← Quay lại trang sách

CÁC QUAN NIỆM CỔ ĐIỂN CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC VỀ CƠ THỂ HỌC

Một khía cạnh của y học Trung Quốc dường như khá xa lạ với người đọc hiện nay là cách tiếp cận cổ điển của họ đối với giải phẫu học. Tuy vậy, nếu chỉ cho rằng môn giải phẫu học cổ điển của người Trung Quốc liên quan đến chức năng hơn là cấu trúc, thì những sự phân biệt giữa giải phẫu học và sinh lý học lại trở nên không phù hợp. Theo cách nghĩ phương Tây, thì giải phẫu học không phải là nền tảng của lý thuyết và thực hành của y học Trung Quốc. Các nhà giải phẫu học phương Tây nghiên cứu cơ thể con người như thể nghiên cứu các bộ phận của một cỗ máy. Ngược lại, giải phẫu học cổ điển của người Trung Quốc là một sự tương tác năng động của các hệ thống chức năng hơn là của các cơ quan. Theo các quan niệm y học Trung Quốc cổ điển, từ “gan” không phải là một vật chất cụ thể được sử dụng để làm ra món patê, mà là một khu vực chức năng trong cơ thể tương ứng với tính của gỗ, mùa xuân, buổi sáng, sự trở mình, và nảy mầm. Do đặt nặng về chức năng hơn là cấu trúc, cho nên môn giải phẫu học Trung Quốc có thể hợp nhất các cơ quan vốn không có thực trong cơ thể, chẳng hạn như kinh tam tiêu (triple-warmer). Cũng giống như phần hồn (id), bản ngã (ego) và siêu bản ngã (superego) trong tâm lý học, kinh tam tiêu có chức năng, nhưng không có vị trí cụ thể.

Những thực thể gây thắc mắc mà không có phần tương ứng trong môn giải phẫu học và sinh lý học Tây y đó là “sinh môn” (life gate) và “chân hỏa” (potential fire). Một số học giả tin rằng các lý thuyết của Trung y về sinh môn và chân hỏa có thể liên quan đến môn nội tiết học hiện đại. Joseph Needham gọi những lý thuyết cổ điển đó là “môn giả kim thuật sinh lý học” (physiological alchemy). Các tài liệu Trung y cổ điển cho rằng “sinh môn” là nơi tích tụ của năng lượng sự sống đầu tiên (gọi là khí) vốn phát xuất từ thận. Đối với nam giới, khí là nơi tụ của tinh và ở nữ giới, khí phụ trợ cho tử cung. Lý thuyết về “chân hỏa” được coi là công lao của một thầy thuốc sống vào thời nhà Nguyên (1271-1368), chứng tỏ rằng các lực lượng và thực thể mới tiếp tục xuất hiện trong tư tưởng y học Trung Quốc. “Chân hỏa” giống như máu, vốn phát xuất từ bụng, được các thể dịch kiểm soát. Một dạng khác của “hỏa” gắn kết với tim và liên hệ đến các hoạt động trí não. Bình thường, hai loại “hỏa” này cân bằng với nhau, nhưng khi “chân hỏa” quá vượng có thể dẫn tới mất kiểm soát cảm xúc. Môn đồ của trường phái tư tưởng này cố gắng bảo tồn sức khỏe bằng cách tập trung vào sự hài hòa giữa thể chất và tâm thần, và việc vận dụng đến thực phẩm và môi trường. Họ cũng là những người cho là mình có thể chữa được những bệnh mà các phương cách thông thường bó tay.

Theo Nội Kinh, âm và dương và ngũ hành có liên hệ mật thiết với 5 “tạng đặc”/tạng (tim, lách, phổi, gan và thận) và 5 “tạng rỗng”/phủ (túi mật, bàng quang, dạ dày, ruột già, ruột non). Nằm sâu bên trong cơ thể, 5 tạng đặc hoặc cơ quan, gọi là các tạng âm giữ chức năng tích trữ, bộ phận chứa. Còn 5 tạng rỗng, vốn nằm ở các vị trí sát bên ngoài cơ thể được xếp vào nhóm tạng dương, giữ chức năng thải tiết. Sự tương tác giữa các tạng khác nhau được hình thành nhờ nối với nhau thông qua hệ thống kinh lạc giống như hệ thống kênh dẫn nước.

Do tầm quan trọng của tưới tiêu đối với nền nông nghiệp tại Trung Quốc, chức năng của các hệ thống dẫn thường được so sánh với các công trình thủy lợi do nhà nước quản lý. Lấy ví dụ, kinh tam tiêu tương tự như các viên chức trông coi việc hoạch định xây dựng mương máng và cống xả. Để cho cơ thể hoạt động đúng cách, các cơ quan, giống như các viên chức nhà nước phải hết lòng giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, khi hệ thống hoạt động một cách hài hòa, tim hành xử với tầm nhìn và sự hiểu biết giống như quan tể tướng, còn gan giống như tướng cầm quân vạch ra chiến lược.

Hệ thống ngũ hành tương sinh có thể tạo ra một sự trái ngược khá rối rắm giữa triết lý và thực hành trong y học, bởi lẽ châm thuật và cứu thuật đã được xây dựng trên 6 cặp kinh lạc hoặc kinh mạch châm cứu. Vấn đề được giải quyết khi bổ sung màng bao tim hoặc hệ thống bao bọc quanh tim và kinh tam tiêu vào danh mục các tạng đặc và tạng rỗng.

Mặc dù có không ít thảo luận về các chi tiết khác nhau, nhưng không có mấy tranh luận về thực tế mà các học giả Trung Quốc công nhận sự liên hệ giữa tim và sự tuần hoàn của máu trước khi những quan niệm này được William Harvey (1578-1657) đưa vào khoa học và y học phương Tây vào thế kỷ 17. Người phương Tây thường bảo vệ tính độc đáo của phát minh do Harvey bằng cách bác bỏ các quan niệm của người Trung Quốc về sự tuần hoàn là huyền bí tối tăm, và cho rằng sở dĩ có các quan niệm trên là do sự dịch nghĩa dễ dãi. Các lý lẽ triết học hơn là qua mổ xác, có lẽ đã dẫn các thầy thuốc Trung Quốc đến quan niệm về sự lưu thông không ngừng nghỉ của một số chất cơ yếu - được dịch thành máu, hoặc hơi thở hoặc năng lượng - nằm trong hệ thống các kinh mạch của cơ thể.

Mặc dù Nội Kinh cho rằng máu chuyển động là do tim chủ nhịp, và sự lưu thông của năng lượng là do phổi, nhưng các học giả lại không nhất trí về ý nghĩa và sự liên quan của các thuật ngữ được dịch thành máu, hơi thở hoặc năng lượng. Các thầy thuốc Trung Quốc tin rằng máu là thành phần chủ đạo nuôi sống cơ thể, cho nên mất máu sẽ làm cho cơ thể yếu đi. Khác với các bác sĩ Tây y, thầy thuốc Trung Quốc gạt bỏ phương pháp trích huyết vốn là thành phần điều trị quan trọng của Tây y mãi đến thế kỷ thứ 20.

Theo triết lý y học Trung Quốc, bệnh chủ yếu là do sự mất thăng bằng của âm và dương, tạo nên sự rối loạn của một thành phần trong ngũ hành, và biểu hiện bằng sự suy giảm chức năng của cơ quan tương ứng và những cơ quan khác do cơ quan khác nằm dưới sự kiểm soát của cơ quan bị tổn thương. Vì vậy, tất cả các trị liệu đều nhắm tới việc phục hồi trạng thái hài hòa. Để phù hợp với hệ thống ngũ hành, Nội Kinh đưa ra 5 phương pháp điều trị: chữa bệnh cho tinh thần bằng cách sống hài hòa với vũ trụ, điều hòa chế độ ăn, châm cứu, thuốc và điều trị bệnh của ruột, các tạng, máu, và hơi thở. Khi cho đơn không kể là điều trị hoặc dự phòng, người thầy thuốc phải hết sức chú tâm đến ảnh hưởng của địa lý, khí hậu và phong tục địa phương.

Có phần bồi hồi và thất vọng, Hoàng đế và quan ngự y hồi tưởng, vào thời Hoàng kim xa xưa, do con người sống có điều độ và hài hòa với tự nhiên cho nên có cuộc sống tích cực trên một trăm năm. Về sau, con người không thèm đếm xỉa đến các lề lối tự nhiên cho nên trở thành yếu đuối, đoản mệnh, và dễ mắc nhiều bệnh. Lấy ví dụ, người Đông Di ăn cá và ăn mặn nhiều; chế độ ăn này làm cho máu bị tổn thương và gây bệnh ung loét. Gió, hoặc “khí độc” gây ra nhiều bệnh bởi vì khi xâm nhập vào cơ thể, sẽ làm cho âm dương không còn hài hòa, và làm giảm nguyên khí (vital energy). Nói chung, gió gây ra sốt và rét run, nhưng từng loại gió kết hợp với sự chuyển mùa sẽ dẫn tới những nguy hiểm nhất định.

Khi mối liên hệ hài hòa giữa thân và ý bị xáo trộn, bệnh có thể từ đó mà sinh ra.

Để tìm ra chẩn đoán và tiên lượng, thầy thuốc Trung Quốc dựa vào khoa bắt mạch đầy rắc rối. Do sự gắn kết chặt chẽ giữa kinh và mạch theo đó âm dương lưu thông, cho nên khi nghiên cứu âm trong máu có thể phát hiện được những vấn đề của dương trong mạch (tract). Như thế, khi lắng nghe những tiếng sóng của máu do tim tống đi, thầy thuốc có thể phát hiện được bệnh tại nhiều phần trong cơ thể. Người thầy thuốc phải học 50 loại mạch, nắm được trên 200 biến thể, và phải biết nhận ra mạch nào báo hiệu bệnh nhân sắp chết. Mạch có thể yếu, mạnh, thô, nhẵn, sắc như móc câu, mịn như tóc, lì như đá, sâu như giếng, mịn như lông tơ. Mạch đầy, mạnh, yếu, đều hoặc không đều sẽ cho phép phát hiện bản chất của bệnh, hoặc là mạn hay cấp, nguyên nhân và thời gian mắc bệnh, và tiên lượng hồi phục hay tử vong.

Khoa bắt mạch phát hiện bệnh mới phát và cho phép thầy thuốc kê ra các biện pháp dự phòng hoặc xử lý diễn biến điều trị. Có thể phải nhờ đến những mánh lới chẩn đoán khác nhất là đối với trẻ em. Khi quan sát kỹ, thầy thuốc có thể tìm được các mấu chốt chẩn đoán với các âm thanh mà người bệnh tạo ra khi nói, rên, cười hoặc khóc và với sự đổi màu ở các bộ phận trên thân thể người bệnh. Lấy ví dụ, nhìn lưỡi có thể nhận ra 30 ánh màu cho biết bằng chứng của bệnh hoặc khả năng tử vong. Thầy thuốc cũng phải nhận biết được nhiều loại bệnh nhân khó tính hoặc hay nghi ngờ, chẳng hạn những kẻ bướng bỉnh, bủn xỉn hoặc tham ăn và phóng đãng, và những người tin vào thầy pháp hoặc lang băm hơn là tin vào thầy thuốc.

TRI GIẢ, LƯƠNG Y, VÀ LANG BĂM

Theo Hoàng đế, thì các bậc đại trí thời cổ đại không chữa cho những người đã bị bệnh. Thay vào đó, họ đưa ra lời chỉ dạy khi người ta chưa bị bệnh, bởi lẽ tìm thuốc chữa khi bệnh đã xảy ra thì cũng ngu ngốc như chờ tới lúc chiến tranh xảy ra mới rèn khí giới. Trên lý thuyết, thầy thuốc cao tay hướng dẫn cho người khỏe mạnh chưa bệnh, thầy thuốc kém mới điều trị người mắc bệnh. Trong khi bậc trí giả thực hành y học dự phòng và không hề lấy tiền công, thì hàng lũ các thầy lang không có chút trình độ - phẫu thuật gia, bán thuốc, phương sĩ, thầy bói, kẻ bán hàng rong, và lang băm - thảy đều hăm hở nhận tiền công và cúc cung phục vụ đám thân chủ ngu si bệnh tật. Người thầy thuốc điển hình bị trách cứ là quá chú ý đến công xá và ân huệ hơn là các lý thuyết và triết lý.

Mặc dù việc đào tạo và các hoạt động của đội ngũ các ngự y không hề tiêu biểu cho sự thực hành phổ thông của nghề y tại Trung Quốc, có nhiều cải tiến đáng kể có liên quan đến sự tiến triển của định chế này. Lấy ví dụ, các định chế của nhà Chu (khoảng 1122-221 trước CN) cho biết rằng vào thời này nhà nước tổ chức hàng năm các kỳ thi để tuyển những ai muốn làm nghề y. Hầu như mỗi tỉnh đều có trường dạy nghề y, nhưng đa số các thầy thuốc đều phải trải qua thời gian học việc, còn các thầy lang xoàng chủ yếu là tự học. Đối với Thái y viện (Imperial Service), lương bổng của từng thí sinh căn cứ vào thứ hạng trúng tuyển. Thứ bậc và lương bổng của thái y được ấn định dựa trên số trường hợp chữa trị thành công. Thầy thuốc chữa lành cho tất cả các bệnh nhân được xếp vào hạng nhất, hạng thấp nhất dành cho những người chỉ chữa khỏi không quá 60% ca bệnh. Nên chú ý rằng khoảng một nửa số bệnh nhân có thể hồi phục mà không cần phải điều trị gì cả. Các thú y sĩ cũng được xếp hạng căn cứ trên tỷ lệ điều trị thành công của họ.

Thái y viện thời nhà Chu bao gồm các thầy thuốc lo về thực phẩm, thầy thuốc lo những bệnh đơn giản, thầy thuốc lo các vết loét (phẫu thuật viên), thầy thuốc cho súc vật và người phụ trách tất cả các thầy thuốc trên. Thầy thuốc chuyên về bệnh đơn giản được giao nhiệm vụ kiểm tra 5 loại hơi thở, 5 loại âm thanh và 5 màu để xác định bệnh nhân còn sống hoặc chết. Thái y viện có 30 ngự y làm việc cho Hoàng cung. Các y sư hạng nhất giảng các tài liệu cổ điển cho các đồng nghiệp trẻ tuổi. Những người này được phép tiếp cận với thư khố triều đình chứa đến 12.000 tài liệu y học và các khoa học tự nhiên. Điều rõ ràng là có rất ít người được các bậc trí giả phục vụ. Các thầy thuốc hạng xoàng thực hành y học cho công chúng và bán thuốc dạo có số lượng cao hơn nhiều so với số thầy thuốc phục vụ cho triều đình. Một hệ thống hỗ trợ công cộng tương đối dàn trải hiện diện trên lý thuyết, nhưng không bao giờ được chu cấp đầy đủ để phục vụ thỏa đáng nhu cầu y tế của dân chúng.

Những người bệnh quá quan tâm đến quỷ thần hơn là ngũ hành thì tìm thầy chữa bệnh cho mình ở góc phố, cùng với bọn chiêm tinh, phong thủy hoặc thầy bói hoặc tìm đến các đền miếu nơi mà các thầy lang vừa ban phát bùa chú cùng với lời khuyến cáo dùng thuốc. Các biện pháp bảo vệ khi phạm đến các bậc quỷ thần gồm có bùa chú, cầu nguyện, trừ tà, thần chú, bùa ngải và phù chú. Phù chú gần giống như một sắc chỉ của triều đình, nhưng tên của vị quan thì được thay bằng tên con quỷ đầu đảng ra lệnh cho các con ma đàn em thôi không gây bệnh và tai họa nữa. Việc trục con ma có thể cần phải nhờ đến thuốc chế biến bằng các loại độc dược mạnh hoặc các thứ có mùi khó ngửi. Để thứ thuốc độc không giết chết người bệnh, thì người ta cho đeo thuốc như là một thứ bùa mê hoặc đốt lên để xông khói. Có một loại sâu ma gọi là cổ (ku), giữ vai trò chủ đạo trong các bệnh do ma quỷ được mô tả trong văn chương bác học và truyện kể dân gian. Có lắm điều tin tưởng được thêu dệt chung quanh con sâu ma cổ này, chẳng hạn như người ta tin rằng cách duy nhất để nạn nhân đầu tiên dứt bỏ được cổ là tìm cho nó một ký chủ mới. Những thứ kị con cổ này là cầu nguyện, bùa ngải, thuốc, và con rết (vì lẽ con rết ăn sâu). Luật pháp cho thấy rằng sự tin tưởng vào ma thuật cổ còn tồn tại mãi đến thế kỷ 19. Hình phạt dành cho ma thuật cổ rất nghiêm khắc, bao gồm những phương pháp kỳ dị để xử trảm kẻ phạm tội và toàn bộ gia đình người này.

Các thầy thuốc được đào tạo bài bản hoặc có chí hướng thường cố tách biệt nghề y ra khỏi phù thủy và ma thuật, và họ coi khinh các bài thuốc được các thầy lang và lang băm kê đơn, nhưng đôi khi họ cũng cho những đơn thuốc vừa có thuốc vừa kèm theo ma thuật. Một ví dụ của loại đơn thuốc kết hợp này được sử dụng khi điều trị bệnh đường tiêu hóa là đơn thuốc được viết chữ bùa trên một thứ giấy dày màu vàng, lấy thuốc làm mực. Sau đó, đem đốt đơn thuốc đi lấy tro hòa với nước nóng và uống như uống trà thuốc.

Các tài liệu văn bản thường chỉ phản ánh sự quan tâm đến lý thuyết y học về mặt học thuật, nhưng sự tương tác thực sự giữa thầy thuốc và bệnh nhân đôi khi cũng thể hiện trong các tuyển tập ca bệnh, tiểu sử, nhật kí và tài liệu tư vấn. Căn cứ theo bệnh sử ca bệnh vào thời nhà Minh (1368-1644), các thầy thuốc sử dụng 4 phương pháp khám bệnh để đưa ra chẩn đoán. Tức là họ thực hiện từng bước phù hợp khi nhìn, nghe, ngửi, hỏi bệnh, và sờ (bắt mạch) tùy thuộc vào tình trạng và giới tính của người bệnh. Mặc dù bắt mạch thường được coi là phần tin cậy nhất khi khám bệnh, các thầy thuốc cũng đưa ra khả năng có thể chẩn đoán và tư vấn cho người bệnh dù không trực tiếp khám. Nếu nghĩ rằng bệnh nhân chắc chắn sẽ chết, hoặc bệnh nặng không còn cách nào để can thiệp, thầy thuốc có thể từ chối chữa bệnh. Cũng giống như các hệ thống y học khác thời cổ đại, điều quan trọng đối với thầy thuốc là dự đoán tử vong và tránh phải gánh trách nhiệm nếu điều trị thất bại. Việc thường nhắc tới các khuyết điểm của đồng nghiệp khác dường như để phản ánh sự cạnh tranh khốc liệt giữa các thầy thuốc. Qua các ca bệnh và tiểu sử cho thấy ngay cả các các thầy thuốc ưu tú cũng thường phải đi xa để tìm bệnh nhân. Một số thầy thuốc viếng người bệnh theo định kỳ có báo trước nhằm phát hiện có người nào bỏ đi tìm thầy khác hoặc ngớ ngẩn tự dùng thuốc khi thấy rằng không chờ kịp đến lần hẹn hoặc không hài lòng với đơn thuốc của thầy.

Các tài liệu của triều đình Trung Quốc gần đây cho thấy nền y học cổ có cả một hệ thống các lý thuyết và thực hành liên quan đến các quan niệm dựa trên giới tính của cơ thể và các chức năng của nó. Tuy nhiên, nhìn chung thì các tài liệu cổ điển tập trung vào sự phân bố của khí lực (energy) trong cơ thể người nam. Các thảo luận về y học dành cho phụ nữ thường là đề cập đến sự mắn con, những bệnh chuyên biệt của phụ nữ, và các phương thuốc thích hợp cho từng độ tuổi của phụ nữ. Các thầy thuốc rõ ràng là sử dụng những phương pháp chẩn đoán như nhau cho nam và nữ, nhưng dưới triều Minh, thầy thuốc nam giới thường không được phép khám bệnh nhân nữ trực tiếp. Không có mấy tài liệu về thầy thuốc nữ ngoài bà mụ, nhưng một văn sĩ thời Minh cho biết là phụ nữ thường tìm các bà lang khi họ hoặc con nít có bệnh.

CHÂM VÀ CỨU

Tri thức về thuốc, thảo dược và thực hành ma thuật về cơ bản là những nét chung của các hệ thống y học cổ truyền thời xa xưa. Tuy nhiên, nền y học Trung Quốc có tính độc đáo khi hình thành các kỹ thuật là châm thuật và cứu thuật và họ có cả một hệ thống lý luận tinh vi để biện giải cho những kỹ thuật rất cổ xưa đó. Cả hai khoa châm và cứu đều được sử dụng nhằm phục hồi sự khai thông âm dương vốn rất quan trọng để cho cơ thể khỏe mạnh.

Ít nhất trong 2.500 năm qua, châm thuật, kỹ thuật dùng kim đâm vào các điểm nhất định trên bề mặt của cơ thể, đã là một bộ phận của nền y học Trung Quốc. Cứu thuật, là một kỹ thuật đem đốt cháy một loại bùi nhùi làm từ bột lá cây ngải cứu (Artemisia vulgaris) rồi áp lên một số điểm nhất định trên da. Kỹ thuật này có lẽ còn cổ xưa hơn châm thuật. Châm thuật đã khá nổi tiếng và được phương Tây chấp thuận phần nào, nhưng cứu thuật thì hầu như bị quên lãng. Mặc dù cứu có thể gây bỏng và để lại sẹo, nhưng các thầy thuốc chuyên khoa cho rằng cái đau này không hẳn là khó chịu. Tuy nhiên, những người nghi ngờ khó mà tưởng tượng rằng có một loại bỏng nhưng kèm theo “thống khoái”.

Nữ thần Tử Bạch được coi là người đã trao bí mật về cứu thuật cho Hoàng đế, sau đó vị này chế ra 9 loại kim châm đi từ đá lửa và xương. Theo một số tài liệu không rõ nguồn gốc và manh mún nhắc đến việc sử dụng các hòn đá nhọn để rạch túi mủ và chữa bệnh ở Trung Quốc thời xa xưa đầy huyền thoại, thì các công cụ bằng đá nhọn như mũi kim đã được tìm thấy tại chân một ngọn núi có ngọc ở trên đỉnh. Rủi thay, vẫn còn chưa rõ biết bao nhiêu bước đi từ việc rạch túi mủ bằng đá nhọn đến hệ thống tinh vi được mô tả trong Nội Kinh Hoàng đế.

Theo Nội Kinh, thì tổng các điểm châm là 365. Tuy nhiên, Hoàng đế dường như chỉ nhắc đến 160 điểm. Con số 365 có thể chỉ nói lên một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh tượng trưng cho số độ trên Thiên cung (celestial circle), số ngày trong năm, và con số các bộ phận trong cơ thể con người. Những điểm này được bố trí theo một hệ thống phức tạp các kinh lạc chằng chịt trong cơ thể. Dưới dạng thuần thành, hệ thống châm thuật gồm có 12 kinh lạc chính, mỗi kinh mang tên của một tạng đặc hoặc rỗng mà kinh này gắn kết chính yếu. Hệ thống này cũng dung nạp nhiều tạng phụ thuộc. Đối với người quan sát ngoài ngành, thì khía cạnh gây bối rối nhiều nhất của hệ thống này có lẽ là hầu như không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa cơ quan hoặc rối loạn được điều trị và vị trí của điểm chọc kim châm khi điều trị.

Trên lý thuyết, thầy thuốc châm cứu tiếp cận với hệ thống kinh lạc được coi là nơi phân phối năng lực ra khắp cơ thể bằng cách chọc kim vào những vị trí nhất định nơi đường kinh lạc lộ ra bề mặt của cơ thể. Ý tưởng rằng nhà châm cứu có thể trích, trục, hoặc dẫn năng lực bằng cách chọc kim vào kinh lạc có lẽ phản ánh sự tiến hóa của hệ thống y học này từ cơ sở thực nghiệm ban đầu khi rạch da để dẫn máu hoặc mủ ra khỏi túi mủ. Trong quá trình điều trị các thương tổn khu trú, thầy thuốc có thể phát hiện rằng khi châm vào một điểm nhất định sẽ gây ra các hiệu quả toàn thân. Nếu châm đúng chỗ, một số cảm giác sẽ xuất hiện chẳng hạn như nóng, tê và cảm thấy những cảm giác này từ từ đi lên hoặc xuống dọc theo tứ chi hay phần thân. Nếu những điểm này là cơ sở nguyên khai của hệ thống châm cứu, thì có thể rằng dựa theo cảm giác chủ quan của một đáp ứng chạy xuyên qua cơ thể châm vào những huyệt đạo là cơ sở để vẽ ra bản đồ các kinh lạc.

Phương Tây đã bỏ ra quá nhiều giấy mực để bàn xem liệu những kinh lạc này thực sự hiện diện hay không. Trong lúc những đặc điểm chức năng của các kinh lạc vẫn là một nguyên tắc cơ bản của nền y học cổ điển Trung Quốc, thì có thể rằng hệ thống mạch máu chủ yếu là một phương tiện giúp ghi nhớ cho phép thầy thuốc cách nối kết vô số các hiện tượng sinh lý với các huyệt được xác định dựa trên tiên nghiệm. Các thầy thuốc non trẻ có thể học nghệ thuật châm cứu từ các cẩm nang có minh họa và thực tập trên các mô hình bằng đồng hoặc hình nhân bằng gỗ. Sau đó, họ có thể tiếp tục công việc học tập này trên bệnh nhân thực sự, là những người lớn hay nhỏ xác, gầy hoặc béo, nam hoặc nữ, già hoặc trẻ. Theo các vị y sư, thì khía cạnh nguy hiểm nhất của châm cứu là khả năng lạm dụng, do ngu dốt hoặc do ý đồ xấu, bởi vì hệ thống châm cứu có một số “tử huyệt”. Châm vào tử huyệt có thể gây ra các tổn thương nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong.

Châm thuật chủ yếu được chỉ định cho tất cả các rối loạn do dương vượng. Cứu thuật được coi là thích hợp hơn khi âm vượng. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa âm và dương, ngũ hành và các tạng rất phức tạp cho nên phương pháp nào cũng có thể sử dụng được. Châm cứu thường được khuyến cáo cho những bệnh mạn tính như lao, viêm phế quản và yếu toàn thân, nhưng cũng được sử dụng cho đau răng, nhức đầu, thống phong, tiêu chảy và một số rối loạn tâm lý. Bào Cô (Pao Ku), vợ của nhà giả kim Cát Hồng (Ko Hung) (254-334), nổi danh nhờ điều trị các bệnh ngoài da bằng cứu thuật. Các quan lại Trung Quốc vào thế kỷ thứ 7 chỉ du hành sau khi đã được đốt cứu bảo vệ chống lại các bệnh thời khí và rắn cắn. Ngày nay tại Trung Quốc, các thầy thuốc thử đem cứu thuật điều trị bệnh cúm, viêm phế quản mạn và nhiễm trùng đường hô hấp.

Ngày nay, tại Nga, châu Âu, Bắc Mỹ, và Nam Mỹ, cũng như tại châu Á, đều có các châm sư chuyên nghiệp. Tuy nhiên, vị trí pháp lý (legal status) của các y sư này tại một số nước vẫn còn chưa rõ. Mãi đến những năm 1970, cộng đồng y học Mỹ chưa hề quan tâm đến vị trí pháp lý của châm thuật. Y học cổ truyền Trung Quốc bị xếp vào hàng lang băm. Chẳng phải là kỳ dị khi chọc kim vào cơ thể bệnh nhân để làm giảm đau? (trừ trường hợp kim này có chứa thuốc giảm đau tiêm dưới da). Tuy nhiên, các thầy thuốc của nền Y học thay thế và không chính thống lại thiết tha muốn tìm hiểu khả năng của châm thuật, day huyệt và cứu thuật. Khi các châm sư dần dần tạo được tiếng tăm và có nhiều khách hàng, thì giới y học mới bắt đầu ghé mắt đến. Hiệp hội Y khoa Mỹ (American Medical Association) cho rằng châm thuật là kỹ thuật dân gian, không phải là ngành khoa học, chỉ những thầy thuốc nào có bằng mới được phép hành nghề bởi vì chọc kim vào cơ thể là một thủ thuật xâm lấn. Năm 1975, Nevada là tiểu bang đầu tiên thành lập một Hội đồng y học Trung Quốc cấp tiểu bang và buộc các bác sĩ và không phải bác sĩ phải qua một kỳ thi để lấy bằng châm cứu. Mặc dù các tiểu bang khác cũng đã xây dựng quy trình cấp bằng, nhưng vị trí của các nhà châm cứu cũng như các thầy thuốc Trung y lắm khi vẫn còn mù mờ.

TRI THỨC VỀ THUỐC VÀ TIẾT THỰC

Theo Nội Kinh, thì một chế độ ăn cân bằng với hệ thống ngũ hành tương ứng (five fold system of correspondences) sẽ làm tăng cường sức khỏe và tuổi thọ, làm cho cơ thể mạnh lên, tiêu trừ bệnh tật. Những thứ thuốc hàng đầu này có trong thức ăn bao gồm cây cỏ và động vật. Nhưng lý thuyết y học và truyền thống dân gian cũng cho rằng những thứ thức ăn bình thường vô hại lại trở thành nguy hiểm với một số tình huống đặc biệt như thai kỳ chẳng hạn. Lấy ví dụ, nếu thai phụ ăn thịt thỏ, đứa bé khi ra đời sẽ bị câm và thiếu môi trên; ăn thịt con la sẽ gây sinh khó. Các thầy thuốc tiết chế cũng cảnh cáo không ăn thực phẩm đã bị hỏng, thịt đã ôi và hạt đậu đã lên mốc.

Sử dụng trà biểu thị cho sự trùng lặp giữa thực phẩm và thuốc. 6.000 năm qua, người Trung Quốc đã lấy lá trà chế thành một thứ đồ uống. Trà có chứa một lượng nhỏ các dưỡng chất, nhưng lại giàu các alkaloid hoạt tính như caffeine, theobromine, và theophylline. Có lẽ khía cạnh quan trọng nhất về mặt sức khỏe của việc uống trà trong thế giới cổ đại và tại nhiều vùng trên thế giới thậm chí hiện nay, là cách sử dụng nước sôi già. Nói chung, biên giới giữa đơn thuốc và đơn kê chế độ ăn đối với nhiều nền y học cổ truyền đều không rạch ròi như trong Tây y hiện đại. Tuy nhiên, y học hiện đại một lần nữa chú ý đến vai trò của chế độ ăn xem đó như là một phương tiện hỗ trợ để có sức khỏe tốt, dự phòng bệnh tật và sống lâu.

Tầm quan trọng của chế độ ăn được minh họa trong một tài liệu cổ điển đệ trình cho Hoàng đế Mông Cổ nhà Nguyên vào năm 1330 của Hồ Tôn Huy (Hu Szu-hui), vốn là thầy thuốc lo về chế độ ăn của triều đình trên 10 năm. Tài liệu “Những điều trọng yếu và đúng đắn về thức ăn và đồ uống của Hoàng đế” của ông này giải thích các tư tưởng thời xưa của Trung Quốc và Mông Cổ về tầm quan trọng của các chế độ ăn. Đối với các sử gia, quyển sách này đặc biệt chú ý đến các ý tưởng về y học và vệ sinh hơn là các thực đơn. Còn nữa, quả là thú vị khi xét đến cả hai giá trị về y học và nấu ăn của những mục như canh thịt gấu quay và tim cừu luộc. Phần lớn các món ăn là nhằm để tăng khí (ch’i), nhưng một số lại đặc biệt đánh giá cao cho các trường hợp như đau lưng hoặc hồi hộp. Tài liệu cũng nhắc tới những thức ăn làm tăng tuổi thọ, cho lời cảnh cáo đối với một số thức ăn hoặc tương kị giữa các thức ăn, và đặc biệt chú ý đến chế độ ăn đúng cho thai phụ. Các loại thực vật và động vật được phân loại cẩn thận theo các lý thuyết y học về vạn vật tương ứng.

Nếu các biện pháp chế độ ăn chưa đủ, thì thầy thuốc có thể tìm những phương thang trong số nhiều loại thuốc đã biết. Do bản chất của thuốc thường quá mạnh, cho nên các học giả cảnh báo không nên cho đơn hoặc sử dụng thuốc bừa bãi. Tuy nhiên, khi bốc thuốc đúng theo phân lượng, thì thuốc có thể mang lại các hiệu quả ngoạn mục. Có khoảng 5.000 cây cỏ bản địa thường được dùng như thảo dược, và các nhà khoa học hiện đại đang cố gắng phân lập các thành phần hoạt tính từ các phương thang cổ truyền. Để định hướng sự tìm tòi này, họ thường dựa vào Bản Thảo Cương Mục, một công trình nghiên cứu bách khoa về y học, dược học, thực vật học và động vật học do Lý Thời Trân (1518-1593), biên soạn. Được con cháu xuất bản vào năm 1596, công trình vĩ đại của Lý chứa khoảng 2.000 tên thuốc nguồn gốc động vật, cây cỏ và khoáng vật, trên 8.000 đơn thuốc, tài liệu tham khảo liên quan đến trên 900 tài liệu khác, và trên một ngàn minh họa. Ngày nay, các chuyên gia về y học Á châu hy vọng rằng việc sàng lọc và các thử nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt sẽ chứng minh được giá trị của các phương thang thảo dược truyền thống của Trung Quốc. Một ví dụ, là năm 2003, cơ quan quản lý thuốc và dược phẩm của Mỹ (FDA) chấp thuận một thử thuốc giai đoạn II để kiểm chứng hiệu quả của một trong những phương thuốc điều trị ung thư phổi không do tế bào nhỏ.

3 loại thuốc - cây cỏ, động vật, và khoáng vật - được coi là tương ứng cho thiên, địa, nhân. Các tạng của động vật được đánh giá cao như là những chất đem lại “các yếu tố cốt tử” (vital principles), chẳng hạn như gan hổ đem lại can đảm còn thịt rắn thì đem lại sự dẻo dai. Trong số các phương thuốc thông thường được giả định là mang lại tác dụng là bột cá ngựa và rong biển, là nguồn cung cấp nhiều chất Iod và chất sắt, để điều trị bệnh bướu cổ và mệt mỏi kinh niên, còn Ma Hoàng thì dùng cho các bệnh phổi và bệnh hen suyễn. Nhìn chung, người Trung Quốc rất nghi ngờ về các thứ thuốc thần kỳ của nước ngoài, nhưng họ cũng tổ chức các cuộc khảo sát khi nghe rằng thầy thuốc Ấn Độ đã tìm ra một loại thảo dược đem lại sự bất tử. Tuy nhiên, các thầy thuốc Bắc cho rằng nhân sâm cũng có tác dụng như thứ thuốc thần kỳ Ấn Độ. Điều trị bằng thuốc được thể hiện dưới hai hình thức: thầy thuốc có thể nâng cao thể trạng để cơ thể có thể tự vệ và vượt qua được cơn bệnh, hoặc họ có thể trực tiếp tấn công tác nhân gây bệnh. Mục đích đầu tiên của y học Trung Quốc là nhằm nâng thể trạng để cơ thể có thể tự điều hòa và phục hồi được sự cân bằng khí lực bình thường. Sự tôn sùng nhân sâm minh họa phương cách điều trị cổ điển của y học Trung Quốc. Nhân sâm từ lâu được coi là món thuốc bổ, làm cho người trẻ lại và kích dục. Các nhà nghiên cứu hiện đại gọi nhân sâm là thứ thuốc làm tăng khả năng thích ứng, giúp cơ thể chống lại mọi hình thức stress, từ bệnh tật cho đến sự buồn khổ. Lý Thời Trân có mô tả một thử nghiệm thú vị nhằm chứng minh tác dụng của nhân sâm: chọn ra hai người có tầm vóc như nhau, cho một người uống nhân sâm, rồi cho cả hai cùng chạy một quãng đường. Sau khi hoàn tất thử nghiệm, người được uống nhân sâm không mệt, còn người kia hầu như hụt hơi. Người ta cũng sử dụng thử nghiệm này để xác định xem thứ nhân sâm có đúng là nhân sâm thật hay không.

Có đầy rẫy các truyền thống dân gian, nghi thức và huyền thoại liên quan đến việc thu hái và chế biến nhân sâm. Vì lẽ các đồ kim loại sẽ làm hỏng các tính chất của củ nhân sâm, cho nên người ta chỉ dùng dao bằng gỗ và đồ sành khi chế biến thảo dược này. Người ta đồn rằng nhân sâm hoang dại mang vẻ sáng lấp lánh và ban đêm sẽ giả dạng thành một con chim hoặc một em bé để dụ dỗ và làm cho những người tìm nhân sâm mất mạng. Các vị Hoàng đế Trung Quốc độc quyền khai thác nhân sâm, cử quan lại coi sóc việc này, và dành những củ tốt nhất cho riêng mình.

Các tài liệu cổ điển mô tả nhân sâm là thuốc bổ cho ngũ tạng: nó làm thông tim, làm giảm đi sự sợ hãi, khu trừ các khí độc, làm cho dễ thông suốt, bồi bổ cơ thể, kéo dài cuộc sống. Nhân sâm được chỉ định trong các toa thuốc trị bệnh mỏi mệt, thiếu máu, mất ngủ, đau khớp, rối loạn các dây thần kinh, bệnh phổi, và dạ dày, bất lực, ho lao và nhiều bệnh khác nữa. Đôi khi nhân sâm được bán làm thuốc kích dục. Các thầy thuốc thảo dược cho rằng nhân sâm làm tăng sức bền và thậm chí còn giúp các cụ ông tăng khả năng làm cha, ngoài ra nó còn có tác dụng làm giảm rụng tóc, bạc tóc, nhăn da và trổ đồi mồi.

Dược liệu cũng bao gồm những thứ thuốc kỳ cục - ví dụ như kỳ nhông, da lừa, nước tiểu, các bộ phận trong cơ thể con người và các sản phẩm do con người tiết ra. Xương người là một trong các vị thuốc để điều trị bệnh giang mai. Theo một bài văn của một thầy thuốc đời nhà Minh là Uông Cơ (Wang Ji)(1463-1539), là một phương sĩ cho rằng có thể chữa được bệnh giang mai bằng một bài thuốc có chứa xương của nhũ nhi chết. Đem rang xương lên, lấy tro nghiền ra thành bột và trộn với rượu. Người bệnh nên uống thứ thuốc này vào lúc bụng đói. Uông Cơ không đồng ý và cho rằng bài thuốc sẽ có tác dụng quá mạnh khi đem xương rang lên trong lửa. Tuy vậy, các thầy thuốc khác không nhất trí sử dụng xương người làm thuốc vì lẽ việc này không phù hợp với vai trò của y học là “nghệ thuật của lòng nhân từ”. Chủng ngừa bệnh đậu mùa cũng có thể được coi như là “thuốc làm từ con người”. Để phòng vệ tránh 40 dạng của “bệnh thiên hoa”, các thầy thuốc lấy vảy mủ của những ca đậu mùa nhẹ. Sau đó người ta tán vảy này thành bột để thổi vào mũi, đàn ông thì thổi vào lỗ mũi bên trái, còn đàn bà lỗ bên phải.

Các nhà giả kim Trung Quốc có một cách tiếp cận rất khác với với sức khỏe và tuổi thọ con người. Giả kim thuật thường dựng lên hình ảnh huyền bí và các tay lang băm thử biến chì thành vàng tuy không thành công. Tuy nhiên, các nhà giả kim cũng tham gia tìm kiếm thứ thuốc trường sinh. Trong một thái cực nào đó, thì nhà giả kim Trung Quốc bị ám ảnh nhiều đến khía cạnh lý thuyết của việc luyện vàng (và làm vàng giả) và “dưỡng sinh”, tức là sự tìm tòi những bài thuốc giải quyết được sự bất tử và an lạc. Cát Hồng (khoảng năm 300), là một nhà giả kim lỗi lạc, tín đồ Đạo giáo, thầy thuốc, dạy rằng những thứ linh đan nhẹ có thể bảo vệ khỏi ma quỷ, thú hoang và các bệnh tiêu hóa. Những thứ linh đan mạnh hơn có thể làm người vừa chết sống lại, còn những thứ thượng thừa có tác dụng bất tử.

PHẪU THUẬT

Không giống như Ấn Độ, phẫu thuật nói chung thường nằm ngoài phạm vi của y học hàn lâm, tinh túy của Trung Quốc. Có thể là do không muốn xâm phạm thi thể cũng như thiếu một khoa giải phẫu học dựa trên sự mổ xác đã ức chế sự phát triển môn phẫu thuật tại Trung Quốc, nhưng những trở ngại như thế không phải là không vượt qua được. Thật vậy, môn pháp y đã đạt đến một trình độ cao tại Trung Quốc như được trình bày trong một tác phẩm có tên gọi “Tẩy Oan Tập Lục” (1247), vốn được coi như là luận văn đầu tiên trên thế giới bàn về pháp y.

Khi phải đối đầu với thực tế là không xây dựng được một truyền thống ngoại khoa riêng biệt, các học giả Trung Quốc biện giải rằng do y học dự phòng và trị liệu đã có hiệu quả cho nên không cần phải can thiệp phẫu thuật. Tuy nhiên, lịch sử Trung Quốc cũng đưa ra bằng chứng cho thấy các thầy thuốc đã thực hiện các phẫu thuật ngoạn mục. Mối giao tiếp giữa Trung Quốc và Ấn Độ khi đạo Phật được truyền vào Trung Quốc có lẽ là nguồn gốc của những câu chuyện này mặc dù không dẫn tới sự kết hợp phẫu thuật vào các truyền thống y học cổ điển Trung Quốc.

Phẫu thuật gia Trung Quốc nổi tiếng nhất, Hoa Đà (khoảng 145-208), được coi là có công tìm ra các thuốc gây mê/gây tê, thuốc tắm, thủy liệu pháp, và thể dục y học. Là bậc thầy về châm cứu và nhà chẩn đoán bệnh xuất sắc, Hoa Đà được đồn là có thể chữa chứng nhức nửa đầu chỉ bằng một kim châm cứu. Một trong những ca bệnh bất thường nhất của vị danh y này là một bệnh nhân có một khối u gây đau đớn nằm giữa hai mắt. Khi Hoa Đà khéo léo rạch khối u, có một con chim Hoàng yến bay vụt ra từ nơi này và bệnh nhân sau đó hết đau hẳn. Mặc dù khối u có chứa chim yến có thể là hiếm gặp trong y học, nhưng nhức đầu và đau mạn tính thì ngược lại, và Hoa Đà thường chữa những chứng này bằng châm cứu. Rủi thay khi được Thừa tướng Tào Tháo mời tới để chữa chứng nhức đầu kinh niên, Hoa Đà lại đề nghị cách khoan sọ. Nghi ngờ rằng phẫu thuật quyết liệt này nằm trong một âm mưu ám sát, Tào Tháo ra lệnh xử trảm Hoa Đà. Không thể đưa lén các tài liệu y học ra khỏi ngục được, cho nên Hoa Đà đành mang theo xuống âm phủ những bí quyết mà mình khám phá. Những bí quyết của Hoa Đà bị thất lạc có khả năng là các thuốc xoa có tác dụng ngăn ngừa và chữa trị nhiễm trùng cũng như các thuốc gây mê/gây tê thần kỳ.

Theo truyền thống, trong tất cả các phẫu thuật do Hoa Đà sáng tạo, chỉ còn một vỏn vẹn một kỹ thuật được lưu truyền và áp dụng khá rộng rãi đó là thiến. Kỹ thuật này dành cho bọn hoạn quan phục vụ trong cung đình. Mặc dù có vẻ thô thiển nhưng các mô tả của kỹ thuật này khi được thực hiện năm 1929 cho thấy đa số người bị thiến đều lành hẳn trong vòng 100 ngày, mặc dù có khoảng 2% tử vong do chảy máu hoặc nhiễm trùng.

KHỐI CÁC NƯỚC THUỘC VĂN MINH HOA HẠ

Mặc dù các quốc gia lân cận Trung Quốc chịu ảnh hưởng nặng về triết lý y học Trung Quốc, nhưng chiều hướng trao đổi đôi khi còn mù mờ. Mỗi xứ nằm trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc đưa ra các huyền thoại khác nhau về các truyền thống y học có những điểm chung. Lấy ví dụ, tại Triều Tiên, người ta cho rằng chính Tan Gun, quốc tổ huyền thoại của nước này, là người sáng tạo ra cách cứu và thạch châm. Nhiều dược chất được đem từ Triều Tiên vào Trung Quốc trước khi Triều Tiên đưa y học Trung Quốc sang Nhật Bản. Do vị trí địa lý của Triều Tiên, lịch sử y học tại bán đảo này có liên hệ chặt chẽ với sự phát triển tại Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia châu Á khác. Trong thời Tam quốc của Triều Tiên (năm 37 trước CN -935 CN), các học giả đưa hệ thống chữ Hán vào ngôn ngữ xứ này. Năm 372 được coi là thời điểm đạo Phật du nhập vào Triều Tiên, khi một nhà sư đem kinh và tượng Phật vào đây. Sau khi chấp nhận đạo Phật đến từ Trung Quốc, các nhà sư và học giả Triều Tiên du hành sang Trung Quốc và Ấn Độ để tìm sự giác ngộ sâu rộng hơn. Đạo Phật đóng vai trò nổi trội trong các mối tương tác giữa Triều Tiên và Nhật Bản. Các tài liệu lịch sử còn lưu lại cho thấy rằng các vi trùng lây bệnh cũng như các di vật tôn giáo đã có vai trò trong những giao dịch này.

Các thầy thuốc Triều Tiên chịu nhiều ảnh hưởng của triết lý y khoa Trung Quốc, và họ sử dụng các thuật ngữ y học Trung Quốc để mô tả bệnh tật, nhưng họ cũng diễn giải các văn bản của Trung Quốc sao cho phù hợp với các điều kiện địa phương và đồng thời cũng bổ sung thông tin mà họ học được của người Ấn. Các bàn luận về bệnh tật về mặt học thuật thường đi theo các nguyên tắc của y văn Trung Quốc, nhưng việc nghiên cứu các phương thang truyền thống của người Triều Tiên đã tạo điều kiện hình thành một nền tảng học thuật y học độc lập trong đó thừa nhận tầm quan trọng của điều kiện bản địa. Trong những tài liệu đó có bộ sách Hương Dược Cứu Cấp Phương (Hiang Yak Ku Kup Bang) (1236), bộ toàn thư y học có tên Hương Dược Tập Thành Phương (Hiang Yak Jip Seong Bang) (1433) và Đông Y Bảo Giám (Dong ui bo gam) (1610).

Các bài thuốc cấp cứu dân gian chủ yếu đề cập đến việc sử dụng các thuốc bản địa, nhưng cũng mô tả triệu chứng của nhiều bệnh và các phương pháp điều trị theo y học cổ điển Trung Quốc. Những cấp cứu y học được nói trong sách gồm có ngộ độc thực phẩm, vết đốt do các côn trùng có độc và vết cắn do động vật hoang dã, đột quỵ, ác mộng, ngạt nước, té ngã, chứng nghiện rượu, động kinh, ngất, xuất huyết, chảy máu trong và nhiều thứ nữa. Tài liệu cũng mô tả các triệu chứng của bệnh sốt rét, thứ sốt ba ngày mà khắp cả vùng ai cũng phải sợ, và cách điều trị bằng các loại thuốc địa phương.

Các tài liệu Trung Quốc cũng cho rằng mối là giao thương trực tiếp hoặc gián tiếp với Ấn Độ, La Mã và Ả Rập chính là các cơ hội rất sớm làm lây lan bệnh đậu mùa và các bệnh khác. Bộ sách Khuôn mẫu y học Triều Tiên ghi nhận rằng bệnh đậu mùa được đưa từ vùng Trung Á vào miền bắc Trung Quốc qua các bộ tộc Hung Nô vào thời điểm nhà Hán thay nhà Chu. Bệnh đậu mùa có lẽ cũng đã được đưa từ Trung Quốc vào Triều Tiên vào cuối thế kỷ thứ 6 và sau đó được truyền từ Triều Tiên sang Nhật Bản.

Một hình thức tranh cãi khác về mối liên hệ của Trung Quốc với thế giới phương Tây được Gavin Menzies đề xướng đó là các nhà thám hiểm thời nhà Minh do Trịnh Hòa dẫn đầu, đã phát hiện ra châu Mỹ vào năm 1421. Năm 1405, Trịnh Hòa dẫn đầu một hạm đội lớn mở màn chuyến hải hành đầu tiên trong 7 đợt thám hiểm. Trong khoảng thời gian từ 1405-1433, Trịnh Hòa được cho là đã đưa hạm đội đến những nơi xa xôi như Sumatra, Ấn Độ, Sri lanka, Somalia, Kenya và châu Mỹ. Phần lớn các học giả tin rằng các nhà thám hiểm Trung Quốc thực sự đã mang về những câu chuyện về một thế giới xa lạ nằm ngoài ảnh hưởng Trung Quốc, nhưng các vua chúa Trung Quốc rõ ràng là đã nhận định rằng những thứ mà thế giới bên ngoài đem lại đều không có giá trị. Theo Menzies, tác giả quyển “Năm 1421: năm mà người Trung Hoa phát hiện châu Mỹ”, trở nên nổi tiếng vì cho rằng Trịnh Hòa phát hiện ra châu Mỹ trước Columbus. Tác giả này cũng lập luận rằng bằng chứng DNA khẳng định luận cứ của mình. Theo Menzies, một số thủy thủ người Tàu và vợ của họ trong đoàn tùy tùng Trịnh Hòa, đã ở lại lập nghiệp tại châu Mỹ, và sinh con đẻ cái với người bản địa.

THỰC HÀNH Y HỌC TẠI TRUNG QUỐC NGÀY NAY

Khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, Chủ tịch Mao

Trạch Đông (1893-1976) tuyên bố rằng nền y học và dược học cổ truyền Trung Quốc là một kho báu lớn phải được tìm học và nâng cao. Mao ra lời kêu gọi sử dụng cả các thầy thuốc Tây y lẫn Đông y là một đáp ứng thực tiễn cần phải gấp rút có đủ lực lượng cán bộ y tế để phục vụ 540 triệu dân, vốn đang sống trong hoàn cảnh bần cùng tại thôn quê thiếu nền y tế công cộng, vệ sinh và cơ sở chữa bệnh. Hoàn cảnh khó khăn đã buộc Trung Quốc đưa ra một thử nghiệm có một không hai trong việc kết hợp quá khứ với hiện tại, đông với tây. Việc phục hồi y học cổ truyền được phát động trong thời kỳ Đại nhảy vọt (1958-1960), thịnh hành trong Cách mạng văn hóa (1966-1969), và đạt đỉnh cao nhất vào cuối thời kỳ điên cuồng về ý thức hệ này.

Hệ thống y tế Trung Quốc tập trung vào việc giải quyết những bệnh mạn tính và bệnh thông thường, các nội dung y tế công cộng, và thanh toán các bệnh lưu hành chính. Khẩu hiệu của hệ thống y tế Trung Quốc là “Tận diệt 4 loại ôn dịch”. 4 loại ôn dịch chính là chuột, ruồi, muỗi và chim sẻ. Gián, bọ chét, rận, rệp, ốc và chuột cũng được đưa vào tầm ngắm, nhưng không đưa vào khẩu hiệu vì sợ bị loãng.

Trong những năm 1980, Trung Quốc đã xây dựng được một hệ thống y tế được coi như là khuôn mẫu cho các nước đang phát triển. Các chỉ số sức khỏe tại Thượng Hải năm 1980, như tỷ lệ tử vong trẻ nhỏ hơn một tuổi và kỳ vọng sống tính từ lúc mới sinh, cũng tương đương như của thành phố New York. Các du khách phương Tây bị ấn tượng bởi các thử nghiệm của Trung Quốc về giáo dục y khoa và việc cơ cấu lại việc thực hành y học trong đó đòi hỏi người bác sĩ phải chia sẻ trách nhiệm chẩn đoán và điều trị với lực lượng phụ tá không chính quy, ngoài ngành, vừa mới được cho phép tham gia khám chữa bệnh. Y học dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu cơ bản được giao cho đội ngũ các “thầy thuốc chân đất”, cô mụ và điều dưỡng. Phạm vi hành nghề chính của họ là thuốc cây cỏ, châm cứu, phép cứu, nhưng các thầy thuốc y học cổ truyền cũng học thêm về vi sinh và dược học. Trong các trường dạy Tây y của Trung Quốc cũng có môn Y học cổ truyền.

Sự phát triển của môn gây tê châm cứu được cổ xuý tại Trung Quốc như là một bước đại nhảy vọt khác. Dựa trên tư tưởng của Mao Chủ tịch, các nhân viên bệnh viện tự hỏi liệu có thể đem tác dụng giảm đau của châm cứu vốn được sử dụng để giải quyết các chứng đau sau phẫu thuật để thay thế cho các hóa chất gây mê/gây tê trong phẫu thuật hay không. Ngay cả tại Trung Quốc, tuy còn có lắm hoài nghi về khả năng gây mê/ gây tê bằng châm cứu, nhưng trong những năm 1960, có khoảng 60% các trường hợp phẫu thuật được gây mê/gây tê bằng kỹ thuật này. Các thầy thuốc châm cứu hiện đại lý luận rằng, không giống như gây tê bằng hóa chất, châm thuật cho phép cơ thể huy động mọi cơ chế phòng vệ, trong lúc vẫn duy trì các chức năng sinh lý bình thường.

Tuy châm thuật và việc sử dụng cây cỏ làm thuốc được quan tâm trở lại nhưng nền tảng lý thuyết của y học cổ truyền lại không được chú ý đúng mức. Khi bị tách rời khỏi cơ sở lý thuyết, nền y học Trung Quốc chỉ là một mớ hổ lốn các phương thang dựa theo kinh nghiệm hơn là một hệ thống triết học tinh tế có khả năng đưa ra sự chỉ đạo và gây hứng khởi cho bệnh nhân lẫn thầy thuốc. Tuy nhiên, nền triết học và y học Trung Quốc đã luôn chứng tỏ có nhiều khả năng trong việc thích nghi và tổng hợp. Trung Quốc là một nền văn minh sống động, trong đó các nghệ thuật truyền thống đều gắn kết chặt chẽ với các đối tác hiện đại. Có lẽ các tư tưởng của cả Hoàng đế lẫn Mao Chủ tịch đều sẽ được gộp lại thành một sự tổng hợp mới, phản ánh được mục đích của ba vị Thiên đế nhằm hoàn chỉnh nền y học Trung Quốc thành một nguồn an thần, sức khỏe, sức mạnh và trường thọ.