Khúc Sáo Du Dương
THÔI, phu-nhân! Chuyện cũ đã qua; bây giờ đôi ta không nên gợi đống tro tàn làm chi, thêm đau lòng, bận trí. Ta với phu nhân, chẳng qua là hai kẻ đã có nghiệt duyên từ thủa trước, vì thế nên phải cùng nhau chung chạ, ngỏ hầu trả nợ cho nhau. Ta đã vì phu nhân chịu lắm nỗi đau buồn; phu nhân, trái lại, đã vì ta, nhai nuốt muôn ngàn khỗ nhục. Ôi! mệnh số như vậy, biết làm thế nào! Phu- nhân chớ nên trách ta, cũng như ta vui lòng tha thứ cho phu nhân.
‘‘Ngày nay đây là thời khắc cuối cùng chúng ta cùng nhau sum họp. Rồi đây phu nhân sẽ ở lại chung đụng với cõi đời ô trọc, ta đây, ta đã chán cả mọi sự, ta sẽ cùng non nước bạn bầu. Đến sáng mai, ta sẽ cùng phu nhân vĩnh quyết; phu nhân chớ khá buồn rầu khóc lóc, phải chiều lòng ta trong phút cuối cùng này. Nào! phu nhân còn chuyện cũ nào nữa, kỷ niệm quan hệ nào nữa, thì nên kể lại ta nghe, kẻo ngày mai... ngày mai… nếu ta trông thấy phu nhân, ta sẽ lãnh đạm, ơ hờ, chẳng khác gì chàng Tiêu khi đi trên đường vậỵ!’’.
Trên gối thêu loan gọi phụng, Hàn phu nhân ngồi chống tay, im lặng, cúi đầu. Hàn Thái công nói xong, cũng ngồi điềm nhiên nhìn ra vườn hạnh trước nhà, thẫn thờ không nói nữa.
Đã từ mấy chục năm nay, hai vợ chồng họ Hàn sống trong một cảnh bất hòa khó chịu, cảnh buồn bã ấy lại càng thêm buồn bã, bởi lẽ hai tấm thân già đều chịu lẻ loi, cô độc: trong gia đình không có đứa con nào. Năm qua… rồi năm lại qua... Hàn Thái công thấy tóc trên đầu dầy nhuộm vẻ tuyết sương, mà mối hi vọng có con nối nghiệp tổ tiên, nó theo ngày tháng phôi pha chốc đã hóa thành huyễn mộng... Sống mãi cuộc đời vô vị. Thái công thấy tâm hồn mỏi mệt, ông quyết tình đoạn tuyệt với gia đình, ông ra đi. Nhưng ra đi, nào biết về đâu! Tấm thân hèn yếu, già nua, nếu muốn quên hẳn cuộc vật lộn hằng ngày để cùng non nước tiêu dao, chỉ có cách là đến nương nhờ cửa Phật,
Thái công đi tu.
Còn phu nhân? Phu nhân vẫn ngồi yên lặng, tai nghe chồng ôn tồn nói mấy nhời vĩnh quyết, đôi mắt cứ đăm đăm nhìn ra quãng không gian mù mịt như muốn nhận rõ trong dĩ vãng những nỗi vui mừng, đau khổ tự bao giờ.
Mới ngày não! Bên gối huyên đường còn tráng kiện, phu nhân chưa từng biết đến nghĩa cuộc đời. Phu nhân còn con gái. Mới ngày nào, ngây thơ sống trong một hoàn cảnh êm đềm sung suớng, tiểu thư nhà họ Lưu chỉ biết đua cười cùng thị nữ dưới những gốc mai, nặng trĩu hoa tươi trắng xóa, hoặc nhởn nhơ lên lầu Vọng nguyệt điểm trang xuân sắc rồi thẫn thờ thổi khúc Xuân tiêu!... Ôi! ngày trong sáng ấy nay là đâu!
Thấm thoát, dưới mái tóc huê râm, ba mươi năm đã để lại một kỷ niệm buồn rầu khôn tả! Từ thủa tấm vải hồng che mặt, chiếc quạt lượt cầm tay, phu nhân lên kiệu về nhà chồng, lần lữa mãi tới ngày nay, phu nhân đã sống cùng Thái công một quãng đời vô lý. Vô lý, vì hai vợ chồng không khi nào hiểu rõ tâm hồn nhau cả: phu nhân vốn là gái xuất thân ở cửa giầu sang danh giá, mà Thái công trái lại, chỉ là con một nhà trọc phú trong vùng.
Bố mẹ phu nhân, bởi tham vàng, đã đầy đọa phu nhân vào một chỗ tẻ buồn, xa lạ, ép phu nhân về làm dâu một gia đình mà qui củ, phong tục, khác hẳn với nơi tổ ấm áp đã dung thời niên thiếu của phu nhân. Dù sao, Hàn phu nhân cũng dằn lòng chịu số, không hề oán hậnđiều gì. Khốn nỗi số mệnh kia lại ác nghiệt quá chừng, hiếp phu nhân phải nhai nuốt những thương tâm vô hạn! Ăn ở cùng Thái công mười năm trời đằng đẵng, phu nhân mới sinh được một mụn con trai tuấn tú; cái nhẽ đã khiến bà kiên nhẫn chịu đựng hết các sự hành hình khốc liệt của nhà chồng. Thế mà ông Trời kia nỡ độc địa, bất lương, trong khoảng khắc, cướp mất đứa con thơ của bà yêu dấu! Từ đó, cuộc đời đối với phu nhân không còn ý nghĩa gì nữa. những nỗi nhục nhằn, cơ cực Hàn Thái công bắt phu nhân phải chịu, chúng nó cũng chỉ là hòn bụi, khi so gần sự đau đớn mà phu nhân hoài bão trong lòng. Tấm thân trơ trọi, quá thì, còn biết trông cậy vào ai, nếu người con độc nhất và hết sức âu yếm của phu nhân, giờ đây, đã không còn nữa?
Vì sao Hàn phu nhân bị cả một đời cay đắng? Vì sao Hàn Thái công không bao giờ hiểu cho tâm hồn trong sạch của vợ hiền? Nào có sự gì quan hệ lắm đâu, chỉ tại Thái công là một kẻ không có hồn Nghệ sĩ. Thái công chỉ biết trông coi những việc ruộng nương, nhà cửa, nai lưng gắng sức cả đời để bảo tồn lấy cơ nghiệp ông cha để lại, không bao giờ sao nhẵng, đơn sai. Thái công chăm nom việc thu lúa, thu tiền; ông cho sự làm giàu là điều cần thiết nhất trong đời người nam tử, Từ thủa bé, ông đã quen nghề tính toán, quen sự giao thiệp với các dân làng cày bừa cấy gặt cho ông, ông chỉ ngày đêm ngắm xem trời đất có thuận hòa hay không, và vụ mùa màng nào không bị thiệt, ông lại tính giá thóc cao, gạo hạ, để bán đi cho không bị hớ đồng nào. ông giữ gìn như gia phả những văn tự cho vay và sổ sách bán buôn thóc lúa. Nói tóm lại, ông đủ tư cách một nhà trọc phú biết giữ lợi quyền mình và săn sóc tới cửa nhà.
Trái lại, Hàn phu nhân là một kẻ có tâm hồn chứa đầy mỹ cảm. Ngày còn con gái, phu nhân làm thơ có tiếng, vẽ thủy mạc có tài. Phu-nhân lại đàn giỏi, hát hay, múa kiếm bắn cung hơn cả một người anh tuấn. Thế mà từ ngày xuất giá, dịch không được thổi một khúc, đàn không được bấm một cung, thơ văn cũng bỏ xó xếp đi, đến hát xướng, thì không hề có phút thảnh thơi để lên giọng nỉ non một điệu. Bao nhiêu vê tài hoa phong nhã, bên cạnh một anh chồng hủ lậu, Hàn phu nhân đành chôn cả trong lòng. Bởi lẽ Hàn Thái công rất ghét thú cầm thi, cho tài tử là những kẻ ‘‘xướng ca vô lại’’.
Con trai phu nhân sinh thời là một hạng thiếu niên có khiếu thông minh, có hồn nghệ sĩ, Hàn công tử vốn ưa ca nhạc, thi văn. Những tính tình cao quí của bà mẹ tựa như truyền cả lại cho công tử, Vì thế? Công tử bị phụ thân ghét cay ghét đắng, luôn luôn mắng chửi là thẳng con bất hiếu? Vô nghì. Đến khi công tử bị nạn thiệt mình, Thái công cũng không thèm thương tiếc. Bởi lúc đó, trong người Thái công còn tráng kiện, ông tự cho mình còn dư sức đúc ra vài đứa con trai.
Ai ngờ đâu hầu non thiếp trẻ đầy nhà, mà từ đấy, Thái công không làm sao kiếm đươc mụn con nào nữa! Trở về già, ông mới đâm ra buồn rầu, chán nản, hận rằng Trời bắt ông cụt đường tử túc, không cho dòng họ Hàn truyền mãi đến đời sau. Tuy giận mình hiếm hoi, cô quả, ông vẫn không tiếc người con trai vô phúc bất hạnh đi. Ông ghét công tử thậm tệ, ghét cả lúc sống lẫn lúc chết. Vì ông liệt cậu vào hạng người không đủ tư cáchh bảo tồn lấy danh dự và tài sản nhà họ Hán.
Mãi tới khi trên đầu tóc đã pha sương, Thái công mới thấy đau khổ vì nỗi lẻ loi, cô trích. Gia dĩ vài ba việc kiện tụng, sau này, lại làm hao tổn của ông mất hơn một nửa gia tài. Ông hiểu rằng những hành tung bình nhật của ông đều là vô ích, bởi lẽ khi chết đi không ai nối dõi; mà sự giầu sang ông đã tạo, nó mập mờ như bóng phù vân tan hợp, nó đợi khi ông đã rõ hết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, tiêu hết bao nhiêu nghị lực tâm cơ, bấy giờ nó mới xách nón ra đi khiến cho tất cả công trình xây đắp của ông, phút chốc, hóa thành vô dụng cả. Thái công tiếc rằng trong thủa tráng cường, ông không biết hưởng những thú ăn chơi sung sướng, cứ mải mê bon chen nhặt nhạnh những gì gì. Bây giờ ông đã đầu bạc răng long, còn đâu sức để đua vui được nữa!
Không muốn lúc xuống lỗ phải mang tiếng là một phú ông cả đời bủn xỉn, sợ rằng sang cõi thế bên kia sẽ phải tội cho vay nặng lãi, ức những kẻ nghèo hèn để chiếm đoạt lấy sản nghiệp của người ta, nghĩ rằng dấn vốn có để lại cũng chỉ tổ làm cho lũ quan trường dòm dỏ, tìm cơ hội có đơn kiện tụng để bắt đút Iót cho nhiều, Hàn Thái-công, khi tuổi già đã làm cho tỉnh ngộ, bèn để lại một nửa gia tài cho thê thiếp, còn một nửa đem bố thí cho người nghèo và dựng một ngôi chùa, Rồi ông quyết định bỏ nhà đi thế phát.
Ồng đi tu, trước là để giũ sạch bụi trần nhơ nhớp, sau là để linh hồn được an nhàn tĩnh dưỡng sau bốn mươi năm quá mỏi mệt, ưu tư. Vả lại, Thái công không muốn ở gần phu nhân nửa ; hai vợ chồng già, đã không hiểu nhau, thì càng hay làm cho cảnh gia đình thêm lắm nỗi bất bình. Kể ra, ông rất kính trọng phu nhân bởi phu nhân xuất thân ở một nhà quyền quí; nhưng sở dĩ ông ghét bà, chỉ tại bà tựa hồ có ý khinh ông sinh trưởng ở nơi hèn hạ, chỉ tại bà muốn lấy văn chương, mỹ thuật làm cho ông phải bẽ mặt trước lũ tiểu thiếp nô tỳ. Ông cấm không cho đàn ca hoặc giở trò thi phú trong nhà, chỉ cốt để tránh mặt khỏi mang tiếng là một kẻ ‘‘ù-ù cạc-cạc’’; ông không muốn bị người ngoài khinh miệt và phỉ báng ông là một người thất học, ngu đần, Thái-công vốn sống trong cảnh bình dân, nên hay ghét những người quí phái, tuy rằng ông bản tâm rất muốn kết giao cùng các nhà quyền quí, thượng lưu. Thực tình, ông không ghét gì văn thơ hay âm nhạc, ông làm ra bộ ghét những văn nhân, tài tử, chẳng qua để khỏi mất sĩ diện đấy thôi. Thành ra lâu dần sự giả ghét kia hóa ra một thói quen, một thói xấu, khiến Hàn phu nhân, từ lúc về nhà chồng, không được một khắc nào đẹp dạ.
Nhưng thôi..Các chuyện ấy đều là chuyện cũ; ngày mai đây, Thái công biệt hẳn phu nhân để ngao du sơn thủy một mình. Trong lúc tứ hải ngũ hồ, nếu ông tìm được một ngôi chùa vừa ý, ông sẽ vào tu ở đấy. Chí đã quyết định, hai vợ chồng thiết tiệc giã từ nhau. Tiệc tàn, Thái công nói mấy lời an ủy và xin lỗi phu nhân; phu nhân rầu rầu không đáp. Mãi sau cùng, khi vẻ yên lặng đã quá nặng nề, đau đớn, bà mới ngẩng mặt, lau những ngấn lệ còn lóng lánh dưới mi mắt răn reo, vái Thái công hai vái.
- Vâng, phu quân đi! Thiếp chỉ hận rằng không được thờ phu quân đến kỳ cùng cho trọn nghĩa tào khang, và từ đây trở đi, thân già này sẽ không biết vào ai nương tựa! Một đời theo hầu bên gối phu quân, tuy thiếp bị muôn ngàn cay đắng, thiếp không khi nào dám oán hận phu quân, Thiếp chỉ đau đớn vì nỗi Trời không thương hại đến đứa con trai của thiếp, cướp mất nó đi, để cho thiếp bị lẻ loi, khốn nạn, thằng bé thông minh tuấn tú biết chừng nào, lại có khiếu tài hoa trọn vẹn! Nó đủ tư chất một đứa con nhà quí phái như thiếp, có thể làm vẻ vang rạng rở gia tộc của phu quân, tiếc thay!
- Vẻ quí phái nhà bà, bà hãy xếp đi, chả thế phiệt trâm anh thì chớ! Chúng tôi đây con nhà hạ tiện làm ăn, không cần gì đến một đứa con chỉ biết ăn chơi lêu lỏng! Ngày nay là ngày cuối cùng tôi sống bên cạnh bà, bà đừng nhắc đến đứa con bất hiếu ấy làm gì nữa! Nó chết đi là phúc cho nhà tôi đó!
- Phu quân đã già rồi sao còn ác khẩu thế? Nó chả ra gì cũng là máu mủ của ông! Nào thiếp có đem phô trương sự cao quí của dòng dõi thiếp để làm nhục phu quân đâu, sao mà phu quân lại cứ ghen ghét những kẻ tài hoa như vậy!
- Tôi chả ghen ghét ai cả. Một đời tôi, tôi không làm bài thơ nào, ngâm câu văn nào, nghe điệu hát nào, gảy khúc đàn nào, tôi cũng vẫn sống; phu nhân có biết những sự phù phiếm đó, thử hỏi bà có sống sung sướng gì hơn tôi không? Thôi thôi, đừng nói nữa làm gì! Phu nhân chớ để tôi giận dữ trong lúc đôi ta phải hòa thuận một đêm, để ngày mai sẽ quyết biệt nhau mãi mãi…
Hàn phu nhân úp mặt vào tay, không đáp nữa. Phu nhân không khóc, cũng không buồn. Cả đời bà, bà buồn khóc đã nhiều rồi; ngày mai là ngày bà sẽ được tự do sống nốt tuổi già theo như ý chí của bà, không bị ai đè nén nữa, bà cố sức nén hết những nỗi sầu vô lý, để vui mừng một khắc, đón thời sung sướng sắp sang. Hàn Thái công cùng ngồi lẳng lặng vuốt râu, để mặc phu nhân trầm ngâm tĩnh dưỡng.
Một vẻ im lặng, nửa nặng nề, nửa êm ái, bao bọc lấy hai vợ chồng già. Ngoài hiên, tí tách, một trận mưa rơi nặng hạt. Thỉnh thoảng làn gió ào ào vụt lọt qua khe cửa làm rung ngọn đèn pha lê sáng rực thắp trong phòng.
Bỗng, một con thị nữ tiến vào, chắp tay cung kính:
- Thưa Thái công và phu nhân! có một người khách lạ, ăn mặc rách rưới, trông bộ đói khát, xin vào ngủ nhờ một tối và ngỏ ý muốn lên hầu bái yết Thái công Phu nhân.
Thái công lầm bầm gật đầu; khi thị nữ nói xong, ông cho phép người khách được lên yết kiến. Phu nhân định đứng dậy đi vào tư thất, chưa kịp vào thì người khách lạ kia đã tới gần thi lễ, Thái công bảo phu nhân nán lại, rồi mời khách ngồi trên ghế ỷ, hỏi thăm lai lịch và thân thế của chàng, Viễn khách người gầy như que củi, mặt mũi hốc hác như ở dưới lỗ mới lên. Ăn mặc rách rưới như ăn mày, đầu tóc lại rối beng như mớ bòng bong vò nát. Trông vẻ ngoài, ai cũng phải ghê sợ, ghê sợ nhất là đôi mắt hắn ta đen nháy, sắc như dao, sáng như điện, chiếu ra một luồng nhỡn tuyến rất tinh anh, Nhưng bộ đíệu hắn rất khoan hóa nhã nhặn, tỏ cho ta biết, tuy thân hình tiều tụy, khách không phải là một người bần tiện tầm thường. Cúi vái hai ông bà họ Hàn rất trịnh trọng, lễ phép, khách ngồi lên ỷ, chắp tay kể lại chuyện mình.
- Tiểu tử là một kẻ nhỡ bước…lạc đường, vì không có chỗ nào tá túc ban đêm, phải đánh bạo vào đây quấy quả Gia gia và Thái thái. Nghe nói Lão gia nay mai sắp sửa qui y, nên dám chắc Lão gia sẽ rộng lượng cho ngủ nhờ một tối. Xin cho tiểu tử ngủ ở đầu hè, xó cửa, hoặc cùng lắm, ở ngoài chuồng ngựa, chỗ nào con cũng vừa lòng. Đã bốn hôm nay, con không có hột cơm nào trong ruột, đói rét quá hóa nên run cả chân tay, mặt tái đi không còn máu. Con đến đâu, ai cũng sợ, không dám cho vào ngủ đậu: trông thân hình con họ chết khiếp đi rồi! Thực ra, tuy là kẻ khốn cùng, không khi nào con từng có một cử chỉ hành hung gì bần tiện hay gian giảo. Nếu không nghe nói là cửa Lão gia là một cửa có thể dung thân được, thì quyết hẳn đêm nay con cam chết rét ở ngoài đường! Đây này, quần áo con ướt đẫm hết rồi, con đã đi năm dặm dưới làn gió lạnh lùng và dưới trời mưa rà rích. Con ở xa đi lại. May sao được hạnh phúc Lão gia và phu nhân thương đến cho vào bái kiến, không thì nội đêm nay con ắt sẽ hóa ra ma. Con chỉ xin Lão gia một bát cơm thừa, một manh chiếu rách không dám quấy quả gì nữa! Thương hại thay cho con, xưa kia, cũng là một trang thiếu niên xuất thân ở nơi kim các, ngọc đài!
Người ăn mày nói đến đấy thì thở dài, không nói nữa. Anh ta run lên lẩy bẩy, hai hàm răng cầm cập đập vào nhau. Nghe lời nói cuối cùng của hắn,Hàn Thái công như đắc ý, gật đầu, rồi quay nhìn phu nhân mỉm cười như chế nhạo. Phu nhân hiểu rõ nụ cười ấy.
Thái công xưa nay vốn là người có tính ích kỷ, không muốn cưu mang giúp đở ai. Nhưng sỡ dĩ gần đây, có nhiều kẻ nghèo hèn lại gõ cửa nhà ông, là bởi, lúc sắp đi tu, ông đem của bố thí cho các cùng dân để lấy tiếng là người nhân đức. Trong buổi hai vợ chồng Thái công đương buồn rầu, mỗi người riêng hoài bão, một tâm sự, may sao người khách viễn phương kia lại đến xin ăn uống và ngủ nhờ. Nhân lúc ông bà hết cả chuyện nói với nhau, ông bà cũng có ý muốn hỏi lai lịch người khách kia để mua vui trong chốc lát, Trái lệ thường vẫn đuổi các kẻ đến xin bố thí xuống nhà dưới để nô tỳ cho cơm và cho áo, Thái công, tối hôm nay, giữ người ăn mày trên phòng khách,sai dọn cơm cho hắn ta ăn. Trong khi chờ cơm,phu nhân lại si thị nữ đem kẻ khó ấy vào buồng, cho hắn quần áo thay, và lấy nước để hắn rửa mặt mày cho sạch sẽ. Một vài phút sau, Thái công và phu nhân cùng ngồi bồi tiếp hắn. Người ăn mày đó thực là có hồng phúc được sa vào một nơi sung sướng bất ngờ.
Hai vợ chồng Thái công tỉ mỉ hỏi chuyện người ăn mày, như quên bẵng hẳn tối hôm ấy là tối cuối cùng trước khi vĩnh quyết. Cả hai ông bà, vui vẻ ngồi bên cạnh người khốn khó đó, được nghe một câu chuyện lạ, một câu chuyện rồi đầy, xoay trái hẳn tính tình và ý tưởng của Thái công. Người hành khất kia chả khác gì một con chim bị gió đánh bạt đi, từ chỗ âm u tối lạnh bay vào một gian phòng sáng trưng ấm áp. Con chim dừng cánh đứng giữa phòng ấm sáng hồi lâu, mắt to ngớ ngẩn nhìn những sự rực rỡ trong khi phơi lòng giũ cánh. Một khắc sau, như sợ kẻ ngồi trong phòng, con chim đó lại luồn qua cửa sổ, bay vào quãng không gian thăm thẳm mịt mờ. Trong một lúc, ta được thấy con chim lạc loài ấy. Nhưng, phút sau, nó lại hay đi bay mất, bay vào cõi tối trập trùng.
Tự đâu con vật ấy đến, mà bây giờ nó lại đi đâu? Ta không rõ.
Người hành khất kia cũng như con chim ấy vậy. Từ chỗ nào hắn ta đi lại, nào ai có biết; mà rồi đây, đến chỗ nào hắn sẽ ra đi, cũng chả ai hay. Chỉ có hai vợ chồng Thái công đó gặp hắn trong gian phòng ấm áp giờ lâu, trong lúc, như con chim, hắn ngơ ngác nhìn những đồ rực rỡ trang hoàng gian phòng đó. Một giờ kẻ thất nghiệp ấy ẩn thân trong nhà Hàn thị, nó đã đem vào nhà ấy một tia ánh sáng dị kỳ. Con chim kia, từ cõi âm u lạc vào nơi ấm áp một giây, đưa lại cho những kẻ ngồi giữa nơi ấm áp biết bao là ý tưởng xâu xa về nghĩa cuộc đời họ sống. Bỡi lẽ, họ vào đời chả khác gì con chim kia bị tạt vào phòng. Trước lúc ta thấy ánh mặt trời, từ đâu ta sa vào cõi thế? Mà khi ta chết, ta lại bay tới chốn nào? Trước ta, sau ta, đều là cõi tối, màn bí mật. Như con chim trong một lát thấy ấm áp, rực rỡ, trong một kiếp, ta được mở mắt to ngơ ngác trên trần ai. Con chim bị lạc vào phòng, không hiểu vì sao nó vào phòng, cũng như ta sống ở đời, không biết vì sao ta sống.
Đấy là triết lý của đời người.
Kẻ ăn mày kia, lạc vào nhà Thái công, đã cho Thái công một bài học hay về cách xử thế. Tựa con chim kia đưa đến cho người đời một lý thuyết cao xa về sự sống, kẻ hành khất đã đem đến cho Thái công nhiều cảm giác huyền bí, tuyệt diệu, về cách nên sống thế nào.
Người đời ai cũng là con chim, ai cũng là Thái công, ai cũng là anh hành khất.
Nhưng mà bạn hãy chịu khó nghe tôi kể nốt đuôi câu chuyện.
Hai vợ chồng Hàn Thái công, buổi tối cuối cùng sum họp cùng nhau trước khi chia lìa nhau hẳn, muốn dùng ngườì hành khất lạc vào nhà làm người chứng giám cảnh buồn rầu vĩnh quyết của mình, cả hai ông bà, trong khi tiếp chuyện người ăn mày, đều ngỏ ý- chỉ đôi bên cho người ấy rõ, Người ăn mày kỳ dị ấy, vừa ăn nhanh. và khỏe như rồng cuốn, vừa nhồm nhoàm lắc đầu, phân phải trái với chủ nhân.
- Thưa lão gia và phu nhân, sự hai ngài làm đây là một điều rất phi lý. Ai lại ăn ở với nhau đến ngày răng long đầu bạc, lại còn có ý điên cuồng muốn lìa rẽ nhau ra? vẫn biết lão gia và phu nhân không hợp tính tình nhau, lại không có con, nhưng hai ông bà đều có bổn phận là phải đùm bọc lấy nhau cho tròn vẹn tào khang đại nghĩa. Chính trong những lúc già nua, suy nhược, chính trong những lúc bơ vơ trơ trọi, lão gia phải nên gần gụi phu nhân luôn luôn, mà phu nhân phải nên chăm nom săn sóc đến lão gia luôn luôn, để hai ông bà cùng đở thấy cuộc đời là đen tối, đỡ thấy vẻ nặng nề của một kiếp bẽ bàng.
‘‘Thế mà nay lão gia lại quyết chí bỏ nhà đi, xin thử hỏi ngài có cảm thấy lương tâm ngài cho sự là ấy một điều tàn nhẫn? Con dám khuyên lão gia: Lão gia nên ở lại, nên ở lại! Phu nhân là một người hiền thục, nhu mì, có làm gì đến nỗi để lão gia mích lòng quá thế?’’.
Hàn Thái công nghe nói, chỉ ngồi cười mỉm, gật gù:
- Nào phu nhân có làm mích lòng lão phu một tý gì đâu! Chỉ tại lão phu chán hẳn việc đời, thất vọng đau đớn đã nhiều, nên muốn du thủy, du sơn để họa quên dần tục lụy. Tiên sinh mới đến đây lần này là một, chưa hiểu rõ tình thế của hai vợ chồng lão phu. Nhời tiên sinh khuyên, thực là nhời vàng ngọc, nhưng lão phu không dám vâng theo. Tiên sinh không nên bàn về chuyện li biệt của hai chúng tôi làm gì nữa! Lão phu chỉ ước ao tiên sinh kể lại lai lịch và thân thế ngài, chúng tôi được rõ biết thì thực là hân hạnh lắm. Vả chăng, hai vợ chồng tôi muốn rằng câu chuyện tiên sinh kể, nó sẽ dùng làm kỷ niệm cho tối hôm nay, buổi tối cuối cùng trong thời sum họp của vợ chồng tôi. Khi nào nghĩ đến kỷ niệm ấy, chúng tôi sẽ nhớ đến giờ vĩnh quyết. Vậy tiên sinh chứ nề hà, hãy chiều lòng lão phu và chuyết kinh một chút! Tiên sinh nhận lời chăng?
- Tiểu tử có tiếc gì mà không nhận! Song le, cuộc đời của con nó xấu xa, nhem nhuốc lắm, có nói ra cũng chỉ thêm làm rác tai lão gia và phu nhân. Nhưng lão gia đã truyền dạy, con đâu dám trái ý. Vậy, lão gia và phu nhân lượng trước cho những điều khuyết điểm, sau này...
- Tiên sinh cứ cho nghe, chúng tôi xin trịnh trọng lắng tai, chú ý.
- Tiểu tử vốn xuất thân ở một nơi quyền quí, Gia nghiêm, thủa xưa; làm chức đô đốc ở Nam Kinh. Tiểu tử là con thứ ba, anh em bạn và họ hàng thường quen gọi là Trương Tam công tử. Có khi nói vắn tắt họ thường kêu là Trương Tam. Nhà con có bốn anh em. Anh con mất sớm; chị thứ con lấy con trưởng quan Tuần phủ Hà Bắc, năm mười tám tuổi, nay đã năm con; em thứ tư con lạc loài không biết ở đâu, sống hay đã chết, sỡ dĩ con phải thân hình tiều tụy, là bởi gia đình con tan nát sau khi phụ thân con bị vu cáo, mắc vào một tai vạ diệt môn. Phụ thân con bị kết án tử hình, cả nhà cùng bị lây vào nạn ấy. Chị con đi lấy chồng xa may thoát khỏi sự bắt bớ, vì anh rể con là một người có thế lực to. Xót nỗi thế lực không thể cứu gia nghiêm được, ngài bị vu là muốn phản nghịch Triều đình. Ngày cha con bị bắt vào tù, con đã lên hai mươi mốt tuổi. Em con lúc ấy mười sáu. Hai anh em chúng con, may phúc, cùng đi săn bắn; lúc trở về thấy xa xa có quan quân vây bọc nhà cửa, chúng con biết có biến, vội ra roi quất ngựa trốn cho nhanh. Em con đi một nơi, con đi về một nẻo.
Chúng con phải xa nhau và cải trang cho thiên hạ không ai nhận được; từ ngày hai anh em con chia rẽ, đến bây giờ đã mười tám năm cách biệt, mà tìm nhau mãi vẫn không bao giờ được thấy mặt nhau, cảnh đau đớn của con, lão gia và phu nhân thử nghĩ xem, có phải chăng là một sự thương tâm thống thiết?
‘‘Tuy thế, không bao giờ con oán hận điều gì cả, chẳng qua chỉ là nghiệp số đó mà! Bởi người ta, có vinh hoa lại có lúc cơ hàn, tránh thế nào được định ý của Trời cho thoát? Vì thế, con cứ cúi đầu chịu khổ, không muốn chống cự với mạt vận làm gì. Nhưng trước kia, dù con bị thất lạc, nổi chìm, con có đến nổi tiều tụy thế này đâu có? Lúc ở nhà ra đi, trong lưng chỉ có vài lạng bạc. Nhưng quần áo mũ giầy con đáng giá nửa cân vàng. Con lại có một cái thắt lưng đúc bằng vàng điệp tốt và mềm, con bán hết cả mọi vật mang trong người để lấy tiền chi phí. Thoạt bước ra đi, lúc vừa trốn nạn, con dừng chân ngụ ở đất này. Cho nên bây giờ con mới trở về đây, vì con có một món nợ ở bản hạt mà vạn đại cũng không khi nào trả được. Con về đây để hối lại một tội ác đã làm từ trước, để xin kẻ thù con sinh phúc cho được nhẹ khối lòng. Bây giờ con đương bị giầy vò bỡi một nỗi hối hận vô biên, nó cắn dứt linh hồn và xác thịt con đêm ngày không rứt. Nhà cửa bị vạ diệt môn, con không cho thế là khổ; trong đời con, chỉ có kết quả một tội lớn, con đã vô tình gây nên, nó làm cho con, từ mười mấy năm nay, không đứng ngồi yên được một phút cỏn con nào. Tuy không phải tay con giết người, nhưng con cho là vì con mới có xảy ra án mạng. Con hối hận lắm, hối hận quá, hối hận suốt một thời trai trẻ vừa qua. Có lắm lúc đau đớn
cực điểm, con phẩn chí muốn quyên sinh; song ngẫm nghĩ xa gần, con tự cho mình không có quyền được hủy thân đi phải bắt nó sống đày đọa, ngõ hầu chịu sự hành phạt của lương tâm cắn rứt. Con đã làm nên tội, con phải sống đến giờ cuối cùng để mang đeo lấy hết các nghiệp chướng của tội ấy. Không ai tha thứ cho con được, trừ đức Thượng Đế, trừ kẻ con đã làm chết hoặc bố mẹ của người ấy. Dẫu cả đời, con tự buộc mình cực khổ để hối quá, con vẫn cho là mình hành hình mình chưa đã. Vì thế, có tiền con không dám tiêu, có cửa nhà sang trọng con không dám ở, có các thực phẩm hảo hạng con không dám ăn. Con phải buộc mồm con, hãm thân con, họa chăng tội con giảm đi được phần nào, họa chăng kiếp sau con tránh khỏi số làm trâu, làm chó, Bây giờ con chỉ được phép ăn cơm hẫm canh thừa, mặc áo quần rách rưới, ngủ ở đầu hè, xó chợ. Con tự ép mình phải sống rất nhục nhã, kham khổ để bù buổi xưa kia con sống sung sướng, phong lưu. Không phải con không đủ tài làm cho mình được giàu có lịch sự đâu, chỉ tại không muốn thế trước khi chưa được rõ biết tội lỗi mình đã được người tha thứ. Con sở dĩ trở lại đất này là để hỏi xem con đày đọa thân như thế đã đáng hay chưa, và để lạy lục xin van cha mẹ kẻ bị con làm hại. Con sẽ thành thực cầu khẩn hai vị phúc tinh ấy cứu con khỏi khổ, nghĩa là vui lòng tha thứ cho con, Trong bốn người có quyền cai quản thân thế con, nếu hai người đã thương con, thì chắc hai người nữa đối với con cũng không nở nào hành tội. Tức là ngày mà cha mẹ người bị thiệt thân thứ lỗi cho con, Thượng Đế và người ấy cũng sẽ đồng lòng dung tính mệch cho con, không oán trách gì con nữa. Con sẽ thoát khỏi vòng ngục tối, con sẽ được bay vào một gầm hạnh phúc sáng trưng. Nhưng, trời ôi! Chả biết cha mẹ kẻ kia, sau mười tám năm cách biệt, còn hay đã thác? Nếu hai vị bồ tát ấy thác rồi, dây xích của nghiệt chướng tất thắt chặt lấy thân thế con cho mãi đến khi, suy nhược quá, con sẽ chết rũ xuống, mắt vẫn mở trừng trừng, sẽ vì hồn còn nặng trĩu những tội ác chưa rửa sạch đi được. Vì hai vị kia còn sống, mà vẫn đầy một lòng tức giận, oán thù, thì đời con cũng sẽ bị đọa đày mãi mãi trong gầm khổ nhục. Con chưa tìm ra được hai vị ấy, nhưng thế nào rồi con cũng tìm ra.
‘‘Lão gia và phu nhân chắc chưa hiểu tội ác của con thế nào; bây giờ con xin thuật rõ để ông bà biết. Con cúi xin ông bà cầu nguyện Trời Phật cho linh hồn con, một ngày kia, được trong sáng nhẹ nhàng, được thoát ly khỏi sự đè nén nặng nề của lương tâm, được tránh khỏi nỗi khổ bị khối Iương tâm ấy giầy vò cắn rứt.
‘‘Con xuống ngựa, đạp lên đất này, vào giữa giờ Dậu ngày 12 tháng tám năm Mậu Tuất. Con là một kẻ vốn được hạnh phúc sống trong một gia đình phú quí, nên dù là một phạm nhân lánh nạn, con vẫn có vẻ ngoài hào sảng, phong lưu. Nhờ thế, tới vùng Cao Mỹ này, con làm quen ngay với một vị đại gia công tử. Chúng con gặp nhau trong một tửu quán. Vị công tử ấy bằng trạc tuổi con, à không, tựa hồ kém con độ hai ba tuổi. Nhưng chàng thực khôi ngô tuấn tú, lại có khiếu thông minh rất mực, và tài hoa lỗi lạc hơn người. Hai chúng con hình như có duyên với nhau từ thủa trước; công tử gặp con thì mến con ngay tức khắc, mà con cũng quí yêu công tử hết lòng. Đôi bên, phút chốc, đã hóa thành một lứa bạn tương tri thân mật. Rồi, chúng con mến yêu nhau hết sức, quên cả hỏi lai lịch của nhau. Có một phen, con sực nhớ ra, đòi bắt công tử đưa con về nhà bái yết thân phụ và thân mẫu chàng, nhưng công tử vội gạt đi, lấy cớ rằng hai thân khó tính và không muốn phải chịu phiền tiếp rước ai. Thành thử trong ba năm trời chúng con chơi bời đi lại với nhau, con không hề rõ biết nhà công tử ở đâu và cha mẹ công tử người thế nào. Đến sau này, những cớ sự xảy ra lại bắt con không bao giờ được biết những điều ấy. Công tử rất thành thực, sốt sắng và hăng hái, chơi với con thì chỉ biết con, không bao giờ tò mò hỏi đến lai lịch và thân thế con ra sao. Nhưng con nghĩ bụng nên tỏ rõ cho công tử biết con là một người lánh nạn, mang bên mình một tội lớn và có thể, phút chốc, đầu lìa khỏi cổ nếu bí mật của con bị tiết lộ ra ngoài. Biết rõ tâm sự con, công tử khuyên con không nên ở những chỗ quán trọ có đông người qua lại và hay có các thám tử tạt vào. Chàng bèn bỏ tiền xây một căn nhà ở mé ven rừng, ép con vào ẩn mình trong đó. Biết con là kẻ không có tài sản gì trữ sẵn, trong ba năm trường, công tử nuôi con như nuôi một người thân thích ruột rà. Con cảm kích ơn sâu ấy lắm. Những cuộc đi chơi, những tiệc tùng ăn uống, đều là do tay công tử xuất tiền chi tiền. Con vì thế được dung thân một cách an nhàn sung sướng, không bao giờ phải nghĩ ngợi điều gì. Sợ con ở một mình có thế đâm ra phẫn chí buôn chăng, công tử lại mua cho một người con gái nhà quê, cho theo con để hầu hạ và nâng khăn sửa túi. Trong lúc lạc loài, cô trích, con được nhờ công tử cũng không đến nỗi ưu phiền. Ơn công tử đối với con, nó nặng trĩu như non; kiếp này trót đã lỡ làng, biết không thể nào trả được, con nguyện kiếp sau xin làm ưng khuyển báo đền. Song mỗi lần nói đến sự trả ân, công tử đều gạt đi không nói nữa, chỉ bảo rằng:
‘‘ - Miễn là quí huynh có lòng thương ngu đệ là đủ; những sự giúp đỡ huynh là bổn phận của đệ, có là mấy! H tất phải kể đi nhắc lại làm gì?
‘‘Con cảm động quá, chỉ biết cầm tay công tử, nước mắt lóng lánh chạy quanh. Từ đấy, con coi công tử như anh con vậy. Con quí trọng và mến yêu công tử hết sức, rồi vì công tử mà dần dần quên hẳn gia đình. Nhưng đời con có một tử thù, con làm trai, không thể không báo đền cho được. Dù con được yên thân một chỗ, con há chỉ biết cầu hoạt, quên cả thù cha, thù mẹ hay sao? Kẻ kia vì lợi danh, làm cho gia đình con lâm vào cái vạ diệt môn, nay rõ biết đích xác hắn ở tại chốn nào, con há nỡ khoanh tay nhìn, không đá động gì đến sự báo thù. Con định ngỏ ý cho công tử biết, và nhờ bạn giúp một tay. Song việc này là việc rất khó khăn, con không muốn lụy đến ân nhân, nên lần lữa mãi, vẫn không dám nói. Mãi đến cuối năm Canh giáp, con mới bàn với công tử những việc con sắp sửa làm.
Công-tử là một kẻ hào hoa phong nhã. Chàng làm thơ hay, vẻ tranh khéo, và nhất là với cầm ca thì không ai dám sánh với chàng. Giọng chàng hát trong trẻo nỉ non, hay hơn ca kỹ; đàn chàng đánh đủ các thứ, nghe nhẹ nhàng não nuột vô cùng. Chàng bình sinh chỉ hay thổi ống tiêu, tiếng tiêu chàng thổi nghe xa như văng vẳng ở tiên cung đưa lại. Con cũng là một kẻ có tâm hồn nghệ sĩ; văn-chương con xuýt soát ngang hàng với công tử, nhưng đàn ca và vẻ con vốn không có khiếu nên từ xưa vẫn không được sở trường. Con chỉ sở trường nghề múa kiếm, bắn cung: con là một trang võ sĩ. Con múa kiếm theo một môn đại võ, trông đẹp như hoa mai tơi tả rủ xuống, lại lắm đường lợi hại khôn lường. Cung, thì tài con không kém gì tài Dưỡng do Cơ, con bắn bách phát bách trúng. Công tử thường bắt con luyện võ và bắn thử; chàng xem xong rất được vừa lòng, bao giờ cũng tấm tắc ngợi khen. Trong ba năm chúng con đi lại với nhau, công tử thường đến nhà con một tháng non hai mươi lượt. Trong những ngày hội họp, con dạy chàng bắn cung múa kiếm, chàng tập cho con thổi một khúc sáo mà tự chàng đã lựa tiếng đặt ra. Chúng con sống cùng nhau một quãng đời sung sướng, mãi tới ngày, tội lỗi của con làm nên, trong một khắc, phá tan nát hẳn hạnh phúc của chúng con xây đắp……..’’
Người hành khất nói đến đây, thở dài luôn mấy cái, hai giọt nước mắt chân thành ròng ròng chảy mãi xuống càm. Anh ta chùi mắt, đăm đăm nhìn ra quãng tối vắng vô biên, ngậm ngùi kể tiếp:
‘‘ - Trời xanh không ác mà lắm lúc tưởng như tàn ác lắm! Trong đời người, chẳng có sự gì thành rồi mà Trời nỡ để được lâu. Công tử và con thực đã như máu mủ chân tay, ai ngờ đâu phút chốc bỗng phải xa lìa nhau hẳn! Nào có gì đâu! Con biết rõ kẻ thù của cha mẹ con lúc ấy về dưỡng nhàn ở một nơi biệt thự cách vùng này độ tám dặm đường, con có ý muốn lẻn đi báo phục. Công tử độ ấy luyện môn kiếm cũng đã khá lắm, nghe nói con đi, quyết một hai cùng đi với con để giúp đỡ một tay. Hai anh em con nai nịt gọn gàng, rồi một đêm, dắt nhau vào nhà kẻ thù để hành thích.
Đêm hôm ấy, con bắn trúng một mũi tên thuốc độc vào cổ họng người con định giết, nhưng trái lại, không may cho con, bạn con bị một vết đao sâu ngập vào sườn. Máu tuôn ra lai láng. Chàng ngã gục xuống. Con phải cõng bạn lên vai, nhảy mái nhà mà trốn, vì những võ sĩ trong biệt thự thấy động cùng ùa ra chém giết kẻ gian. Con nhảy giỏi và chạy rất nhanh nên trốn thoát. Nhưng về đến Cao Mỹ, công tử thở hơi thở cuối cùng. Con sợ quá luống cuống không biết thế nào cho ổn. Con đặt bạn xuống một bên bờ cỏ, cúi xuống tử thi, tưới trên mặt bạn tất cả bao nhiêu nguồn lệ con có ở trong người. Con khép mắt và vuốt mặt cho công tử, rồi lấy một tấm khăn che mặt chàng lại. Con quỳ xuống, lạy bạn bốn lạy, vừa khóc vừa khấn bạn ở suối vàng, hiểu cho lòng con và tha thứ cho con. Vì con, bạn đã thiệt thân: tự con đã đem bạn vào cõi chết. Đem bạn về nhà không có thể được, vì họ hàng công tử sẽ đến tìm con bắt đền mạng, sẽ đưa con vào cửa công, con sẽ bị bại lộ bí mật thì không sao thoát tội được. Vác thây bạn về nhà bạn lại cũng khó nữa, bởi lẽ con không biết ở đâu. Người con đầm đìa những máu, con không tiện trở về nhà thay áo, sợ chuyết kinh rõ chuyện thì càng thêm rắc rối cho con. Con đành phải bỏ công tử lại ở bên đường, khấn vong linh bạn khôn thiêng sẽ run rủi cho có người biết đến đem về mai táng: còn con thì từ giã bạn, trốn ngay biệt tích biệt tâm. Từ đấy, con thay hình làm một kẻ ăn mày, con, hối hận quá, không dám mua khoái lạc vào thân nữa. Tội con mười mươi đáng chết, vì con đã hại ân nhân con, con đã hại cả đời trai trẻ và tài hoa của người bạn thân nhất mà con yêu quí, Nhưng sở dĩ con còn sống, là để chịu cho lương tâm giầy vò cắn rứt đến kỳ cùng, họa chăng tội ác mới có cơ rửa được. Thấm thoát mười tám năm thoảng mau như chớp, thân thể bạn con ngày nay đã hóa ra bùn!’’.
Người ăn mày rách rưới nói đến đây, nấc lên, không nói được nữa. Anh ta ôm đầu khóc xướt mướt. Hai ông bà, Hàn Thái công và phu nhân, lại phải an ủi hắn giờ lâu, bây giờ anh ta mới nín, nhìn hai ông bà bằng một đôi mắt não nùng, tỏ ra vẻ cảm kích. Bỗng người hành khất nhìn trên tường thấy treo một cái sáo ngọc, anh ta bèn đứng đậy, lấy xuống. Hàn phu nhân nhìn hắn cầm ống sáo, rầu rầu nét mặt, trỏ chiếc ngọc tiêu, thổn thức nói rằng:
- Ống sáo này là của con trai lão. Sinh thời nó, nó hay thổi ống sáo ấy; từ khi nó chết đi, vẫn treo kỷ niệm ấy ở bức tường này. Trong nhà lão không ai biết chơi ống tiêu, hóa nên mười mấy năm nay, vật báu ấy không có ai cầm tới.
- Nếu lão gia và thái thái cho phép, con xin thổi một bài hầu hai vị nghe chơi. Lão gia có bằng lòng?
Không hiểu vì sao, Hàn Thái công hôm ấy lại gật đầu, quên hẳn trong hơn bốn mươi năm nay, ông không cho phép một người nào trổ tài ca nhạc bên tai ông cả.Có lẽ vì Thái công nghe chuyện người ăn mày nên cảm động, quá thương người kia khổ sở mà không nở chối từ. Hàn phu nhân thì nét mặt lộ ra vẻ vui mừng, ngồi đăm đăm nhìn kẻ hành khất so cung, chờ đợi hạnh phúc được nghe một bài đàn mà đã lâu, bà không được hưởng thú. Người ăn mày lau ống tiêu rõ sạch, thổi thử vài tiếng, rồi ép chặt sáo vào đôi môi thâm tím, phùng mồm lên lấy gân thổi một khúc bi hoài.
Đêm trường tối vắng, tiếng sáo du dương; những gợn âm thanh não nuột bay lượn trong không khí tựa hồ đem vào gian phòng nhà họ Hàn một vẻ thê lương, nửa dịu dàng, nửa thấm thía, ngõ hầu ghi lấy giờ đau đớn mà hai vợ chồng Thái công lạnh Iẽo giã từ nhau. Đã lâu, người ăn mày không có thì giờ đâu đàn sáo vui chơi, nay được dịp thổi một khúc thì cố hết hơi hết sức. Khúc sáo anh ta thổi nó buồn, nó thắm, nó chan chứa những cảm tình khó tả, khó hiểu, nó như một tiếng khóc thổn thức của một con tâm bị một vết thương tình. Dư âm nó véo von khi bỗng, lúc chìm, dài dằng dặc như thời gian, lại nhanh như chớp loáng, âm thầm như mưa phun gió táp, lại nỉ non êm ái như tiếng chuyện trò của đôi bạn tình nhân. Có lắm lúc khúc tiêu kia ai oán như tiếng chim chiều lạc mất đường về, có lắm điệu nó thắm thía như khí lạnh xông qua làn áo mỏng.
Người hành khất thổi... thổi mãi, không để ý đến hai ông bà họ Hàn cùng thẫn thờ, im lặng, cúi đầu. Hai vợ chồng già lúc ấy ngồi gần nhau trêu sập, hai cái đầu tóc bạc từ từ kề sát lại nhau. Lắng nghe tiếng bỗng chìm như tê tái tâm hồn, Hàn phu nhân không cầm nổi cảm động chứa chan, ngả đầu lên vai Thái công. Thái công, lần đầu trong đời, thấy một mảnh lực gì, xuất ở gợn âm thanh âm ĩ, đưa ông vào biên giới một cõi thiên đường thơm tho bát ngát, một cõi thiên đường ông chưa từng tưởng tượng đến bao giờ. Ông lại thấy con tâm như vỗ đập vô hồi, mà trong linh hồn như lai láng một nguồn bác ái vô biên, vô tận. Rồi, tự nhiên, Thái công ôm chặt lấy phu nhân.
Người hành khất thổi luôn ba khúc sáo xong, ngảnh nhìn chủ nhân, thấy hai ông bà đương ngồi ghì chặt lấy nhau, dưới mí mắt cả đôi cùng lóng lánh bốn dòng lệ trong veo từ từ chảy xuống bốn chiếc má dăn deo,cằn cỗi. Nét mặt Thái công và phu nhân, Lúc ấy, cùng nhuộm một vẻ hiền từ, phúc hậu, man mác tỏa trên làn da mồi, chan chứa gợn trong hai đôi đồng tử vì ngấn lệ. Trông hai ông bà, cùng phảng phất có tiên phong, đạo cốt; cả hai tựa hồ thoát hồn phách ra ngoài cõi tục, đương lâng lâng trôi vào một cõi hạnh phúc thiêng liêng. Hai vợ chồng Thái công mặt mũi thẫn thờ, con mắt vơ vẩn, không trông thấy hiện trạng bề ngoài nữa, đương mãi mê ngắm một sự gì trong thế giới tinh thần. Cảm giác của hai ông bà, như những dư âm não nùng của ngọc địch dẫn lối đưa đường, thoáng bay cả vào gầm cao khiết mơ hồ của mỹ- thuật, rồi chìm nỗi trong gầm ấy mãi, ngại ngùng không muốn trở về trần thế xấu xa. Thái công và phu nhân một lần hiếm có trong đời, được hưởng khoái lạc dịu dàng trong sạch của những tâm hồn nghệ sĩ. Chỉ một lần ấy, cả hai thân già, nhất là Thái công, cảm thấy mấy mươi năm mình sinh hoạt, đua tranh, thực không bằng một phút đắm say trong cảnh đẹp. Cái đẹp ấy, bây giờ ông mới biết, mà khi ông biết nó, nó xoay trái hẳn tính- tình và tâm lý của ông. Đầy một lòng bác ái, bâng khuâng khó tả, đầy một lòng phúc đức vẩn vơ, không hiểu vì sao, ông trông rõ những sự đê hèn cực nhục của thế gian, rồi bỗng đem lòng thương nhân loại không biết bao nhiêu mà kế. Ông thương người đời bị vùi lấp trong một cõi tối tăm, nhơ bẩn; thương đời bao nhiêu. Ông hồi tưởng lại nỗi đau lòng vợ ông đã bị trải, bởi vì đường ông đã bắt bà theo là một đường sai chân lý, sai hạnh phúc, còn xa hạnh phúc còn nhiều. Ông đã nhầm, mà cái nhầm của ông đã đày đọa bà trong một thời hạn quá dài, đến nỗi suốt đời theo chồng, bà nhai nuốt xiết bao thương tâm, và cực nhục. Tâm trí Thái công lơ mơ suy nghĩ, trong khi điệu lanh lảnh của ống tiêu xuyên vào cõi tối âm thầm. Nghe tiếng gọi chân thật của tâm hồn, chịu ảnh hưởng sâu xa của mỹ cảm, Thái công dùng hết sức thừa của đôi cánh tay suy nhược, cố ghì chặt lấy mảnh thân tàn của vợ vào tấm thân cằn cỗi của mình. Rồi, tựa hồ để chữa lỗi ngày xanh, ông tưới trên làn tóc hầu trắng xóa của bà những giọt lệ già thành thực, những giọt móc quí báu chứa hết tình thương yêu thấm thía của ông. Lúc cuộc đời đã tàn rồi, Thái công mới hiểu rõ tính tình của vợ.
Thế cũng đủ. Hàn phu nhân nhận thấy trượng phu ngày nay đã mở tầm óc đón chào mỹ thuật, bà như cởi được nỗi lòng. Trong lúc quả cảm động, Thái công ôm phu nhân thổn thức, phu nhân cũng thổn thức cho hai trái tâm già của mình và của chồng cùng vô chung một dịp não nùng. Nhưng ông khóc vì thương bà; bà trái lại, chỉ khóc vì mừng rỡ. Bà mừng rằng ông đã thấu cho nỗi hy sinh cao quí của bà.
Những giọt lệ sung sướng bà khó nỗi hãm cầm, khiến chúng nó cứ trào ra khôn ngớt. Cảm tạ lòng tốt của Thái công, phu nhân trả lại chồng những tình cảm yêu thươn khó giải. Bà chân thành ôm chặt lấy vai ông; hai bàn tay gân guốc của bà run lên lẩy bẩy Bà ngượng nghịu, không dám mở mắt nhìn đèn sáng, cứ nhắm nghiền mắt lại mơ màng...
Người hành khất, thổi sáo xong, thấy một cảnh tượng khả kính, rất cảmvđộng, hiện ra trước tầm mắt chàng. Chàng không dám động đậy, sợ làm tan mất giấc mộng êm đềm, sung sướng của hai vị chủ-nhân.
Nhẹ nhàng, cẩn thận, chàng sẽ đặt ống sáo ngọc lên bàn, rồi rón rén lủi ra, ngõ hầu để hai ông bà được yên lặng trầm ngâm, hưởng khoái lạc vô biên của cảnh thuận hòa hiếm có. Chàng lại mừng rằng, vì chàng, hai vợ chồng già kia đã tự nhiên quên những nỗi hờn xưa.
Người ăn mày len lén lui ra ngoài. Không may, chiếc ngọc dịch bỏ lơ đễnh trên bàn, vì mặt bàn quá trơn lăn một quãng rồi rơi xuống đất. Vật báu ấy, đụng sàn gạch, kêu lên sang sảng, vỡ ra muôn mảnh tan tành. Hai ông bà họ Hàn hoảng hốt giật mình, bỏ nhau ra, đứng dậy. Nhanh như cắt, phu nhân đã ra níu áo người khách lại, nghiêm nét mặt hỏi khách một câu, bằng một giọng buồn rầu:
- Dám hỏi tiên sinh, ba khúc sáo tiên sinh vừa thổi ngài học ở đâu mà biết vậy?
- Bẩm, tiểu tử học lại của người bạn, người bạn mà, theo như chuyện con vừa kể lại, con đã vô tình làm cho chết rất thảm thương...- Nhưng.... phu nhân hỏi con câu ấy làm gì vậy?
Mặt Hàn phu nhân bỗng dưng tái mét. Đương hiền từ, phúc hậu, bộ mặt ấy hóa ra dữ dội, hung tàn. Mắt phu-nhân, đương ám mờ, phút chốc sáng quắc lên; phu nhân nghiến lợi, nắm tay, tiến một bước sát mặt người ăn mày, điểm mặt hắn ta, quát mắng:
- Hỏi mày mà làm gì hở? Đây này, thằng khốn nạn kia, mày có nhận chân dung người trong bức vẻ này là ai không?
Trong ngăn tủ khảm đặt ở giữa phòng, phu nhân lôi ra một bức ảnh truyền thần vẻ bằng thủy mạc. Bức ảnh ấy vừa giơ lên ánh sáng, người hành khất thổi sáo bỗng run lên cầm cập như người bị sốt rét, lùi lại đường sau một bước, mở mắt ra to, mồm há hốc ra không khép môi vào được nữa. Người ấy như bị bức ảnh làm cho khủng khíếp đến cực điểm; hắn ta bị thôi miên trong một lúc, mãi sau cùng, hai chân hắn quỵ cả xuống, rồi hắn cúi đầu lạy hai ông bà họ Hàn như chầy máy, vừa lạy vừa khóc lóc kêu van:
- Tuấn Anh công-tử! Tuấn Anh công tử! Nhưng công tử bảo con họ Trịnh, có ngờ đâu giấu con, không cho con biết anh con trưởng họ Hàn! Tội con đáng muôn ngàn sự chết. Nhưng con rập đầu xin Lão gia và Thái thái mở lòng nhận đức, thương đến con mà sinh phúc cho con. Con đây đau khổ đã nhiều, tội con dẫu rìu búa cũng không oan gì nữa! Nhưng Gia gia và Thái thái là hai vị giằn lòng bác ái, cúi xin ông bà rộng dung, tha thứ cho con.
Người ăn mày quì rạp xuống sàn, không dám ngẩng đầu lên nữa. Thái công chưa ra khỏi giấc mơ, cứ ngồi nhìn chàng bằng đôi mắt mở to, không đáp. Nhưng phu nhâ đã xăm xăm áp lại, lấy chân giẫm lên đầu người hành khất, giay đi giay lạí cho bỏ hờn. Lúc bấy giờ, bao nhiêu nỗi oán giận bấy lâu đè nén trong lòng, bao nhiêu sự hờn, sự tức, chúng nó đều nổ bùng ra một lượt …biến phu nhân ra một bà già tàn ác dị thường. Lòng mẹ muốn bảo thù cho con, nó có một mãnh lực không sự gì cản nổi.
- Tha thứ cho mày? Sinh phúc cho mày? Thằng khốn nạn kia, thằng đểu giả gian ác kiạ! mày có biết vì mày giòng họ Hàn nhà ta nay bị hóa ra tuyệt tự? Mày có biết mày đã đem chôn sống mất đứa con một của tao, đứa con yêu quí nhất trong đời tao, một
đứa con tài hoa, phong nhã, đã làm cái đích cho tao trông vào để vui vẻ mà sống, để vui vẻ mà chống cự lại với những nỗi đau thương khổ nhục vô biên? Mày ó biết mày đã giết tao, đã cướp mất công trình tao, đã đọa đày tao trong một kiếp chán chường, đau đớn? Mày có biết tao sống cũng như chết, còn cũng như thác, không biết gì là sinh thú nữa, biết không? Mày có biết bao nhiêu hi vọng của tao, bao nhiêu hạnh phúc của tao, trong một phút, mày đạp đổ, phá tan đi cả? Nghe mày kể chuyện, tao đã ngờ ngợ, nhưng tao không muốn tin rằng đứa làm chết con tao, lại chính là mày! Mày có biết trong mười sáu năm nay, ngày tao đau, đêm tao khổ, không một phút nào tao không nguyền rủa mày, mắng chửi mày, cần Trời cho mày bị chết một cách thảm thiết, khổ sở, cho bù lúc mày làm con tao chết thảm thương? Bây giờ tao gặp mày đây, nếu tao không nhai nuốt được mày, ít ra tao cũng bằm xả mày ra muôn mảnh. Mày có giả tâm làm hại con tao, đưa nó vào cõi chết, lại còn nỡ bỏ xác nó ở đầu đường xó chợ, bên bờ cỏ úa, cho ruồi bâu, cho bụi bám, cho người đi qua phải bưng mặt tránh xa! Thế mà mày còn dám đến đây, xin van tao để tao sinh phúc cho mày nữa hử? Cút đi, thằng khốn nạn kia, cút đi ngay...không chứ trách tao là người tàn tệ! Tao không nỡ giết mày cho bẩn đao, bẩn kiếm; đã có thiên lôi, điển mẫu, đóng lưỡi ầăm sét dể xé tan xác mày ra muôn mảnh, để đốt cháy ra than cái thân hình ô uế, nhục nhã của mày! Cút đi, còn đứng đây làm gì nữa? Ai nhận lạy vái của mày mà lạy hở thằng chó má, khốn nạn kia!
Hàn phu nhân chửi mắng kẻ hành khất một hồi lâu, hăng hái. Sự tức giận đã tiêm vào máu phu nhân nhiều mãnh lực dị kỳ. Nhưng, nói quá mệt lả người đi, phu nhân không còn hơi sức nữa, phải ngồi gục xuống, ôm đầu khóc như gió như mưa. Thái công bây giờ mới sực nhớ ra, nghĩ thương vợ cũng giận người ăn mày hết sức. Ông bèn đứng dậy đuổi người ấy và tống cổ hắn ra ngoài. Người hành khất không dám ngửng lên, chỉ khép nép cúi mặt rồi lủi ra, đi vào trong bóng tối. Mé ngoài, mưa vẫn âm thầm rả rích, gió từng hồi vẫn rít lên nghe rất bi ai.
Khi người ăn mày đã chạy lẩn ra ngoài, Hàn Thái công mới quay vào nâng đỡ phu nhân đứng dậy. Ông vuốt ve an ủi bà đừng phiền não, chỉ cho bà biết Trời đã thay bà hành phạt tên sát nhân kia, đày đọa nó cả đời phải khổ. Bà dần dần cũng nguôi cơn sầu thảm, lấy khăn lau nước mắt và nhìn ông, cảm động, ngại ngùng. Hai ông bà lại ngồi kề sát vai nhau; bà, phục tòng, gối đầu bạc lên vai ông, ông âu yếm, vỗ về bà tỏ ra ý che chở cho bà, không để bà phải chịu nỗi cô thâu trích ảnh. Một lúc lâu, hai ông bà lẳng lặng nhìn ra cảnh ngoài mưa gió, trong lòng nhẹ nhàng khoan khoái, hưởng thú êm đềm của sự tĩnh mịch nên thơ. Thời gian âm thầm trôi như không làm cho ông bà phải nao nao sốt ruột; mãi khi một hồi trống xa xa, vẳng theo ngọn gió heo đưa lại, dắt hai người vào hiện trạng đáng buồn. Bà nhìn ông chan chứa cảm tình, nhưng cố nén lòng nói nốt vài nhời từ biệt:
‘‘ – Phu quân nên đi nghỉ sớm, để ngày mai khỏe khoắn, lên đường cho được thong dong.
‘‘ - Thôi phu nhân ạ, tôi không muốn đi đâu nữa! Tôi ở nhà với phu nhân. Tôi sẽ cùng phu nhân hưởng nốt tuổi già kề bên nhau, tôi không muốn để phu nhân phải chịu lẻ loi, buồn khổ. Người ăn mày kia, không ngờ, đã cho tôi một bài học; bây giờ tôi mới hiểu xiết bao tôi đã sai lầm! Vì sự lầm lạc ấy, phu nhân đã nhiều phen đau đớn, nhưng phu nhân cũng nên xét tình tha thứ cho tôi. Bởi lẽ, phu nhân đã nhờ sự truyền thống có một tâm hồn cao quý hơn tôi, phu nhân phải nên thương tôi là một kẻ khốn nạn, không may, đẻ ra không đó khiếu thông minh như thiên hạ. Mãi bây giờ, khi mái tóc đã hầu trắng cả, khi da má đã dạn dày, cằn cỗi, dăn deo, mãi bây giờ, tôi mới được hưởng sự khoái lạc thanh khiếl của tinh thần, tôi mới được biết thế nào là sự sung sướng của một tâm hồn nghệ sĩ khi đấm say trong cái đẹp. Mà, vì sự hiểu biết đó, tôi đã cảm thấy nỗi đau đớn của một kẻ, cả đời, chỉ cặm cụi bon chen những tài sản vật chất, chỉ biết đem nghị lực và tâm trí phụng sự một quan niệm nhỏ nhen. Tôi được rõ tôi chỉ là một người hèn hạ, mà những điều tôi làm từ trước toàn là vô dụng, sai lầm. Cứ như tôi, tôi chỉ có thể sống an nhàn rồi chết trong xó tối. Không còn ai để ý đến tôi. Sau khi chết, hồn tôi sẽ nặng nề, ám mnội, mà người đời sẽ quên tôi như quên một vật vô tình, Bởi lẽ trong thủa bình sinh, tôi không cảm được lòng ai cả. Bởi lẽ hồn tôi chưa được hạnh phúc mở tầm ra cho mỹ thuật xen vào. Không có mỹ cảm, bao nhiêu việc tôi làm đều luẩn quẩn quanh bốn chữ phú quí, vinh hoa. Muốn giàu có, lắm tiền, thế tất tôi phải hà tằn, hà tiện. Tôi không biết hào hoa, phong nhã là gì. Đã không hào sảng, thì còn khi nào giúp đỡ được ai? Có giúp đỡ, cũng họa chăng là tý chút. Cứ xem như thằng Tuấn Anh, đứa con yêu dấu của hai ta, thế mà nó hơn tôi nhiều. Tôi ngu muội không biết thương mến nó, thực là có lỗi. Nếu nó không lỗi lạc, phóng khoáng, hơn người, thì có bao giờ kẻ hành khất kia, vì nó, tự đày đọa mình trong gầm khổ nhục để khỏi thẹn cùng linh hồn nó? Con ta đã tâm phục được một người, một người sùng kính nó suốt đời và, khi nó chết rồi, vẫn còn nghĩ đến nó luôn luôn không ngớt, vẫn yêu thương quí mến nó như ngày nó vẫn sống trên trần. Tưởng được hạnh phúc thiêng liêng ấy, Tuấn Ank dưới suối vàng chắc cũng vui vẻ ngậm cười. Hồn con ta tất đã được siêu linh tĩnh độ, lọ là phải có sư ni cầu niệm hộ cho. Tâm phục được một người, không thể vị tiền mà làm được. Phải có một tấm lòng chân chính và hào sảng hơn đời. Tôi đây, sống sáu mươi năm thật chưa bằng con sống hai mươi năm, Tôi chỉ biết bòn mót tiền tài, nào đâu biết làm phúc cho ai mà không tiếc? Thế thì còn mong gì tâm phục được ai? Thế mới biết đời tôi là vô dụng. Có vợ đáng quí không biết quí, có con đáng yêu không biết yêu, tôi là một người đê tiện. Phu nhân nên thương tôi mà tha thứ cho tôi. Ngày nay đã biết hối quá rồi, tôi sẽ quí mến phu nhân mãi mãi. Tôi hiểu rõ nghĩa cuộc sinh hoạt của tôi rồi! Giờ đây, phu-nhân nên giúp tôi chữa lại lỗi của ngày dĩ vãng, ta sẽ cùng nhau vui hưởng thanh thú của thi văn âm nhạc; phu nhân sẽ giúp tôi, dạy tôi làm phú, làm thơ. Rồi đôi ta ngày thì xem hoa uống rượu, đêm thì thưởng nguyệt nghe đàn. Ta sẽ chọn một bọn ca nữ hát hay, đàn ngọt. Ta sẽ sống với nhau, đậm đà, trong áng du dương. Hồn tôi bây giờ phải nén gội rửa cho trong; phu-nhân cũng phải cần có độ lượng khoan dung cho những người ngu muội, Kẻ hành khất kia, tưởng cũng nên tha cho nó, nó đã đem lại cho hai ta một tia hạnhh phúc bất ngờ. Trước khi quyết chí vĩnh biệt nhau, ai hay đâu đời ta lại thấy giờ ái ân này nhỉ? Kẻ kia đã làm cho hai vợ chồng ta gần gụi, nó đã đưa hồn chúng ta vào cõi thanh cao, mỹ lệ đã khiến hai con tâm của chúng ta phải cùng vỗ chung một dịp thuận hòa. Nó đã nối lại khúc dây tình vừa đứt, gắn lại mảnh gương duyên vừa rạn. Hai ta phải nên cám ơn nó. Vả chăng, tự nó, nó hối hận đã nhiều, dẫu rằng không phải tay nó hãm hại con ta. Con ta chả qua thiệt mạng cũng vì mệnh số. Nào phải đâu Trương Tam có ý gì làm hại nó đâu! Thôi phu nhân ạ, sự đã rồi, ta không nên nghĩ tới nữa. Ta nên tha cho người đã làm chết con ta. Nó là một kẻ đáng thương, đáng thương nhất, vì nó khổ bởi tại lòng trung thành, nghĩa hiệp của nó. Ai bắt được nó phải đày đọa mình để tạ lỗi với linh hồn đã phiêu bạt của con ta? Dù sao, Trương Tam cũng là người có đại nghĩa. Vả lại, còn là một tay tráng sĩ có tâm hồn nghệ sĩ cao siêu. Chúng ta phải biết nghĩ cho xa, phải khoan dung cho nó. Phải nên nuôi nấng nó như con ta, cho nó thay Tuấn Khanh để thờ phụug đôi ta, khi chúng ta trăm tuổi, Phải thế chăng, phu nhân? Phu nhân nghĩ thế nào, xin cho tôi biết?’’.
Phu nhân mừng quá, không nói được nữa. Nỗi mừng ấy làm cho cửa nhà và ánh sáng quay tít trước mắt phụ nhân như một cảnh mơ hồ. Phu nhân biết rằng những nhời nói không đủ dùng để giãi hết nỗi lòng vui vẻ của mình, nên chỉ đành nhìn Thái công một cách âu yếrn và cảm tạ vô cùng, truyền bằng luồng nhởn tuyến cho chồng những cảm giác thấm thía không thề truyền bằng lời nói được.
Hai ông bà cùng đồng ý dung tha cho người hành khất, cùng dắt tay nhau ra hiên gọi k?