thế nào. Tuy nhiên, chỉ dẫn trực tiếp nhất về nền y học Ấn Độ thời cổ đại được tìm thấy trong các tác phẩm cổ điển của nền y học Ayurvedic. Những văn bản này là tài liệu cơ bản đối với một nền văn minh trong đó truyền miệng vẫn chiếm vai trò chủ đạo, nhưng do lịch sử của nước Ấn quá phức tạp và đa dạng về văn hóa, nên những văn bản trên phải được coi như là những bức chân dung của người thầy thuốc lý tưởng hơn là một người hành nghề y tiêu biểu.
NỀN Y HỌC AYURVEDIC, KHOA HỌC CỦA SỰ SỐNG
Ayurveda hay “khoa học của sự sống”, là một hệ thống tinh thâm giữ vai trò nền tảng của nền y học truyền thống được thực hành rộng rãi hiện nay tại Ấn Độ. Người thầy thuốc nắm được khoa học của sự sống thì được gọi là vaidya. Thầy thuốc, thuốc, người phụ tá và bệnh nhân là 4 trụ cột cấu thành nền y học Ayurvedic. Công việc của người thầy thuốc là phải đánh giá đúng về nhiệm vụ của mình, người phụ tá có nhiệm vụ chuẩn bị thuốc men và thực hiện các nhiệm vụ điều dưỡng, vai trò của bệnh nhân là phải kể cho đúng lịch sử của bệnh và tuân theo lời dặn của thầy thuốc. Điều quan trọng đối với thầy thuốc là phải đánh giá cẩn thận bệnh nhân và người phụ việc bởi vì khi điều trị không thành công thì người ta chỉ nhắc đến năng lực của người thầy thuốc mà thôi. Đúng ra thì Ayurveda gồm có 8 mảng: nội khoa, bệnh của đầu, phẫu thuật, độc chất học, những bệnh do quỷ thần gây ra, nhi khoa, sự hồi xuân và thuốc kích dục. Mục tiêu đầu tiên của ngành khoa học về sự sống là bảo tồn sức khỏe hơn là điều trị bệnh. Sức khỏe không những chỉ có nghĩa là không có bệnh tật, mà còn là một trạng thái chỉ đạt được và cho phép hưởng thụ sau khi tích cực theo đuổi một chương trình chi li cho riêng từng người, bao gồm các biện pháp dự phòng do các thầy thuốc Ayurvedic quy định. Caraka, Susruta, và Vagbhata, “tam thần y”, là các tác giả có phần thần thoại của những văn bản giải thích 8 ngành của y học Ayurvedic. Mặc dù có nhiều truyện kể phong phú có liên quan đến các hiền giả này, nhưng không có mấy thông tin rõ ràng về cuộc đời của họ. Theo truyện kể thì Caraka sống vào khoảng năm 1000 và 800 trước CN, nhưng các học giả Tây phương cho rằng họ xuất hiện muộn hơn, chỉ vào thế kỷ thứ nhất. Dù thế nào đi nữa thì bộ kinh Caraka Samhita chỉ mới có hình thức như hiện nay vào thế kỷ thứ nhất. Được tôn vinh là bộ trước tác lớn đầu tiên của y học Ấn Độ, tài liệu này mô tả hàng trăm thứ thuốc và xếp loại những thuốc này theo từng nhóm bệnh mà thuốc có tác dụng.
Khai thác vỏ cây quế tại Ấn Độ trên một tranh khắc gỗ thế kỷ 16.
Susruta được coi là người hành nghề y và phẫu thuật khoảng năm 600 trước CN. Nếu Susruta Samhita (tập hợp các tài liệu do Susruta viết) được coi như có tính hệ thống cao hơn bộ do Caraka viết về mặt dược lý học trong điều trị, thì phần nhấn mạnh của Susruta về nghệ thuật mổ xẻ rất đáng chú ý. Do tài liệu của Vagbhata có nhắc đến cả Caraka lẫn Susruta, cho nên rõ ràng Vagbhata là tác giả đi sau, nhưng phần tiểu sử của ông này cũng mù mờ không kém. Những tài liệu cổ điển khác trong Ayurveda đề cập tới sản khoa, phụ khoa và nhi khoa. Một tài liệu vào thế kỷ 14 cho đến nay vẫn còn phổ biến đối với các thầy thuốc vaidya trong đó có mô tả cách đoán bệnh bằng cách bắt mạch; điều này phản ánh sự tiếp thu các kỹ thuật vào lý thuyết và thực hành nền y học Ayurvedic.
Theo Caraka, việc có được và giữ được sức khỏe cũng như hạnh phúc là một mưu cầu bắt buộc và cao quý. Bệnh tật là vật cản không cho con người đạt được các mục đích cao nhất, nhưng Ayurveda, ngành khoa học thiêng liêng nhất trong các khoa học, đã cứu giúp cho con người trong kiếp này và những kiếp sau đó. Bộ Caraka Samhita là sách hướng dẫn dành cho ba thể loại y học: bùa chú và các hành động tôn giáo; chế độ ăn và thuốc men; và điều trị tâm lý hoặc sự khuất phục tâm thần.
Cả Caraka và Susruta đều quan tâm khá nhiều đến những đặc trưng giúp phân biệt đâu là người thầy thuốc chân chính đối với những kẻ mượn tiếng ngành y. Một thầy thuốc thông thái phải là người hiểu giải phẫu học, sinh lý học và sự phát triển của cơ thể con người, cũng như nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ, cho nên sẽ không bao giờ nghi ngờ về nguyên nhân của bệnh, nắm bắt được ngay từ lúc đầu những dấu hiệu và triệu chứng tinh tế nhất và biết được bệnh nào dễ chữa nhất, bệnh nào không thể chữa được.
Vì lẽ thầy thuốc là thành viên của một nhóm nghề nghiệp chứ không thuộc về một giai cấp nhất định, cho nên họ có thể thu nhận học trò từ tất cả ba giai cấp trên. Học trò phải đến sống và phục vụ thầy giáo cho đến khi nào sư phụ hài lòng mới được cho là hoàn tất quá trình đào tạo. Học trò chỉ có thể tiếp cận được với các tác phẩm cổ điển khi nghe thầy đọc và giảng giải các tài liệu. Nhiệm vụ của trò là phải thuộc nằm lòng các nội dung thiêng liêng và chứng tỏ được là mình có khả năng về nội khoa và mổ xẻ. Bằng các thực tập trên quả trái cây, thực vật, thịt, hình nhân, học trò học việc mới phát triển được kỹ năng ngoại khoa trước khi thao tác thực sự trên bệnh nhân. Chẳng hạn, anh ta học cách rạch đường mổ bằng cách thực hành trên quả dưa chuột và tập cách lấy máu trên tĩnh mạch con vật chết hoặc trên cọng hoa sen.
Thầy thuốc giỏi phải đạt được 4 yêu cầu cơ bản về trình độ: kiến thức về lý thuyết, lý luận khúc chiết, có nhiều kinh nghiệm thực hành, và kỹ năng. Thông cảm và tử tế với mọi bệnh nhân, người thầy thuốc dốc lòng cho những bệnh có thể chữa được và luôn giữ một khoảng cách đối với những người sắp chết. Thầy thuốc mổ xẻ phải can đảm, có đôi tay vững vàng, dụng cụ bén nhọn, thái độ trầm tĩnh, lòng tự tin kiên định, và các phụ tá có thần kinh vững chắc. Mặc dù người thầy thuốc không bao giờ từ bỏ hoặc làm hại cho người bệnh, nhưng cũng không bị buộc phải nhận chữa cho những kẻ tội phạm hoặc những người mắc bệnh nan y. Tuy vậy, thầy thuốc lý tưởng là người dốc tâm ra sức cứu chữa người bệnh dù có phương hại đến tính mạng của mình.
Môn sinh lý học của y học Ayurvedic giải thích các chức năng cơ thể theo ba chất dịch cơ bản (dosas) hoặc nguyên lý - vata, pitta, and kapha- thường được dịch là gió, mật và mật đen (phlegm). Mặc dù các nguyên lý cơ bản của bệnh lý học về thể dịch của người Ấn Độ cũng tương tự như các nguyên lý của y học Hy Lạp, nhưng hệ thống Ayurvedic đưa ra một số các bổ sung tinh tế. Ba loại dịch thể của y học Ayurvedic khi kết hợp với máu, sẽ quyết định cho tất cả các chức năng cần thiết cho sự sống. Cơ thể được cấu thành do sự kết hợp của 5 yếu tố - đất, nước, lửa, gió và khoảng trống - và từ 7 loại mô cơ bản. Các chức năng của cơ thể cũng phụ thuộc vào 7 thứ gió riêng biệt, phần hồn chính và phần hồn bên trong. Một số thầy thuốc Ayurvedic cũng quan tâm đến kỹ thuật bắt mạch để chẩn đoán bệnh, hơi thở (prana) và kinh lạc (channel), là những quan niệm gợi nhớ đến lý thuyết y học cổ điển của người Trung Quốc.
Sức khỏe là kết quả của sự cân bằng tinh vi và hòa hợp giữa các chất dịch cơ bản; sự cân bằng này dễ bị mất đi khi gặp tai nạn, thương tích, stress và bị ma quỷ ám chướng. Như vậy, bệnh tật là do sự mất thăng bằng giữa gió, mật và mật đen hoặc, nói một cách triết lý hơn, về mặt sinh lý học đó là do sự lạm dụng đối với cơ thể, sai lầm trong quyết định và do thời gian trôi qua. Mức độ xáo trộn sẽ xác định là bệnh sẽ nhẹ, nặng hoặc nan y. Trừ một số ít người có sự cân bằng hoàn hảo, mọi nhân sinh từ khi sinh ra đều có sự bất hợp nhiều hay ít giữa ba loại thể dịch từ đó hình thành yếu tố tiền đề cho những thứ bệnh nào đó. Sự bất hợp giữa ba loại thể dịch sẽ dẫn đến sự xáo trộn máu huyết. Vì vậy, thầy thuốc phải loại bỏ đi “máu xấu” bằng cách trích huyết hoặc cho đỉa hút máu, và phục hồi sự cân bằng thể dịch khi buộc phải theo một chế độ ăn thích hợp.
Chọn lựa một chế độ ăn đúng đắn là một công việc rất khó khăn bởi vì có liên quan đến các khía cạnh tôn giáo cũng như y học và sinh lý học. Mặc dù các sử gia đều thống nhất là người Hindu cổ đại có ăn thịt, các tín đồ Hindu hiện đại theo đường lối cực đoan lại cho rằng ăn chay và cấm ăn thịt bò là những điểm nhấn trong bản sắc đạo Hindu. Tại nhiều tiểu bang ở Ấn Độ, giết bò cái là phạm luật. Tuy nhiên, bằng chứng lấy từ các kinh Vệ Đà, các trường ca sử thi và các địa điểm khai quật khảo cổ đều chứng minh rằng “tính thần thánh” của bò cái thật ra chỉ là một huyền thoại tương đối mới gần đây. Các truyền thống Ấn Độ cổ đại có nhắc đến sự hiến tế bò cái và các động vật khác cho các vị thần trong kinh Vệ Đà và việc ăn thịt những động vật trên là một phần của bữa ăn bình thường. Một số sử gia tin rằng sự cấm đoán ăn thịt là do sự tiến hóa của các học thuyết về luân hồi và bất bạo động của các đạo Hindu, đạo Phật và đạo Kì-na (Jain). Các chủ đề đan xen trong nhiều tác phẩm y học kinh điển của Ấn Độ cho thấy có mối quan hệ cơ bản giữa thức ăn và trật tự vũ trụ. Ăn chay, bất bạo động và lòng thương xót cho mọi sinh linh có vai trò quan trọng đối với sức khỏe, chữa bệnh và trật tự xã hội. Tuy vậy, các đơn thuốc Ayurvedic đôi khi đi ngược lại với quan niệm lý tưởng về bất bạo động và ăn chay của đạo Hindu. Đối với một số bệnh nhân cá biệt, thầy thuốc thậm chí còn cho uống nước canh nấu từ thịt hổ hoặc sư tử.
Chẩn đoán là một sứ mạng đầy thách thức; có hơn 1.000 chứng bệnh được nêu trong các tài liệu cổ xưa. Sốt chiếm vị trí danh dự là “vua của mọi loại bệnh của cơ thể”. Khi sốt có tính gián đoạn, thời khoảng giữa hai đỉnh sốt cho ta biết tiên lượng của bệnh. Ghi nhận về thời khoảng giữa các đợt sốt, cũng từng được nêu trong y học Hy Lạp, có lẽ phản ánh kinh nghiệm đối với các kiểu sốt của bệnh sốt rét.
Chẩn đoán chính xác là mấu chốt để chọn cách điều trị đúng đối với bệnh chữa được. Sau khi lắng nghe lời bệnh nhân kể về bệnh tật, thầy thuốc sẽ nghiên cứu sắc diện bệnh nhân, tìm ra những bất thường, những tiếng động bên trong, máu, thể dịch và chất thải tiết. Các kỹ thuật thầy thuốc sử dụng là sờ, nghe, phát hiện các dấu hiệu bằng cách dùng thuốc để điều trị thử, và đánh giá mùi và vị của các chất thải tiết. Nếu người thầy thuốc không muốn chính mình phải nếm các chất thải tiết, ông ta có thể giao việc này cho học trò, hoặc đem cho côn trùng ăn và quan sát phản ứng của chúng. Nghiệm pháp nếm vị cho ý nghĩa chẩn đoán nổi danh nhất cung cấp thông tin về “bệnh nước tiểu mật ong” có lẽ để phát hiện chứng bệnh đái tháo đường ngày nay. Các thầy thuốc Ayurvedic hiện nay khẳng định rằng nguyên nhân do vi trùng và bản chất truyền nhiễm của một số bệnh đã được nêu trong các tài liệu cổ điển. Có lẽ người xưa đã nghi ngờ nguyên nhân ký sinh trùng của bệnh phong và đậu mùa, nhưng “các tác nhân ký sinh” làm lây nhiễm các bệnh dịch có nhiều khả năng là do ma quỷ gieo rắc bệnh tật hơn là do các vi sinh vật. Tuy vậy, các phương pháp đối phó với một tác nhân ma quỷ vô hình lại rất hiệu quả đối với vi trùng. Lấy ví dụ, các nghi thức được tiến hành khi cúng bái nữ thần Sitala có thể bao gồm việc chủng ngừa bệnh đậu mùa.
Nghệ thuật trị liệu lồng ghép 5 cách điều trị được ghi trong kinh sách. Xoa bóp các dạng, xức dầu, và yoga đều được coi là phương thức điều trị. Lấy ví dụ, yoga, một hệ thống phức tạp các tư thế, thiền định, kiểm soát hơi thở, được đưa ra để an định tâm thần và đem lại sự hòa hợp giữa thân và ý. Những người hâm mộ yoga hiện đại cho rằng môn này nâng cao sức khỏe và có tác dụng trị liệu đối với những rối loạn thể chất, tâm thể và tâm lý. Tuy nhiên, xét về nguồn gốc, thì yoga chỉ là một phương tiện thực chứng chơn ngã (self-realization) hơn là một phương thức trị liệu. Một số hình thức yoga chẳng hạn như Kundalini Yoga, vốn là một phần của Tantra Yoga, được coi là có tác dụng nâng cao sức khỏe tâm thần và hoạt động của hệ thần kinh. Tantra Yoga dạy rằng cơ thể có chứa 6 trung tâm thần kinh (chakra). Thể loại yoga này được John Woodroff (Arthur Avalon) tuyên truyền rộng rãi. Ông này là tác giả quyển Quyền lực con rắn (The Serpent Power) (1919). Những ai thực hành theo hình thức yoga này cho rằng sẽ tìm được một giác quan phi thường về tỉnh thức hoặc thậm chí sự phóng thích các năng lực siêu nhiên khi kích thích năng lượng Kundalini và chuyển năng lượng này đi về não.
Với cả một kho tàng các phương thuốc, bao gồm tất cả những gì thuộc về dược lý học Ayurvedic, đã cho phép Caraka khẳng định rằng nếu được điều trị đúng mức thì ngay cả người già, người tàn tật cũng có thể lấy lại được sức mạnh thời trai trẻ. Khoảng một ngàn thứ thuốc có nguồn gốc thảo mộc được đề cập trong các tài liệu Ayurvedic cổ điển chính, nhưng cũng có nhiều thứ không xác định được hoặc đó là “thuốc của thần thánh” như soma chẳng hạn. Các huyền thoại Vệ Đà cho rằng Brahma tạo ra soma để ngăn ngừa tuổi già và cái chết, nhưng bản tính của “thứ vua cây cỏ” này vẫn còn là một bí ẩn đối với các bậc thức giả sau này. Các thầy lang cũng bào chế thuốc từ khoáng chất, đá quý, kim loại, các sản phẩm của động vật như mật, sữa, da rắn và phân động vật. Đối với những bệnh tật do sự biến chất của các dịch cơ thể, thì cách điều trị phù hợp là thanh tẩy bên trong, thanh tẩy bên ngoài và giải phẫu. Những bệnh do chế độ ăn không phù hợp đòi hỏi phải có những phương thuốc để thanh tẩy bên trong, nhưng để điều trị các thầy thuốc thường khởi đầu bằng cách cho nhịn ăn 7 ngày. Một số bệnh nhân hồi phục trong giai đoạn này và không cần phải điều trị gì thêm; và chắc cũng còn một số khác có thể tử vong và như thế khỏi cần phải điều trị nữa.
Các món thuốc trần thế rõ ràng là làm từ những cây cỏ phổ thông. Một số được xem như cho nhiều công dụng. Lấy ví dụ, hạt muồng (senna), lấy từ cây muồng trâu (cassia) có lẽ đã được các thầy thuốc Ayurvedic sử dụng ít nhất qua 2000 năm. Hạt muồng được đưa vào các đơn thuốc làm thuốc nhuận trường, và chữa bệnh ngoài da (xức lác), bệnh ở mắt, ho và các chứng sốt. Một loại thuốc cổ truyền khác của Ấn Độ lấy từ nhựa một loại cây mọc ở Ấn Độ, Pakistan và Afghanistan đã được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh trong 2000 năm. Các nhà khoa học khi tìm các tác nhân làm thuốc trong những bài thuốc cổ truyền đã phát hiện là nhựa của cây guggul (Commiphora mukul) có chứa một phức hợp có tính năng điều chỉnh nồng độ cholesterol trong máu.