← Quay lại trang sách

ĐỐI DIỆN THỰC TẠI

ĐỐI DIỆN THỰC TẠI

ừ hướng nhà thờ bên cánh trái, một bóng người vội vã băng dọc hè nhà xứ, ẩn hiện sau dãy cây cảnh vượt quá đầu người và được soi rõ khi đi ngang vùng sáng do ánh đèn néon hắt qua chiếc cửa kiếng lớn che màn trắng, đoạn bẻ quẹo góc thước thợ để chìm vào khoảng vàng mờ bên phải tỏa xuống từ mấy khung vuông trên trần rồi tiếp theo tiếng giập cửa, tiếng máy nổ, đèn bật sáng và bánh xe chuyển động giật lùi ra khỏi garage, vang động hầu như trong cùng một thời điểm. Vừa vượt qua chiếc buýt vàng dài thoòng cũ kỹ đậu dọc theo lề cỏ với vẻ âm thầm an phận do ánh sáng mờ nhạt yếu ớt cố soi thủng màn đêm từ mấy cột đèn nhỏ của bãi đậu xe nhà xứ chiếu tới nhưng vẫn sẵn sàng hùng hục rống lên khi có dịp được nhóm trẻ dùng làm phương tiện tới những cuộc họp bạn..., chiếc Toyota Camry sáu máy xanh nhạt màu nước biển hình như đã quen thói lượn ngược trở lại, quay đầu hướng về vùng sáng của hai dãy đèn đường nghênh ngang tỏa xuống từ phía trên cao, kéo lên khỏi mặt đất những con thiêu thân bay lượn tắm trong ánh đèn xén màn đêm thành khối hình phễu trắng chụp xuống.

Chận đầu con ngõ, đại lộ Louise chạy ngang trước cửa nhà thờ, mở rộng với bốn lane hai chiều chuẩn bị trong tình trạng báo động, đón tiếp những chuyện vội vàng có thể xảy ra bất cứ lúc nào dù sáng, trưa, chiều, tối hoặc ban đêm khi mọi người còn đang yên giấc. Đại lộ trải dài xem có vẻ an bình như con chiên ngoan đạo phủ phục trước ngôi giáo đường với hàng mái vươn rộng tựa cánh đại bàng luôn sẵn sàng chấp nhận và che chở những tâm hồn cần nguồn an ủi, đồng thời cũng là biểu tượng mang vẻ trang nghiêm đến độ khắt khe và lặng lẽ nhắc nhở bằng nét uy nghi đối với những tâm hồn không chịu nhận biết tính chất mỏng dòn thân phận con người. Vươn mình vượt cao khỏi những ngọn cây và mái nhà san sát chung quanh, tháp chuông đã chứng kiến bao cảnh buồn vui, rộn ràng náo động với nguồn sinh lực đầy phấn khởi hay tha thiết ăn năn của tâm hồn tín hữu được hướng dẫn bởi đức tin vào Thiên Chúa.

Ẩn nơi vẻ trang nghiêm biểu tượng đức tin ấy, một sức sống tiềm tàng bao gồm những công việc mục vụ cho một ngàn năm trăm gia đình Công Giáo, tổng hợp lại bởi đủ mọi giai cấp xã hội cũng như thành phần sắc dân và văn hóa. Thế nên hai tiếng mục vụ nghe nhẹ nhàng thơ mộng lại chẳng thơ mộng chút nào mà lắm khi nặng nề đến độ khiến người thi hành không muốn kéo lê thân xác. Một con bệnh hấp hối giữa đêm khuya trong tuyết trời băng giá; tiếng chuông điện thoại ré lên muốn xé màng tang được gọi từ nhà thương kèm theo lời loan báo có người hấp hối cần gặp linh mục nơi cửa miệng y tá đã quen đối diện với những cảnh bất thường đến độ thản nhiên, vang theo giọng đau thương than khóc của người thân bệnh nhân đang vây chung quanh vọng qua đầu dây bên kia; rồi kẻ này gặp tai nạn nguy hiểm đến tính mạng; người khác đứng tim; rồi... muôn thứ chuyện mà chỉ những thứ ít thấy bàn tán ở chốn dân gian. Cứ mỗi lần được tin báo có việc cấp cứu là đã thấy dáng dấp hối hả của linh mục hòa theo bóng xe vội vã lao đi tuần tự ăn khớp với diễn tiến có vẻ máy móc quen thuộc giúp cho một người một vật hội nhập công việc mục vụ.

Vừa ra khỏi bãi đậu, quẹo về phía phải xuôi chiều con lộ, cha Lành đưa tay nhấn nút đèn khẩn cấp, thêm áp lực chân ga, chiếc xe ngon trớn lao vút tới như bị ép buộc chạy đua cùng ánh đèn vàng nhấp nháy thúc đẩy phía sau. Trái ngược với sự vội vã của nhịp chân bước từ nhà thờ băng qua nhà xứ, tay trái ngài nhẹ nhàng xoay vô lăng cho xe lượn theo lằn sơn trắng uốn cong sát lề đường; tay mặt gắn điếu thuốc lên môi đoạn bật lửa. Ánh sáng lóe lên trong xe soi rõ nét điềm tĩnh chịu đựng mang thoáng chút ưu tư, nhưng đốm thuốc đỏ liên tục như hối thúc ngài phải nghĩ cho được cách ăn nói khi đến bệnh viện. Chú nhỏ mười hai tuổi học lớp năm nơi trường nhà xứ được cha khuyến khích tham gia hội giúp lễ đã là đầu giây mối nhợ cho ông bà ngoại trở lại đi nhà thờ. Bố mẹ chú li dị bỏ con cho ông bà và chia tay mỗi người một ngả. Đau lòng vì cảnh vợ chồng con gái tan vỡ khiến cháu bơ vơ, ông bà than trách Chúa và giận không tham dự Thánh Lễ, nay vừa nguôi ngoai trở lại nhà thờ; thế mà đùng một cái, tin gọi tới chú nhỏ bị xe đụng khó bề qua được...!

Nói gì và nói làm sao trong cảnh huống nghịch thường này? Câu hỏi quái ác cứ lởn vởn trong đầu từ khi bước ra khỏi cửa nhà thờ khiến ngài cảm thấy lòng xốn xang như ngồi trên lửa. Nghĩ mãi mà không biết phải nói thế nào nhưng chẳng sao tránh khỏi đối diện với thực tại nan giải bởi trước khi lâm vào tình trạng hôn mê, chú nhỏ yêu cầu ông bà gọi cha Lành... Ngài chỉ còn biết cầu nguyện. Chúa quan phòng nơi nao khi vừa mới trở lại đi nhà thờ đã gặp cơn thử thách đức tin lớn lao khó bề chấp nhận. Hai ông bà già chăm sóc đứa cháu... thế rồi tại ai khiến cho đứa cháu ra nông nỗi này? Tại Chúa phạt hay tại Chúa thử lòng? Đức tin nơi đâu khi cơn nóng sốt đau lòng ập đến không một giây phút chuẩn bị? Cha thấy miệng như ngọng, không biết phải nói gì khi chứng kiến thực tại oái oăm bỗng nhiên ập đến... Tới đâu thì tới, chỉ còn nước trông cậy vào Thánh Thần Thiên Chúa mở miệng dùm; ngài thầm thĩ cầu nguyện... Cầu cho chú nhỏ, cầu cho ông bà cụ đang gặp cảnh đau lòng...

Tiếng ồn của máy xe chạy như ngăn cản ý nghĩ nhưng không thể làm giảm bớt nỗi khắc khoải trong lòng người linh mục trẻ. Vẫn biết rằng đời người có sanh thì phải có tử nhưng khi đối diện cảnh thương tâm của thân nhân những người gặp nạn, lòng ngài cũng cảm thấy thống khổ biết bao... Mới cách đây ít lâu, đang đêm tiếng phôn cấp cứu từ nhà thương gọi tới:

- Tôi là y tá phòng cấp cứu nhà thương Ocean Springs. Tôi muốn nói chuyện với một linh mục.

- Tôi đang nghe.

- Một em bé rơi xuống hồ tắm khó có thể qua được. Xin cha tới ngay, gia đình của em nhỏ rất cần cha.

- Tôi sẽ tới ngay. Xin chào.

Mấy người lái xe không biết điều; mình đã bật đèn cấp cứu mà họ không thèm tránh lại cứ tà tà đi sánh đôi với chiếc xe chậm như rùa lane bên phải... Lại đèn đỏ..., sao hôm nay đỏ nhiều dữ vậy?... Nơi cửa cấp cứu, mấy nhân viên công lực tránh dạt sang hai bên khi thấy cha Lành chưa đậu xe xong đã mở bung cửa bước ra ngoài quên cả tắt đèn. Một nhân viên cảnh sát đưa tay ra hiệu đèn xe đang chớp; ngài đưa luôn cho ông ta chùm chìa khóa khi vội vã bước ngang miệng kèm theo tiếng "Please". Tại sao có cả bà cảnh sát trưởng ở đây? Chợt nhìn thấy bà cảnh sát trưởng, cha Lành tự hỏi, chắc phải là chuyện quan trọng lắm.

Màu trắng đồng phục của các y tá di động vội vàng hòa nhập vào màu trắng xám của vách tường nhà thương gợi nơi cha sự liên tưởng đến những bóng ma trơi trong những truyện ma hay liêu trai chí dị mỗi khi bước vào khu vực cấp cứu. Ở chốn tranh dành giữa sự sống và sự chết này, hình như ai nấy cố tránh gây ra tiếng động ngay cả đến lời nói để thay thế vào đó là những cử điệu vội vã, gọn ghẽ chạy đua với tử thần. Những bóng trắng đi lại ngang dọc bất chợt hiện ra từ những cánh cửa có ghi "Cấm người vô phận sự" trộn lẫn vào cái thinh lặng nơi phòng cấp cứu tự nhiên đã tạo nơi mọi người cảm giác trầm trọng. Thi thoảng những tiếng hét hay rên rỉ vọng lại từ một ngõ ngách nào đó nghe rất gần nhưng không thể xác định bởi các hành lang nhỏ chằng chịt xuyên ngang qua lại thúc đẩy người ta có cảm tưởng bị lọt vào chốn diêm vương tra khảo hoặc kề cận cõi ngục tù ăn năn... hòa lẫn mùi ê te ngây ngất khiến lòng ruột lộn lạo tựa bị ngộp mùi tử khí làm con người như bị đe dọa chiếm mất năng lực cầu sống, tạo thành cảm giác muốn vượt thoát, chạy trốn.

- Tôi muốn gặp thân nhân em nhỏ chết đuối. Cha lành nói với một y tá đang vội vã bước ngược chiều.

Chị y tá miệng vẫn im lìm, đưa tay làm hiệu cho ngài đi theo vào một hành lang hẹp ăn thông với hành lang chính đoạn đưa tay chỉ nơi một khung cửa hắt ra thứ ánh sáng vàng nhạt của đèn tròn. Phòng đợi đặc biệt cho thân nhân cấp cứu không được rộng lắm nên bẩy, tám người ở trong đã khiến ngài có cảm tưởng chật cứng. Người nào người nấy mang đầy vẻ u sầu đến độ ngơ ngác dẫu cố ra vẻ trầm tĩnh nửa đợi chờ, nửa không muốn thấy bác sĩ hay y tá trực; họ e bị nghe tin dữ làm thất vọng do cảm giác hãi sợ không muốn chấp nhận sự việc đã xảy ra... sự chết.

- Xin chào quí...

Cha Lành vừa nói đến đó thì bỗng tiếng chân vội vã, dồn dập nổi lên và một bà tuổi cỡ ngũ tuần xồng xộc lao vào:

- Cháu tôi đâu, cháu tôi đâu?

Bà chồm người tới và hai tay nắm hai bả vai một bà mập mạp đang ngồi, đẩy qua kéo lại miệng tiếp tục la hỏi giọng vươn cao chói lói... Cháu tôi đâu... cháu tôi đâu...? Chẳng biết từ lúc nào, y tá đẩy chiếc xe lăn trên đó một thiếu phụ còn khá trẻ nét mặt thất thần vừa trờ tới lọt qua khung cửa. Bà tuổi ngũ tuần bỏ bà mập, quay qua ôm thiếu phụ xụt xịt...

- Tôi đã giết con tôi... tôi đã giết con tôi...

Thiếu phụ đang im lặng ngơ ngác, chợt trông thấy mẹ chồng bỗng co người lấy sức hét lên. Giọng thiếu phụ trẻ tựa hàng loạt những mũi giáo đâm xuyên vào tim óc mọi người khiến ai nghe thấy cũng có mặc cảm phần nào mình có liên hệ đến cái chết của đứa trẻ không có mặt.

- Tôi đã giết con tôi... tôi đã giết con tôi... Khốn nạn cho tôi... tôi không đáng sống... Tôi đã giết con tôi...

- Tên chị ta là gì? Cha Lành quay qua hỏi một người đứng gần.

- Linda. Con dâu bà Hilda.

Đưa tay kéo bà mẹ chồng sang bên, ngài học theo bà, hai tay lắc vai người thiếu phụ miệng cất giọng rõ ràng chậm rãi:

- Linda!... Linda!... Ai cho chị quyền kết án như thế? Sự sống hay chết không thuộc quyền của bất cứ ai..., chỉ mình Chúa mới có quyền... Chính sự sống của chị, của tôi, của mọi người đều tùy thuộc vào Chúa... Chúa đã gọi em nhỏ về với Ngài; đó là quyền của Ngài; chúng ta không có quyền giữ lại...

- Vâng, vâng, sống hay chết tùy Chúa.

- Chị lặp lại theo tôi: Sự sống thuộc quyền của Chúa.

- Sự sống thuộc quyền của Chúa.

- Chúa gọi con tôi về với Ngài.

- Chúa gọi con tôi về với Ngài.

- Tôi xin dâng con tôi cho Chúa.

- Tôi xin dâng con tôi cho Chúa.

- Chính ngay mạng sống của tôi,

- Chính ngay mạng sống của tôi,

- Cũng thuộc về Chúa.

- Cũng thuộc về Chúa.

- Tôi xin phó thác con tôi cho Chúa.

- Tôi xin phó thác con tôi cho Chúa.

- Chúa biết tôi thương con tôi.

- Chúa biết tôi thương con tôi.

- Nhưng Ngài cất lấy,

- Nhưng Ngài cất lấy,

- Tôi phó thác con tôi cho Ngài.

- Tôi phó thác con tôi cho Ngài.

Trấn an con dâu chưa xong, bà mẹ chồng đã gào lên:

- Tôi đã bảo ông ấy lấp cái hồ đi... hoặc rào nó lại..., giọng bà kéo dài, nhấn mạnh, mà ông ấy cứ để vậy, nói không sao... Tôi đã bảo lấp nó đi... lấp nó đi..., giọng bà cao hơn, mà ông ấy không nghe tôi để đến bây giờ, bà trở nên ai oán, rung rung nghe muốn đứt ruột, cháu tôi rơi xuống chết thảm thương... Cháu ơi... cháu ơi...!

Con dâu vừa nguôi ngoai bây giờ lại đến mẹ chồng. Mẹ chồng không dám la mắng con dâu bởi vừa nghe cha nói chị ta lập lại lời xác tín quyền năng của Chúa bèn đổ lỗi tại chồng không chịu lấp hồ bơi để đứa trẻ té xuống chết đuối... Cha Lành quay qua, nắm chặt bàn tay của bà, nhẹ giọng nhưng từng tiếng rõ ràng:

- Bà nói gì? Nếu bây giờ Chúa muốn bà chết thì tại ai? Chúng ta đã không có quyền đụng đến sự sống thì sự chết không tùy thuộc bất cứ ai. Tôi nói lại, giọng ngài nhấn mạnh, chúng ta không có quyền đổ lỗi tại ai cả và càng không có quyền kết án chính mình. Chúa nắm giữ quyền đó; không ai dành với Ngài được. Bà có tin không?

- Con tin, con tin, Chúa lấy mất cháu của con; Chúa gọi cháu con về với Chúa...

Khi lòng mang nặng nỗi thống khổ do sự kiện mất mát người thân, ai cũng tiếc nuối và không muốn chấp nhận sự việc đã xảy ra bởi người thân là phần nào cuộc đời của chính mình. Trường hợp sự mất mát bao gồm dù chỉ phần nhỏ sự kiện dây dưa đến mình trong giả sử được thêm chữ nếu..., nếu đã thế nọ, nếu đã không thế kia, khơi động tạo thành mặc cảm tội lỗi khiến con người tự lên án chính mình hoặc đổ lỗi cho kẻ khác bằng cách viện đủ mọi lý do để móc vòng liên kết cho thuận lý... Xét theo phương diện tâm lý, trường hợp một người lên án chính mình một cách sai lầm sẽ đem đến hậu quả khốc hại nhiều khi ảnh hưởng cả một đời người bởi mặc cảm tội lỗi không bao giờ được tha thứ. Làm sao để giúp mẹ đứa bé và bà mẹ chồng xóa hai bản án nặng nề này cả là một vấn đề cam go trong khoảng thời gian quá giới hạn được lồng nơi khung cảnh lộn xộn đủ mọi phiền hà dồn tới vì khi tâm hồn đối diện với ngõ cùng, người ta mới kết án chính mình... Tuy nhiên, may mắn thay hãy còn có Chúa và đức tin nơi sự quan phòng của Ngài. Chính những thời điểm đối diện với ngõ cụt lại là lúc đức tin mang lại niềm an ủi cho con người nhiều nhất... Chỉ có đức tin mới đem lại an bình. Cha Lành cảm thấy ngọng miệng nơi cảnh đau thương mà vẫn nhận ra điều may của dân Chúa... Đức tin là phép lạ chữa lành nỗi thống khổ dân Ngài...

Tiếng máy chạy đều, hòa lẫn âm thanh bánh xe cắn vào mặt đường chuyền lên thân kiếng đóng kín theo chiều nhấp nhô hay uốn cong của mặt đường tráng nhựa du cha Lành bồng bềnh trở về với dư âm ngày cũ... Nửa đêm, con lộ vắng thênh thang trải dài giữa hai hàng đèn đường song song nối tiếp tỏa ánh sáng vàng ngọt gợi nơi ngài hình ảnh thân thương những cuộc rước đèn trung thu hoặc Giáng Sinh đón tiếp Chúa Hài Đồng ngày xưa khi còn nhỏ. Những đốm sáng nối tiếp nhau quệt dài mặt kiếng do phản chiếu ánh đèn trên cao khi xe chạy ngang kéo về muôn màu sắc xanh xanh, vàng, đỏ của những tấm lồng đèn phất giấy mầu ngày xa xưa, mập mờ tỏa sáng do ngọn nến bên trong lượn quanh đây đó, soi những nét mặt rạng rỡ, đơn sơ của đám trẻ giữa đêm tối trời ngày Giáng Sinh. Ngày ấy, những dãy đèn treo nơi tiệm tạp hóa đua chen khoe màu sắc đã tạo nơi chú bé Lành sự náo nức và ước muốn của tâm trạng con nhà nghèo thèm có được một chiếc, dù nhỏ nhất, để cùng chúng bạn nhập bầy trên những đường làng luồn lạch dọc ngang thôn xóm tựa con rắn sáng trườn ngoằn ngoèo. Lớn hơn một chút, chú bé đã biết tự làm đèn và chia phe thi đua với chúng bạn để rồi có năm vừa mới qui tụ nhau đi rước, một chiếc đèn bốc cháy và lũ trẻ tinh nghịch hè nhau đốt tan hơn nửa số lồng đèn trong đó có thân phận hẩm hiu của ngôi sao suốt một ngày chú hì hụi buộc khung phết giấy... Tiếng thở dài bật khỏi miệng; ôi những ngày xưa thân ái, và bây giờ dân mình ra sao nơi mảnh đất quê hương dấu yêu!

Niềm vui thơ ấu ấy thường trở lại nơi tâm trí mỗi khi ngài có cảm nghĩ lạc lõng giữa rừng người khác tập quán, ngôn ngữ; nó được gợi về do một vài tính chất hay khía cạnh tương đồng nho nhỏ của thực tại đang sống. Niềm vui thơ ấu, không có tâm tưởng nào sâu đậm hơn và cũng không có hình ảnh nào sống động hoặc êm dịu hơn có thể thay thế được kỷ niệm ngọt ngào ngày còn tấm bé do tính chất ngây thơ chưa bị pha trộn bởi bất cứ cảnh đời phiền muộn nào, vì càng lớn dần, niềm vui vô tư ấy càng giảm bớt để khuôn đúc thành những kỷ niệm ươm mơ dễ mến bị cô lập bởi những liên hệ, đụng chạm với thực tại cuộc đời. Lúc này, những hình ảnh ngày ấy linh động gợi lại bao nhiêu, hàng đèn đường mang dáng dấp đối nghịch, cô độc lặng lẽ bấy nhiêu. Nơi đất Mỹ, việc ai người nấy làm; cơ cấu xã hội được điều hành bởi những bộ óc lý luận đã biến con người thành những chiếc máy biết giao tế, phân công và rồi khuôn mẫu thi hành nhiệm vụ mong sao cho cơm no áo ấm; có gì khác chỉ được kể niềm vui giới hạn nơi đơn vị gia đình do ảnh hưởng bởi chủ thuyết cá nhân chủ nghĩa. Người ta đấu tranh đòi cho được quyền tự do và ngăn cản kẻ khác ảnh hưởng đến mình nhưng đồng thời lại tự nhốt kín mình trong bức tường vô hình cô lập được bảo vệ bởi quan niệm và luật pháp. Nơi xã hội Mỹ, càng những ngày lễ tết phố xá càng vắng hoe ngược hẳn với lối sống dân mình. Đối với người Việt, lễ tết là những ngày ở nhà thăm hỏi, qua lại anh em hoặc hàng xóm láng giềng; trái hẳn với lối sống thân tình này, người Mỹ chẳng biết đi đâu nên kiếm đường chạy trốn mong khỏa lấp thực tại phải đối diện với khoảng trống tình người. Làm việc nơi giáo xứ Mỹ, cha Lành nhiều khi cảm thấy niềm đau cô lẻ của một xã hội mà sự liên hệ có vẻ máy móc tựa như giờ đây lái xe độc hành trên con đường hoang vắng, ngơ ngáo hai bên, đôi dãy đèn đường.

Lao giữa những luồng mây trắng xám trên đầu ngọn cây, vầng trăng hạ tuần bay bay, chập chờn thêm sức sáng cho ánh đèn, đôi khi biến mất sau những tàng cổ thụ cao lớn tạo nên khoảng tối đen đặc ôm sát khối lá âm thầm lặng lẽ giữa màn đêm làm ngài có cảm nghĩ liên tưởng tới thân phận người dân Việt nơi phía bên kia nửa quả địa cầu. Thiên hạ ở đây đua chen làm ăn; sự giàu có thể hiện cả trên nét mặt khiến họ tươi vui; dân mình như sống trong bóng tối của lùm cây phía không có ánh trăng! Năm năm sau ngày quê hương bị đổi chủ, nơi vùng kinh tế mới, ngài đã hòa mình với con dân ráng sống qua từng giây phút trong hoàn cảnh sinh hoạt thấp kém, thấp đến tận cùng nghèo nàn của kiếp người. Miếng ăn không có thì nói chi đến điều kiện tư tưởng, văn hóa. Nơi đây, con đường hun hút nằm nghỉ ban đêm cũng được hàng đèn soi sáng; còn dân mình, ngày nao mới có được cuộc sống vươn lên theo kịp với đà văn minh nhân loại!

Trên lưng chừng đoạn dốc dẫn tới khúc đường cong lọt giữa hai hàng cây, cha Lành mang cảm giác mình đang đuổi bắt mặt trăng nằm le lói bên kia bụi rậm xuyên qua cành lá vài đốm mờ nhạt; mình có đang đuổi bắt mơ ước nào không, ngài thầm nghĩ. Là linh mục, làm việc ở đâu thì cũng cùng với dân Chúa... nhưng đây là xứ Mỹ... nơi mọi người mắt xanh da trắng, lọt vào một mình ngài người Việt. Lạc lõng! Không. Cô đơn! Không. Hình như thiếu tâm tình xa vắng nào đó khó đem phân tích mà chỉ có thể cảm nhận. Giữa rừng người cao lớn đứng kín những dãy ghế dài nơi nhà thờ, lẽo đẽo một thân hình bé nhỏ đi sau chót nhóm giúp lễ. Có chú giúp lễ hơn hẳn cha một cái đầu... Những buổi liên hoan, dạ vũ, một mình ngài ngơ ngác như bị nhấn chìm bởi luồng âm thanh chói lói của nhạc "Rock and Roll," những tiếng đờn base như sấm nổ phóng ra từ các giàn loa khổng lồ với nhạc "Disco." Nét êm dịu thướt tha đến mơ hồ, chất ngất tâm tình của những mảnh hình hài mang dòng máu Việt được phổ qua âm nhạc nơi đâu khơi vọng khiến cảnh dồn động âm thanh ở đây trở thành thô kệch!

Có nhiều người nói làm việc với Mỹ khỏe hơn làm việc với người Việt; làm việc với Mỹ hết giờ tha hồ đi chơi; người Mỹ không đa sự, phiền hà như người Việt... Cha Lành mới đầu chỉ im lặng không ý kiến. Sau này nghe quá nhiều, ngài thường hay trả lời với câu nói ngược:

- Ông nói đúng vì có thể người Mỹ trả tiền thuê mình ở không.

- Thế sao cha có vẻ lè phè, chả thấy làm gì?

- Ông nghĩ coi, không làm mà xong công việc mới hay, chứ cứ phải làm mới xong thì chuyện đã thường!

- Con thấy sao các cha khác, cha nào cũng than là bận rộn tối mặt mà cha thì lại có giờ đi chơi, viết lách lung tung.

- Thì tôi đã nói rồi, có lẽ ông quên vì nào ai thuê mình làm kiểng để ngắm đâu. Quí ông quí bà đi làm cho người Mỹ nào ai lạ gì; kiếm được đồng bạc của họ cũng phải trầy da tróc vảy, trần thân làm lụng chứ dễ chi; suy vậy là có thể biết ngay. Còn sao có giờ viết thì mọi chuyện hãy lo hết trong ngày, 8 giờ tối ngồi vào bàn viết và 12 giờ đêm hãy đi ngủ; sáng 5 giờ dậy ngồi tiếp thì sẽ có giờ!

- Cha không ngủ à?

- Mỗi đêm tôi ngủ những năm tiếng...

- Năm tiếng sao đủ?

- Sách tướng có câu: "Ngủ nhiều thì thiếu minh mẫn." Nói vậy thôi, muốn có được cái này đành chấp nhận mất cái kia. Chúa cũng chẳng có được hết mọi sự Ngài muốn! Nếu có ai cứ muốn mà được, có lẽ Chúa cũng thích làm người đó...

Nơi đất nước này, tiền là trên hết. Cha làm việc không được, họ không trả lương hoặc quăng đồ ra khỏi nhà xứ. Người ta đánh giá trị con người cũng bằng tiền bạc, bằng công việc làm lương cao hay lương thấp hoặc bằng tài sản người ấy có được. Không thế mà khối người vay chạy để mua nhà cho to, tốn tiền trang trí cho sang và sắm xe mắc tiền hầu mong kiếm chút cảm phục bên ngoài. Có người bạn hỏi con trai anh ta mới lên chín tuổi rằng có muốn đi tu không. Đứa bé quay qua hỏi cha Lành lương tháng được bao nhiêu. - "Sáu trăm đồng." - "Cheap! No, I don't." Thằng bé điềm nhiên trả lời.

Chưa coi sóc cộng đồng người Việt bao giờ, cha Lành không muốn có bất cứ xét đoán gì về vấn đề làm việc với họ. Dĩ nhiên, nơi nào lại không có thánh giá, và cũng đâu ai trả lương cho người ở không. Ai dám chân thành đối diện với thực tại nội tâm đều nhận ra rằng cho dẫu thế nào chăng nữa mình cũng chỉ là một con người đầy giới hạn bao gồm nhiều đức tính tốt, lẫn không ít điều khó chấp nhận. Thử hỏi đã biết bao lần quyết định sẽ thế này, sẽ thế kia, nhất quyết từ bỏ thói quen này tật xấu khác hay giận mình đến muốn khùng lên được vì cứ vấp phải điều mình muốn từ bỏ mà đã bao ngày tháng lần lữa trôi qua hãy còn chứng nào vẫn tật nấy nói chi đến chuyện làm việc với bao nhiêu người nơi một cộng đồng hay xứ đạo. Bình thường, người ta chỉ ước muốn điều họ chưa có hay có chưa đủ hoặc khuyên người khác điều không bao giờ thực hiện bởi có thực hiện được đã chẳng ai khuyên vì nghĩ mình có thể làm được kẻ khác cũng có thể toa rập theo. Nơi một họ đạo hay cộng đồng ô hợp những cá tính khác biệt không trông mong hòa đồng mà nhiều trường hợp lại còn xung khắc thì làm sao không nảy sinh lắm chuyện bất đồng. Ai không muốn trở nên tốt thế sao vẫn còn nhiều người bị bình phẩm là chẳng ra gì? Ai không muốn giầu có sao đã bao nhiêu năm tháng cố gắng ăn chắt để dành và làm lụng cực khổ mà vẫn nghèo. Làm việc chung đụng cũng vậy, ai cũng muốn thành công; ai cũng muốn thực hiện những ý kiến tốt lành thế mà chính những ý kiến tốt lành nhiều khi đã chẳng có cách nào xếp đặt cho hòa hợp với nhau, trái lại lắm lúc gây nên nhiều điều đối nghịch không phương hòa giải. Tuy thế, ngài vẫn thắc mắc tại sao người ta cứ nói làm việc với Mỹ dễ hơn. Tại sao lại có câu "Thà chăn dê Mỹ còn hơn chăn chiên Việt?" Tại người Mỹ dễ hơn hay tại người Mỹ ý thức hơn? Cho dù đặt ra bao nhiêu câu hỏi thì cũng không thể nào có được câu trả lời toàn vẹn vì xét về thực tại cuộc sống chưa chắc ai hơn ai kém. Đối với người Mỹ, nói đụng đến họ, họ la toáng lên hoặc gọi giám mục. Họ muốn rửa tội cho con trẻ tuần này mà không cho, bắt phải tuần sau là có chuyện. Vấn đề giúp việc nhà xứ, đọc sách nhà thờ, năn nỉ sôi hơi bỏng cổ chưa chắc đã có người làm... Còn vấn đề ý thức hơn? Người Mỹ làm theo nguyên tắc; sáng kiến coi như không có nơi giới bình dân... việc gì họ chưa bao giờ làm, họ không dám thử. Người Việt, ngược lại, đọc Sách Thánh là niềm vinh dự góp phần vào việc phụng thờ tế lễ. Giúp việc nhà xứ, cứ thử nhờ coi, người giúp nhiều hơn công việc... Những chuyện gì mới chưa bao giờ đụng tới, người Việt thừa gan thử tới luôn, dám thử đến độ đôi khi lợn lành chữa thành lợn què là đàng khác... Dám thử, tất nhiên nhiều sáng kiến!

Có người lại cho rằng người Mỹ cho tiền nhà thờ nhiều hơn người Việt. Thực ra, một nhà thờ Mỹ phải bao nhiêu năm mới trả xong nợ? Người Mỹ đâu có thói quen để dành tiền bởi xưa nay đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong cơ cấu điều hợp xã hội vững vàng; đi làm được trả tiền hàng tuần nên biết rõ ngày nào có tiền và có bao nhiêu. Hơn nữa, thú tiêu tiền của con dân mắt xanh mũi lõ được giới thương mại cổ võ tới mức tối đa nhiều khi đến độ tạo thành quen tay hay cố tật. Ai có liên hệ nhiều với người Mỹ đều thấy rõ; nhiều đồ vật hay quần áo dân xứ văn minh này mua theo hứng, mới mua hôm nay, ngày mai đã không biết mua để làm gì và tại sao mua. Quần áo nhiều khi họ mua về định mặc rồi bỏ quên, đem cho thì ngại, quăng đi thì tiếc đành chất đầy tủ và không bao giờ đụng tới bởi không còn hợp thời trang. Người Mỹ còn một thú đốt tiền khác là đi ăn tiệm; hình như họ sợ nếu để tiền trong nhà băng hay trong túi vài ngày là tiền bốc thành hơi biến mất nên phải tới tiệm ăn cho chắc bụng tránh nạn lo âu không có cơ hội xài. Nào ai lạ gì, đi tiệm ăn, của một đồng trả gấp năm và tiền típ, tiền bia, rượu được tính với giá cắt cổ. Một chai rượu tây như Remy Martin giá ba mươi mấy đồng thế mà nơi tiệm ăn, bẩy đồng một ly chỉ vừa hai hớp (các cụ gọi là tợp), thử hỏi một chai rượu như thế được bán ra bao nhiêu ly thì còn đâu là tiền. Tiêu pha, xài phí như vậy được lồng trong một xã hội khuyến khích càng chi phí kinh tế càng phong phú (bởi không tiêu sao có kẻ hốt được tiền của mình), một nhà thờ Mỹ nếu xây cất ít nhất phải mang nợ trung bình 30 năm vì thế cha xứ tha hồ gân cổ ra mà gào. Cha nào khôn, đẩy được cho hội đồng giáo xứ thì khỏe, tóc lâu bạc hơn. Cha nào sốt sắng lo món nợ nhà thờ lại bị dân kêu ca: "Lời Chúa không giảng chỉ gào tiền."

Những nhà thờ của người Việt thì sao? Nói rằng người Việt không cho tiền nhà thờ thế sao ở Việt Nam, dân thì nghèo mà nhà thờ cứ sửa; có nơi thánh đường vẫn còn tốt, khang trang mà phá ra làm lớn hơn vì quá chật, chứa được ít người đến nỗi không đủ chỗ giáo dân đứng. Tại sao cho và tại sao không cho? Phải có điều gì bất ổn khiến lòng quảng đại của dân chúng bị đóng lại. Ai đóng và làm sao có thể mở? Cả muôn ngàn câu hỏi về thái độ cũng như nghệ thuật lãnh đạo trộn lẫn, cần sự phân tích đặt vấn đề để giải quyết mong tìm ra nguyên tắc và lối hành xử. Có phải sự rộng rãi nơi giáo dân tùy thuộc sự giầu có của họ? Nếu nói về sự giầu có, trong dân gian được mấy người cho là mình giầu mà có chăng chỉ thấy luôn luôn túng thiếu. Thực tế cho thấy, kẻ giầu có chưa chắc rộng rãi tấm lòng vì không chắt bóp để dành sao có! Hơn nữa, thói quen cần kiệm dè sẻn sẽ ngăn cản sự rộng tay. Nhìn xa hơn, số gia đình khá giả nơi một cộng đồng chẳng được mấy người, có khá lắm thì cũng như muối bỏ biển so với đại đa số dân chúng. Người xưa có câu: "Kiến tha lâu cũng đầy tổ;" sự đóng góp khá hay không như vậy tùy thuộc vào phần đại đa số dân nghèo chứ giầu mà chẳng cho thì cũng như cuội. Có nói thế nào chăng nữa thì đâu cũng thế và nếu sự việc dễ dàng ai cũng có thể giải quyết được thì cần chi linh mục... Nguyễn Du đưa ra nhận xét khá thấm thía khi viết: "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay." Đứng ngoài mà tưởng tượng hay đề nghị hoặc thắc mắc, ai không có thể đặt vấn đề; có lẽ họ quên lời ông bà mình nói: "Có ở trong chăn mới biết chăn có rận."

Thử nhìn nhận một cách chân thành mong tìm được nguyên nhân đem đến sự thiếu hụt, nói cách khác, thiếu sự đóng góp của đại đa số dân chúng. Nếu cho rằng dân vì quá nghèo không giúp góp là một điều phi lý. Người ta nghèo vì bạc trăm bạc ngàn chứ không ai nghèo vì vài đồng lẻ. Nếu một tuần, một người không cho nhiều, chỉ một giờ đi làm theo tiền công căn bản hơn bù kém bốn đồng thì ít nhất năm trăm người đã cho được hai ngàn và như vậy cộng đồng có năm trăm người đi làm đã ủng hộ được những tám ngàn trong một tháng. Bốn đồng một tuần so với người đi làm không thể khiến cho họ nghèo hơn được; cùng lắm họ chỉ bớt đi bốn lon bia... Như vậy lý do nào khiến họ không cho tiền nhà thờ? Có bận ghé qua thăm một linh mục người Mỹ, nhân nói chuyện về sự đóng góp của giáo dân, ngài bày tỏ phần nào sự hiểu biết về tâm tính của người Việt vì đã sống với họ hơn một năm khi làm cha xứ nơi nhà thờ có cộng đồng người Việt dự lễ.

- Dân Việt các ông, nếu hiểu họ, chỉ cần sống sao cho họ thông cảm; họ có thể cắt tay hiến máu cho mình.

Ngay thẳng mà xét, làm việc với người Công Giáo tự nhiên đã có một lợi điểm mà các đoàn thể dân chúng khác khó có thể có được đó là đức tin. Vì đức tin, họ sẵn sàng hy sinh thời giờ và tiền bạc; vì đức tin họ chấp nhận những thua thiệt ngay cả đến những điều ong tiếng ve bởi người khác hiểu lầm hoặc vì lý do bí ẩn nào đó được tạo dựng để xúi bẩy dư luận... Chỉ mới sống với người Việt hơn một năm trong trách nhiệm cha xứ, sao linh mục Mỹ có thể nói lên được lòng rộng rãi của nhóm dân Việt tại đó. Như vậy, những trắc trở nào đôi khi đã biến họ thành khó khăn chật hẹp? Có phải thiếu đắc nhân tâm? Yếu tố nhân hòa bởi đâu không có để đến nỗi biến những người sẵn sàng cắt tay hiến máu trở nên bất cần, dửng dưng?

Hiểu họ hay họ hiểu? Bình tâm nhận định, người Việt rất rộng rãi khi nhu cầu được nhìn thấy tận mắt. Nào ai chật hẹp, khó khăn không rộng tay ủng hộ tiền bạc trong những dịp mở lễ Giáng Sinh, Phục Sinh, hoặc tổ chức lễ quan thày hay văn nghệ văn gừng vào dịp lễ tết. Tuy nhiên, có những nhu cầu nơi đất Mỹ khác hẳn bên Việt Nam lại chẳng mấy ai để ý vì có bao giờ họ rơi vào tình trạng đó đâu! Có công bố nơi nhà thờ hoặc trên tờ mục vụ thì giỏi lắm người ta chỉ lướt qua nào đâu ai cần biết. Một nhà thờ nơi đất Mỹ, tiền bảo hiểm mắc hơn khu thương mại; chẳng hiểu tại sao, có lẽ các chủ hãng bảo hiểm nghĩ rằng nhà thờ có tiền dân chúng cho nhiều nên tha hồ chém. Nào lụt, nào cháy, nào tai nạn bất thường... Thế rồi còn sửa chữa! Đâu có gì đứng vững trường cửu với thời gian giữa mưa nắng nóng lạnh bất thường thay đổi ngày này qua ngày khác trên trái đất... Nào ai có thể nghĩ được mỗi tháng bảo hiểm chém tới hai ngàn... Tuy nhiên, đừng tưởng thế đã nhiều vì đâu có cha nào sợ bảo hiểm... Các ngài sợ cái nút nhỏ xíu gắn nơi phòng áo... Mỗi lần đưa tay đụng tới là ruột đau con xót... Cái nút điện máy lạnh...! Thật vậy, sợ thì có chi mà sợ nhưng vấn đề lại là tiền đâu để trả.

- Thưa cha, xin cha cho mở máy lạnh từ sáng vì ngày mai nóng lắm... để đến trưa khi nhà thờ đã nóng rồi mới bật không thể mát được đâu thưa cha.

- Không sao đâu bà, chỉ cần bật trước hai tiếng đủ lạnh rồi, để máy lạnh chạy từ sáng cũng không thể lạnh hơn đâu bởi đã có đồng hồ giới hạn nhiệt độ.

- Nếu cha bận, con sẽ đến nhà thờ lúc 9 giờ cho máy chạy.

Cha Lành nghĩ, vâng thưa bà tôi biết chứ! Đám cưới con bà cả đời chỉ có một lần nên ai không muốn có những giây phút thoải mái. Tôi lại càng muốn cho con chiên thoải mái hơn để tham dự Thánh Lễ sốt sắng. Hơn nữa, mặc dầu thực tế là đám cưới của đôi trẻ nhưng bao gồm chẳng những cả hai gia đình mà còn họ hàng và bạn bè thân quen cũng như những người có liên hệ làm ăn. Cứ sự việc đã xảy ra mà xét, bà đã thấy ai kêu ca về máy nóng máy lạnh đâu. Tôi còn biết rằng đến nhà thờ mà phải chịu nóng nực, giáo dân không muốn đến nhất là những người khách lạ. Thế rồi một đồn mười, mười sẽ đồn trăm thì nhà thờ chỉ còn nước bỏ trống và cha cũng không còn đất dung thân. Tuy nhiên... Cha Lành thở dài! Bà đâu có biết đã nhiều lần cha xứ nhăn nhó; đến ngay như thứ sáu đầu tháng chầu cả ngày mà ngài dặn đi dặn lại chỉ mở máy lạnh từ 10 giờ đến 12 giờ trưa và từ 2 giờ chiều tới 4 giờ. Bà đâu có bao giờ nhìn thấy chiếc bill dài thoòng bốn con số dẫn đầu bằng con số 2 tiền điện. Bà đâu có hiểu với hệ thống chín mươi ngàn CBU mỗi lần ré lên là tờ ba số tan thành không khí. Bà đã bao giờ nghĩ công lao làm lụng vất vả cả ngày được mấy phút lạnh không? Máy chạy từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều mới ngưng vị chi 6 tiếng, cả tuần lương kỹ sư trả chưa đủ đâu... Nghĩ thế nhưng ngài lại phải mở miệng trả lời một cách ôn hòa:

- Bà yên chí, tôi sẽ bật máy lạnh và nếu bà không yên tâm, trưa gọi điện thoại nhắc tôi, khỏi phải mất công đến nhà thờ... Lễ cưới mãi 2 giờ chiều cơ mà!...

- Xin cha cứ bật máy lạnh cho con, con sẵn sàng chịu tiền điện.

Khổ ơi là khổ, cha Lành than thầm, đồng ý là cứ có tiền thì mua tiên cũng được. Bà trả tiền điện chạy máy lạnh là chuyện nhỏ nhưng nào ai biết đấy là đâu mà vấn đề là tại sao người này thì được ưu tiên mà người khác không; và dẫu máy lạnh chạy liên tục cả tháng thì cũng có lạnh hơn đâu nhưng lỡ bà vô tình nói ra lại là điều bất công cha phải chịu. Xưa nay giáo xứ đâu có lấy thêm tiền điện ai! Đã có xứ mỗi đôi hôn nhân phải trả hai trăm năm mươi đồng nhưng lệ đó được đặt ra để ngăn cản người xứ khác đến xin mượn nhà thờ. Đàng này, đối với giáo dân nếu chấp nhận chi thêm tiền điện người ta sẽ kêu là phải thuê nhà thờ! Không làm như thế được, bà du tôi vào thế lưỡng đầu thọ địch, giống chiếc lưỡi bị kẹp bởi hai hàm răng...

- Giáo xứ không đòi tiền điện thêm của những đôi hôn nhân thì bà không phải trả. Tôi bảo đảm với bà nhà thờ sẽ mát lạnh; như vậy bà đã yên lòng chưa?

- Vâng, con cảm ơn cha, xin phép cha.

- Xin chào bà...

Có những lần đi thăm giáo dân, ở nhà họ thì nóng nực kèm thêm mùi thức ăn, mùi thảm lâu ngày quên giặt gặp khí trời hâm hấp bốc lên thế mà chẳng sao, tới thánh đường lại cứ muốn rét với lạnh... Thật khó ăn khó nói; có nhắc nhở, nói đụng đến tiền thì "Cha chỉ nên giảng Phúc Âm" hoặc "Chúng tôi đi lễ nghe Lời Chúa chứ không cần nghe đến tiền bạc..." Có một bà, cha xứ đứng trên tòa giảng vừa khuyến khích giúp tiền địa phận, đứng ngay lên ngoe nguẩy ra về. Vài hôm sau vô tình cha Lành gặp lại,

- Hôm chủ nhật chắc bà mắc chuyện gì phải về sớm?

- Con không muốn nghe về tiền bạc nơi nhà thờ. Con đi lễ nghe giảng Lời Chúa; vấn đề tiền bạc cứ cho chúng con biết và để chúng con lo.

- Thế cho biết bằng cách nào bây giờ?

- Thì đăng trên tờ mục vụ và cho người nói trước lễ.

- Lối nào thì cũng nói ở nhà thờ. Hơn nữa, có phải tiền cho cha xứ đâu, tiền địa phận xin giúp truyền giáo mà...

- Nhưng các cha không nên nói tới tiền bạc...

Thì có cha nào biết và muốn nói về tiền bạc đâu bởi trường thần học không ai dạy làm tiền. Hơn nữa, nói đụng đến vấn đề này bao nhiêu đều bị giáo dân chán ghét bấy nhiêu và dù có nói mấy chăng nữa lương cũng không hơn được nửa xu. Mỗi lần nói đến tiền bạc nơi nhà thờ là thêm một lần mang họa, là thêm những điều dị nghị xì xèo nhiều khi trở thành nói cạnh nói khóe cha tham tiền, vậy mà vẫn phải nói! Rõ khổ, đâu phải bao nhiêu tiền giáo dân quyên góp đều chui vào túi linh mục! Nếu cứ kêu gào mà dân chúng cho tiền đút túi có lẽ các cha sẽ không còn thời giờ mà thở bởi phải lo lắng vì giầu có cho đến chết.

- Bà cũng có lý, để tôi nói với cha xứ xem sao.

Một cha bạn người nhà dòng tuổi cỡ ngũ tuần nhưng trông còn khá trẻ có lần kể khi cha Lành hỏi lý do ngài có dáng trẻ hơn tuổi thật.

- Đừng bao giờ làm chính xứ; đó là bí quyết tôi học được nơi cha cố Thân bề trên tôi hai mươi năm trước.

- Thế sao ngài lại chấp nhận làm bề trên ngày đó.

- Ngài đâu chịu nên chỉ chấp nhận làm bề trên có một năm để hội đồng nhà dòng kiếm người thay thế.

- Có đúng vậy không thưa cha? Thế sao con chưa bao giờ làm cha chính mà tóc đã muối tiêu?

- Tóc muối tiêu là một chuyện và trẻ là vấn đề khác. Có những người tuổi mới mười mấy đôi mươi mà đã già. Tôi nói kiểu cách đã già chứ không phải già dặn; vấn đề trẻ hay già tự nơi tâm hồn, sao cho không bị những sự việc chẳng đáng làm mình phiền não để rồi tự đóng những khuôn mẫu bất di dịch chẳng những gây hạn hẹp cho chính mình mà còn ngăn cản bước tiến của những người làm việc với mình.

- Con muốn nói nét mặt trẻ chứ không phải tâm tư trẻ.

- Thì cứ làm cha phó... Làm cha phó không bị phiền hà, kêu ca vì những chuyện chẳng đáng gì, không phải lo lắng về máy lạnh, máy nóng, bảo hiểm, bảo trì...

Cha xứ cảm thấy khó chịu khi nghe cha phó kể rằng có người bỏ ra về sau khi nghe nói xin tiền cho địa phận giúp truyền giáo... Mấy hôm sau, trong bữa ăn trưa ngài lên tiếng:

- Bà Hưng nói với cha về vụ các cha không nên nói đến tiền bạc nơi nhà thờ hôm trước, tôi xem sổ quyên giúp tiền truyền giáo cho địa phận, bà ta không cho gì hết... Hơn ba mươi năm linh mục, tôi kinh nghiệm thấy càng những người chê trách thì lại càng không đóng góp gì...

- Nhiều người còn nghĩ tiền bỏ nhà thờ vào túi các cha. Cha Lành nói tiếp.

- Họ có nói thêm gì nữa không?

- Toàn là những chuyện chê trách thế này thế kia làm họ không vừa ý, nhưng đa số họ dùng những điều trông thấy để kết luận. Chẳng hạn các cha giầu có nên mua toàn xe mới; các cha lấy tiền nhà thờ mua sắm nhà cửa... Có người còn cho rằng các cha chỉ việc ngồi chơi xơi nước và bắt con chiên phải đóng tiền cung phụng. Người khác đặt vấn đề hỏi tại sao lại ấn định đóng hai mươi phần trăm tiền làm ra cho nhà thờ.

- Đã nhiều lần tôi nghe nói như thế! Cũng may là họ chưa trông thấy việc các cha làm mà nghĩ chỉ ăn không ngồi rồi. Nếu thấy có lẽ họ lại cầu xin Chúa đừng để họ phải làm phiền đến các cha.

Cha Lành cười sặc sụa vì đang lỡ uống bia nên chụp vội khăn ăn bịt kín miệng mũi... bia đi trật lối...

- Gần bốn năm làm phó ở đây có bao giờ con thấy cha cay đắng đến độ trở thành diễu như hôm nay đâu!

- Cha thấy đó, tiền quyên ở nhà thờ hoặc ai cho đều có người đếm đem bỏ nhà băng; chi tiêu thì còn có cuống check, sao lại có thể nghĩ được vào túi các cha. Thật kỳ cục! Nhưng dựa vào đâu khiến họ thích xen vào những chuyện ăn nói thiếu chín chắn như thế?

- Có thể tại họ thấy các cha có xe mới.

- Chẳng lẽ cứ có xe mới là lấy tiền nhà thờ mà mua; ai cho phép lấy? Chẳng lẽ những người trong ủy ban tài chánh không biết chữ. Cũng công nhận các cha đi xe mới mà đâu cha nào nói lên là xe thuê mỗi tháng phải trả hai trăm mấy gần ba trăm. Còn cha nào cần kiệm lắm, mua được chiếc xe, có lẽ dùng cả mười năm mà vẫn bị cho là mới. Không thể hiểu họ nghĩ gì; họ mua những căn nhà cả trăm ngàn sao không tự đặt vấn đề. Một linh mục lương tháng sáu trăm đồng, suốt ba bốn mươi năm làm việc không để dành mua được lấy căn nhà ba bốn chục ngàn sao! Đừng để những điều họ nói làm phiền... Tôi đi nghỉ một chút bởi đôi hôn nhân sắp tới rồi.

Sao mà lắm thứ lỉnh kỉnh chẳng đáng nói lại cứ phải nghe như thế này! Cuộc đời nghĩ cũng lạ kỳ, nào mấy ai đã bao giờ nói cho người khác biết cách làm tiền sinh sống của mình; chẳng thế sao có câu: "Cho bạc cho vàng, không ai đọc đàng đi buôn." Có lẽ lòng ai cũng có những cái túi không đáy nên dù cho bao nhiêu ước muốn cũng chẳng thể lấp đầy được nhất là ước muốn có nhiều tiền. Hơn nữa, ai không nhận ra sức vạn năng của đồng tiền; nó giúp người ta muốn gì được nấy nếu xét về phương diện vật chất; thế nên cũng đâu lạ chi khi thấy có những người ham mê làm tiền đến quên hết mọi sự, và có trường hợp tệ hại hơn nữa, ham mê làm tiền đã đưa đến cảnh đổ vỡ gia đình. Hình như thời trang đã ảnh hưởng quá mạnh mẽ đến lòng tham của con người nên lắm chuyện chẳng nên để ý đã làm phiền lòng người rỗi việc. Ngày xưa người ta mặc quần có đáy nên ước muốn phần nào được giới hạn. Thời bây giờ, thiên hạ đổi quần ra váy nên không có đáy; sự ham muốn cũng theo đà văn minh nhảy vọt đã trở thành không giới hạn; do đó từ sự ước muốn có nhiều tiền không thành, người ta đặt vấn đề nhìn quanh xem ai hơn, ai kém mình. Ý nghĩ so sánh ước muốn không giới hạn với chiếc jupe khiến cha Lành cảm thấy ngồ ngộ. Nào ai lạ gì đặc tính ganh đua của thiên hạ muốn chứng tỏ mình hay mình giỏi vượt qua những người chung quanh. Thiên hạ có xe mới, mình phải có cái mới hơn; thiên hạ nổi, mình phải nổi hơn. Thêm nữa, cá tính muốn nổi thúc đẩy người ta chỉa mũi dùi vào những nhân vật quan trọng được nhiều người để ý nên có thể vì thế các cha bị trở thành tâm điểm cho những loạt tên bắn tới. Xe mới xe cũ đâu có gì đáng nói; đừng coi thường một vài đồng lẻ chẳng ra gì đem tiêu cách hoang phí thì xe mới đâu phải chuyện khó. Đừng uống bia, đừng ăn nhậu, đừng đánh bài bạc, đừng đua đòi nay mốt này mai mốt kia, đừng mua những chiếc tivi năm ba ngàn, đừng ganh đua muốn cái gì mình cũng phải tỏ ra hơn người thì xe mới muốn có lúc nào mà không xong. Một chiếc xe mới chỉ mười ngàn đồng trong khi người ta đi sửa sắc đẹp gần hai chục ngàn nào đâu thấy ai kêu ca!

Xe tất nhiên là điều cần thiết cho cuộc sống nơi đất nước này nhưng mới hay cũ cũng chỉ là phương tiện di chuyển. Cái nhà để ở thì bất cứ nơi đâu cũng là sự vật không thể bỏ qua. Thế rồi người ta lên án những kẻ đem cha mẹ già gửi nơi nhà dưỡng lão; ngược lại, những lời bình phẩm ra chừng muốn các cha khi về già phải sống nơi dành cho những người không chốn nương tựa. Lẽ đương nhiên, cuộc đời các cha rất phù hợp với câu: "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai." Cuộc đời linh mục khi còn có thể làm việc được thì nay đây mai đó; đùng một cái đến tuổi già, con không, cháu chẳng có bởi có con đâu mà có cháu và đồng thời, anh em họ hàng, những người thân quen đồng tuổi hay lớn hơn nào còn có thể giúp được chi; họ đang phải nhờ vả con cháu họ thì mong giúp được ai. Lo trước nhà cửa để đến tuổi không làm việc có nơi dưỡng lão lại cũng bị đặt vấn đề! Thử hỏi rằng ai không có nhà để ở? Ai không muốn có nhà riêng tránh bị phiền hà nay đe đuổi, mai dọa khám xét gián, mối. Không hiểu người kêu ca xoi mói những chuyện ấy nghĩ gì khi nhà của họ được sơn xanh xanh đỏ đỏ đến rối cả mắt mỗi lần đi ngang! Có phải họ muốn các cha nên chết sớm trước khi đến tuổi về hưu hoặc nên vô nhà hưu dưỡng e sống ngoài nhờ vả làm phiền đến họ, hay các cha già nên trở thành kẻ lang thang sống bờ sống bụi cho hợp với danh từ kiếp tạm gửi? Thật ra, ai suy nghĩ câu "Chồn có hang, chim trời có tổ, chứ Con Người không có chỗ ngã đầu" (Lk. 9:58) mới thấy thấm thía... Nghĩ sao đây, cha Lành tự hỏi. Cuộc đời này vắt chanh bỏ vỏ là lẽ thường tình, nhưng lý do nào đã gây ra những điều kêu ca một chiều không so sánh lạ lùng ấy?

Nếu thiên hạ kêu ca về xe, về nhà các cha mua sắm là lẽ thường thì không kêu ca về những tiện nghi, tiền của họ có được trở thành lẽ bất thường. Từ sự bất thường không nhận ra niềm hạnh phúc ít nhất là nơi vật chất Chúa ban cho trong cuộc đời sinh ra sự kêu ca về lẽ "cha cứ gào tiền" lại được coi là lẽ bình thường. Tiếng "gào" nghe sao mà dữ tợn thế! Những ai lờ đi, có thì cho nhà thờ, không muốn cho thì thôi đã là người tốt lành. Người khác không hiểu đã bao giờ cho chưa, lại lên giọng thày đời như cố ý so sánh để chứng tỏ các cha tham lam hơn mình.

- Thưa cha hôm nọ nơi đám ma ông trùm Hoạt nghe thấy ông giáo Tương trước dạy trường trung học đệ nhất cấp ở Gò Vấp nói rằng các cha buộc người ta phải đóng hai mươi phần trăm tiền làm ra hay tiền lương thì sao mà các cha tiêu pha cho hết. Vậy ra cũng có luật bắt đóng theo phần trăm tiền mình có ư?

Thấy vẻ ái ngại nơi nét mặt ông trùm Sĩ khi hỏi, cha Lành chậm rãi:

- Ông đi nhà thờ đã nghe thấy tôi nói phải đóng hai mươi phần trăm bao giờ đâu! Vấn đề đóng tiền nhà thờ thật ra tự ngàn xưa tới giờ đã gây khá nhiều phiền hà cho các cha đến độ tôi sợ không muốn nhắc đến...

- Cha không nói thì ai biết mà ủng hộ?

Ông trùm muốn ủng hộ nhà thờ hay sao mà lại đặt vấn đề này; ngài thầm nghĩ.

- Ông trùm nghĩ coi, không dám nhắc đến mà còn bị nói này nói nọ phương chi...

- Thưa cha, vậy tiền xin "rấng" là tiền gì?

- Thì tiền mà ông giáo trung học đệ nhất cấp nói hai mươi phần trăm đó...

- À ra thế, nếu vậy bao lâu nay con có biết gì đâu vì có bao giờ con nghĩ đến phần trăm phần chục gì. Xem nào, hai vợ chồng con mỗi tháng lãnh được năm trăm mấy, vị chi nếu phải đóng hai mươi phần trăm tức là một phần năm; chúng con phải đóng những một trăm đồng. Chia làm bốn tuần, mỗi tuần hai mươi lăm đồng. Những hai mươi lăm đồng một tuần cơ à? Sao nhiều thế?

Cha Lành thấy ông trùm Sĩ lộ vẻ luống cuống vì sợ tốn nhiều tiền cho nhà thờ nên mỉm cười giọng dễ dãi:

- Xưa nay ông không cho nhiều như thế có sao đâu; nào đã có ai dám trách móc gì mà sợ. Ông giáo Tương nói phải đóng hai mươi phần trăm chắc có lẽ với ẩn ý gì đó thôi. Người theo đạo Tin Lành họ có luật buộc đóng mười phần trăm tiền làm được bắt nguồn từ Cựu Ước. Đóng tiền nhà thờ một phần nào chứng tỏ lòng biết ơn Chúa đã ban cho mình cuộc đời, sức khỏe, và những hồng ân hằng ngày. Thực tế mà xét, nhà thờ cần được bảo trì, tiền điện, tiền hít khi nóng khi lạnh phải có tiền để trả... và rồi máy móc hư hao cần sửa chữa...

- Chết thật, con đâu để ý gì nên khi nào có tiền trong túi thì cho đồng bạc, chẳng có thì thôi. Hơn nữa, con nghĩ các cha không cần tiền nên chẳng để ý nhiều...

- Thật ra, tiền cho nhà thờ nhiều hay ít đâu phải vào túi các cha để rồi các ngài muốn tiêu pha gì thì tiêu. Các cha đã có lương nhất định chẳng hạn như lương bây giờ là ba trăm rưỡi, tiền xe hai trăm và tiền xăng năm mươi đồng vị chi tổng cộng sáu trăm. Còn muốn chi phí gì cho nhà xứ hoặc sửa sang phải có hội đồng hàng xứ họp để quyết định trích tiền quĩ nếu có hay tìm cách gây quĩ giải quyết v.v... May mắn, tôi chỉ là cha phó nên cũng đỡ phiền. Tôi chỉ biết tiền lương, nếu tiêu hết đành chịu...

Sự chi tiêu trong xứ đạo nào đâu chỉ gồm nhà thờ, máy lạnh, bảo hiểm, mà còn nhà xứ, thư ký, người nấu ăn... Tiền lương thư ký ít nhất hơn ngàn một tháng, người nấu ăn cũng thế, thêm bảo hiểm nghề nghiệp, bệnh viện v.v... Ít ra cũng ba ngàn bạc bay như bươm bướm. Có thế mà đặt vấn đề tiền bỏ nhà thờ để làm gì! Xứ nào có trường học Công Giáo tại đất nước này thì lại cả là một gánh nặng. Tuy nhiên, cũng khá nhiều người hy sinh thời giờ điều hành bingo hàng tuần và tùy những dịp lễ nghỉ tổ chức kiếm ngân quĩ bù vào phần thiếu hụt... Nhà trường không đủ tiền đóng bảo hiểm tự động bị luật đóng cửa, không đủ tiêu chuẩn của State, đóng cửa... Nhà thờ không đủ tiền chi dụng cũng đóng cửa... Mặc dầu đất nước tự do nhưng không có gì tự nhiên mà có; chả thế người Mỹ nói "Nothing's free." Không tiền trả bill, công ty cúp điện hết nói chuyện "máy rét máy nóng." Mỹ mà, có 49 cents muốn mua lon nước ngọt 50 cents tại máy, chỉ có nước đập máy ăn cắp... vì có càm ràm, nói nhăng nói cuội cách mấy cũng không đáng một xu.

Thường thì nhà xứ là nơi các cha ở đồng thời cũng là văn phòng giáo xứ và thơ ký làm việc ngay tại đó. Thư ký và người nấu ăn lại cũng thường là đàn bà... Thế nên đôi khi cũng có người thắc mắc tại sao phải cần thư ký, hoặc tại sao không thuê đàn ông làm thư ký và nấu bếp. Một buổi chiều mát trời, cụ Tam không hiểu lăng quăng đi đâu nhân tiện ghé tạt ngang vô nhà xứ. Cụ tuy ít nói nhưng giọng trầm trầm, nhẹ nhàng dễ gây cảm mến. Qua ít phút thăm hỏi chuyện trời mưa trời nắng, thấy cha dễ dãi và nhân cơ hội sau khi bà thơ ký trình cha chứng giấy, cụ Tam rụt rè:

- Mấy bà thư ký và bà bếp làm những chuyện gì mà phải thuê cho tốn tiền hở cha?

- Cụ xem, một giáo xứ gần một ngàn rưỡi gia đình nếu không có thư ký thì lấy ai làm chuyện sổ sách? Thêm nữa những công việc quét tước, hút bụi lau chùi nhà cửa và nấu nướng một người ngày nào cũng làm mà không hết việc, nếu cha làm những việc đó giờ nào mà làm việc nhà xứ... Cha Lành thờ ơ trả lời không nghĩ rằng đó là chuyện quan trọng và cũng là mục đích ghé qua nhà xứ của cụ Tam.

- Theo con thấy, sổ sách thì nào có chi đâu, làm gì thì ghi xuống là xong sao lại phải thuê người cho tốn tiền! Giọng cụ đầy vẻ ngỡ ngàng nhưng không kém phần thận trọng.

Nghe giọng nói của cụ, cha Lành chợt nhận ra cụ đang mang thắc mắc cần được giải thích. Dẫu biết rằng những người tâm tính chất phác như cụ khi đặt câu hỏi về một vấn đề nào thì tự vấn đề đã trở nên gay go khó giải quyết. Hơn nữa, bình thường nơi cuộc sống gia đình ngoài việc ký ngân phiếu trả tiền điện nước chẳng có gì đáng phải ghi nhớ hay làm sổ sách chi tiêu bởi nào mình đâu phải trình bẩm với ai về tiền bạc làm ra hay chi phí; do đó cha muốn biết thêm cụ thắc mắc về những chuyện gì.

- Cụ nói có gì đâu nghĩa là sao?

- Thì cùng lắm chỉ có sổ lễ chứ còn chi mà nhiều!

- Sổ lễ chỉ là chuyện nhỏ; những văn thư thông báo, những luật lệ của chính phủ thay đổi ảnh hưởng đến giáo xứ, sổ rửa tội, hôn nhân, tài chánh, chi dụng, sổ thuế má phải nộp ra sao... hơn nữa, cả trăm lần điện thoại một ngày... cái gì người ta cũng hỏi nhà xứ. Cụ tính xem, mấy người làm việc buôn bán cần phải có "book keeper" mà giáo xứ không có thư ký thì những việc ấy ai làm?

- Con nghĩ các cha làm.

- Cụ ghé qua nhà xứ nhân lúc tôi có được chút giờ rảnh; chứ thực ra những việc mục vụ và phụng vụ nơi một giáo xứ lớn như thế này chiếm nhiều thời giờ lắm. Chẳng hạn nếu tôi phải ngồi làm những chứng chỉ hôn nhân hay rửa tội mà bà thư ký vừa đưa vô chứng, phỏng tôi có giờ tiếp chuyện với cụ không? Thêm nữa, rất nhiều người có những chuyện cần linh mục giải quyết hay cho ý kiến như câu hỏi của cụ chẳng hạn nếu không được cha tiếp đón giải thích cụ sẽ cảm thấy thế nào?

- Việc mục vụ là việc gì vậy cha?

- Là những việc giáo dân cần đến chẳng hạn thăm hỏi các gia đình, dạy giáo lý tân tòng, thăm bệnh viện, xức dầu bệnh nhân, những chuyện cấp cứu v.v... người gọi tới hỏi chuyện này, người chuyện khác... Chính ngay việc đang nói chuyện với cụ cũng là mục vụ.

- Gì mà lắm chuyện thế; cả như con, một năm không đến nhà xứ một lần thì đâu có chuyện gì phiền hà đến các cha. Là giáo dân, đọc kinh, đi lễ như thế đủ rồi, đến nhà xứ làm gì?

- Cụ nói có lý mà coi chừng lý trật rồi. Nào có ai muốn có những chuyện phiền hà đâu! Nhưng nếu cả năm không đến nhà xứ, chỉ đi lễ và về nhà đọc kinh thì lấy ai dạy giáo lý, lấy ai hát trong ca đoàn, ai giúp dạy tân tòng, chuẩn bị hôn nhân... rồi còn nhiều thứ việc khác...?

- Sao cha không nói ở nhà thờ có phải hơn không?

- Cha xứ và tôi đã nói rồi đấy chứ mà đâu mấy ai để ý; chẳng hạn như cụ có nghe thấy đâu. Hơn nữa, chẳng lẽ tuần nào cũng nói. Ấy mới có vài lần ông chánh trương kêu gọi nếu ai có thể giúp làm giảng viên giáo lý mà cũng lắm người gọi điện thoại nói sao cha không nói mà lại để ông chánh trương; người khác hỏi sao cha không thuê!... Khổ nỗi, cha chỉ biết truyền phép lúc dâng lễ để bánh và rượu thành Mình Máu Chúa chứ có biến giấy ra mấy đồng xanh đỏ được đâu do đó cần nhiều người tự nguyện hy sinh thời giờ giúp việc giáo xứ.

Giọng cha trả lời giống như tiếng than của một