Hai Mối Tình
PHONG nhác thấy Hoằng bước vào phòng, vội đứng phắt dậy, đâm sổ ra:
— Kìa, anh! Gớm, về từ bao mà bây giờ mới lại? Đợi mãi! Lần nào cũng hứa, mà lần nào cũng hão!
Hoằng nắm chặt hai tay bạn:
— Thì lần này không hão nữa. Bằng lòng chưa?
Phong giựt tay ra, vỗ lên vai Hoằng:
— Chưa bằng lòng! Hãy còn giận!.
Hoằng cười:
— Hãy còn giận à? Nếu vậy, ‘‘mỗ’’ lại đi, đi đến sang năm!
Vừa nói, Hoằng vừa làm bộ quay mình bước ra cửa. Phong nắm ngay lấy hai âu vai bạn, vặn phắt mình bạn lại:
— Này, có mà chết bây giờ! Đi mà được với ‘‘lão gia’’ à!
Chàng lôi sềnh sệch Hoằng vào giữa phòng nắm hai cánh tay áo bạn, sốc lên, rồi ấn xuống như người dọi một cái cọc xuống đất.
— Trong gian phòng này, tính mệnh ngươi ở trong tay ta!
Phong nheo mép sau câu nói đặc tuồng ấy, rồi cười, rồi lại đổi phắt nét mặt ra một vẻ nghiêm nghị, cái thử nghiêm nghị có càng ‘‘tuồng’’ hơn nữa.
Rồi anh hướng vào những người ngồi ở sa lông, vừa ngừng giở câu chuyện, giơ hai bàn tay lật ngửa ra:
— Thưa các chị! Thưa các anh! Xin giới thiệu anh Vũ-đình-Hoằng, một điền chủ Yên Báy, một con gấu, một thằng người rừng...
Hoằng cười, ngắt:
— Nhưng có điều anh quên chưa giới thiệu với các ngài và các bà đây là con gấu ấy, thằng người rừng ấy lại là bạn thân nhất của anh, từ ngày chúng ta còn để chỏm!
Chàng cúi đầu một cái dài. Những cái đầu trên sa lông, trên chiếc đi văng cũng cúi xuống một lượt.
Hoằng bắt tay ba người thanh nlên, rồi:
— Các ngài và các bà, xin lượng thứ cho cái vui mừng khí... ầm ĩ của đôi bạn vắng mặt đã lâu,
Một thanh niên nhã nhặn:
— Chúng tôi rất thèm muốn cái ầm ĩ của tình bạn ấy. Xin ngài cứ tự nhiên cho!
Phong bô bô:
— Thôi! Xin các ngài hãy dẹp cách xưng hô... các ngài ấy lại. Cả ‘‘các bà’’ nữa. Bạn trai, bạn gái, bạn cả!
Quay sang Hoằng:
— Thế nào? Anh vẫn mạnh đấy chứ?
— Thì anh cứ trông tôi đây.
Phong trông Hoằng. Và Phong thấy cái hình vóc cao lớn của bạn nổi bật lên giữa khoảng sáng trắng của đèn điện như một pho tượng. Mà pho tượng ấy là một pho tượng đồng với nước da nắng tráng màu than. Và linh hoạt với đôi mắt dọi những cái nhìn như tia sáng. Anh vỗ vào lưng bạn:
— Quả thực là một thằng người rừng!
— Nhưng thằng người rừng ấy xin nhắc thằng người “văn minh” cái phận sự của chủ nhân đối với khách.
Kèm theo câu nói ấy, Hoằng nghiên đầu hai lượt, đưa một cái nhìn và một nụ cười lịch thiệp khắp hàng khách ngồi chơi.
Phong vội đon đả:
— Ấy chết, quên mất. Anh Huân, anh Viễn, chị Mai, anh Đoàn, chị Thanh, chị Lý...
Đến đấy, Phong ngừng lại một giây, đoạn anh giơ tay chỉ một thiếu nữ ngồi ở đầu trong đi văng:
— ... Và đây, chị Minh-Thu, một nữ-sĩ, kiêm nữ thi-sĩ, kiêm âm-nhạc-gia nữa.
Rồi anh kéo Hoằng lại ngồi xuống chiếc ghế bỏ không, gần bên chỗ Minh Thu ngồi, thân mật:
— Chốc nữa, chị ấy sẽ cho anh nghe thơ này, đàn này, hát này. Những thứ ấy hẳn là phải êm tai hơn những tiếng cọp báo gầm thét ở rừng trên ấy.
Anh lại nhìn Minh-Thu, rồi nhìn Hoằng, miệng chúm chím một cách... bí mật:
— Chị ạ, cái thằng ‘‘lộc-ngộc” này, tiếng
thế cái tai nó lại có phần tế nhị hơn tai chúng em đấy.
Hoằng biết tính bạn, vội giơ tay như để ngăng bạn lại trên một cái đà giốc mà chàng biết rằng sự quá khen của bạn có thể đưa mình tới chỗ lố bịch:
— Ấy thưa … anh Phong đang chụp ảnh phóng đại đấy ạ.
Phong gườm gườm ngó Hoằng:
— À, ra dân miền ngược khó chơi. Mình yêu, ra họ làm cao. Ấy cũng tôn hắn lên thế đấy chứ, biết gì! biết gì! Chốc nữa, chị Minh-Thu có ngâm thơ, có đánh đàn, là ngâm thơ, đánh đàn cho chúng tôi nghe thôi đấy nhé! Chứ hắn thì biết thi ca, đàn địch là cái quái gì!
Hoằng giơ tay phân bua:
— Có các ngài biết cho đấy nhé. Nói chưa dứt câu đã nuốt lời ngay đấy nhé. Ấy thế mà còn bảo ai là “cuội”!
Anh thò tay vào túi:
— Tiểu đệ đang sống lương thiện ở Bắc Giang, hắn tống cho một cái trát, làm loạn cả lòng lên. Thành ra tiếp được thơ, đệ đâm bổ ngay về, “ghệt” chưa kịp thay.
Phong đế ngay:
— Chướng mắt thật. Nhưng thôi, các anh, các chị cũng miễn chấp cho ông bạn “sắng đá” của tôi. Ông ấy thì chỉ quanh năm sống với súng, với ngựa, bắn đêm, bắn ngày, còn có thì giờ đâu mà nghĩ đến y phục nữa.
Bấy giờ, mọi người mới nhận kỹ cái quần bằng dạ mỏng, cái áo ka ki vàng xanh, và đôi ủng da màu gụ. Từng ấy thứ phục sức in nên những nét hoàn toàn phản trái với nếp là của âu phục đúng thời trang, với màu sặc sỡ của ca-vát, bóng nhoáng của giầy nhữrg người trẻ tuổi ngồi đấy. Và trong nét mặt, trong tiếng nói, trong cử chỉ của Hoằng, dẫu đầy hoan hỉ, dẫu rất dịu dàng, dẫu vồ vập, cũng vẫn phảng phất cái náu hình, tự nhiên mà náu hình của một con hổ giữa cái nhâng nháo của một dân làng.
— Trông anh Hoằng mặc thế mà lại hay đấy. Em trông chả thấy chướng mắt tí nào cả.
Người nói câu ấy là Lý.
— Thế còn chị Minh-Thu? Ý chị thế nào?
Minh-Thu tủm tỉm, bắn một mũi tên:
— Em thì em thấy rằng bộ quần áo nhà binh trong một khách thính là vết sơn loang trên một bức họa.
Phong hỏi đột ngột:
— Thế nghĩa là chị ghét cách ăn mặc của bạn tôi chứ gì?
— Đâu có dám thế. Em phát biểu một ý kiến thành thực đó thôi.
Phong nhoẻn một cái cười riễu cợt:
— Thế thì đâu cũng vào đấy. Này chị ạ, coi chừng kẻo ghét của nào, giời trao của ấy đấy.
Đôi má Minh Thu bỗng ửng lên. Nàng lườm Phong, lặng thinh.
Nhưng lúc ấy, Hoằng rút ở túi ra một phong thư:
— Các anh, các chị, xin hãy khoan nghe hắn nói dóc, đệ xin đọc cái ‘‘tác phẩm’’ về lối văn thư tín của ông bạn tôi đây. Ông ấy nói nhời rồi lại nuốt nhời như bỡn. Vậy mà ông ấy còn bảo người khác là “bố Cuội”kia đấy.
Mọi người chú ý. Phong bước lại, toan giật bức thư, nhưng Hoằng đã giơ tay nắm lấy ve áo, cản đẩy ra một bên. Rồi chàng lên tiếng đọc:
Hanoi, 5 Novembre 1942
Anh Hoằng Cuội,
Gọi anh là Cuội, không phải để anh lên nằm trên cung giăng đâu đấy nhé, Mà trên cái đồn điền những giang cùng mía của anh thì cũng chẳng khác đếch gì cung giăng. Lạnh lẽo lắm, anh ơi!
Ra anh nhất định là Cuội thực, cho nên đã bao lần anh hẹn về chơi, mà rút cục láo toét cả! Anh nhất định làm giống Cuội, được, nhưng Cuội thì có ả Hằng, mà Hằng Nga của anh đâu? Có phải mấy cô thổ, chân tầy ống bương, mấy cô mán bóng đầu trên cái đồn điền ở Yên-báy, đìu hiu hơn cung giăng ấy chăng?
Về ngay! Về ngay! Bỏ hết các việc đấy đã, về ngay tôi, chiều thứ bảy này. Cái điều mà “Cuội” mong mỏi, mà “Cuội” không tìm thấy ở đâu thì nay rồi sẽ được như ý Cuội, thỏa lòng Cuội. Về ngay, đúng chiều thứ bảy.
Bất kính thư,
PHONG
Tái bút...
Hoằng đọc đến đấy, bỗng ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh phòng, dường như có vẻ ngơ ngác.
— “Tái bút”, rồi sao? Đọc nốt đi chứ, anh!
Hoằng không đáp lời Lý hỏi vội. Chàng nhìn Phong:
— Chết, quên khuấy đi mất. Em Nga đâu không thấy? Gặp bạn, vui quá quên cả em, bậy quá!
Phong nói ngay:
— Ồi dà, con bé hư lắm. Cứ chiều chiều là lên hồ đua thuyền. Đêm nay có giăng, chưa biết lúc này nó đã chịu về chưa? Thể thao, tôi rất thích, nhưng thích là thích những môn hoạt động kia, ten-nít (tennis), phốt-ban (football), đánh “ bốc (boxe)” kia. Bơi thuyền, ngồi lì hàng giờ trên mặt nước, chán chán là. Mà lại nguy hiểm là khác. Ấy con bé, tôi đã đe dọa nhiều bận mà nó cử coi thường!
Lý bĩu môi:
— Chị Nga chị ấy bơi giỏi lắm, chị ấy can đảm lắm, đâu có như anh, chưa xuống đến ria hồ đã rúm người lại!
Phong lắc đầu:
— Can đảm thế là liều, là ngốc. Chả chơi. Thiếu gì cách tiêu khiển!
Lý quay hỏi Hoằng:
— Còn anh thì anh cho sự bơi thuyền thế nào?
— Tôi rất thích. Đó là môn thể thao hoàn bị nhất. Ở trên ấy, tôi vẫn lấy sự thả thuyền cho nó trôi hàng năm bảy cây số trên sông Nhị Hà, rồi chèo ngược giòng nước, đua sức với con sóng làm thích.
— Thế thì con em tôi nó lại có người để nói chuyện rồi.
Minh-Thu, từ nẫy đến giờ vẫn im lặng, lúc ấy mới lên tiếng:
— Nhưng ta hãy trở lại câu chuyện lúc nẫy, Ông Hoằng đọc cái “tác phẩm” đặc biệt về thư tín ấy, đến chỗ Tái bút thì câu chuyện lạc đề. Xin ông cho nghe nốt.
Hoằng đáp vắn tắt:
— Cũng không có gì đáng đọc cả.
— Thì ông cứ đọc nốt, cho cái tác phẩm ấy
đủ đầu đuôi.
Hoằng còn lưỡng lự thì Phorg đã choang choang:
— Ồ, có gì đâu! Em Nga nó đã lâu không gặp, nó nhớ anh ấy, nó kèm thêm lời mời anh ấy về chơi, thế thôi… À,mà chúng ta đã là bạn cả, thì mới gặp với quen biết lâu ngày có khác gì, sao chị Minh-Thu lại cứ gọi anh Hoằng bằng “ông” mãi thế? Thôi, từ rầy xin miễn dùng tiếng “ông”.
Minh-Thu lặng im.
Hoằng nhìn Minh-Thu, bâng khuâng.
Chàng tự nghĩ không hiểu tại nguyên cớ gì mà vừa rồi chàng lại lưỡng lự không đọc mấy giòng tái bút mà Nga đã viết tranh thay anh nàng.
Có lẽ vì những giòng ấy chứa những lời thân mật quá chăng?
Thì Nga khác nào em gái chàng? Chàng cùng học với anh nàng một lớp, với nàng một trường, từ ngày còn thơ ấu cho đến lúc chàng khôn lớn và ra đời, mới chia tay. Tuy bốn năm năm xa cách, chàng cùng anh em Phong vẫn có thư đi thư về luôn luôn, nhưng lúc chia tay, Nga mới mười ba, mười bốn.
Chàng vẫn nghĩ đến, nhớ đến một cô bé xinh xinh, hóm hỉnh, luôn luôn trêu ghẹo chàng. Cái hình ảnh ấy, cho đến bấy giờ vẫn là cái hình ảnh một cô bé hóm hỉnh, xinh xinh. Nhưng, từ bây giờ giở đi, cái hình ảnh ấy lại không là một cô bé xinh xinh nữa.
Hoằng cảm thấy đó là một điều rất mơ hồ mà cũng rất tế vi. Chàng cảm thấy thế trong khi mắt chàng nhìn Minh Thu chằm chặp.
Chàng nhìn cái sắc đẹp, phải nói là một cái sắc đẹp mềm yếu, rồi không hiểu cớ sao, chàng lại nghĩ:
— Có lẽ Nga cũng cùng trạc tuổi Minh-Thu.
Nga lao mình vào phòng khách như một luồng gió, chưa thấy rõ người đã nghe rõ tiếng:
— Bonjour la compagnie!
Bỗng nàng ngừng hẳn lại, đứng sững:
— A, kìa! Anh Hoằng! Anh đã về đấy à?
Giọng nói thân mật lùa một hơi ấm vào lòng Hoằng. Anh đứng phắt ngay dậy:
- Em!
Nga đã bước thêm mấy bước, nhưng đến lúc gần tới trước mặt Hoằng, nàng lại đứng dừng. Rồi nàng đứng im.
Nhưng chỉ vài giây, nàng đã ung dung bước lại phía Hoằng:
— Anh đến lúc nào thế? Chắc anh đến đã lâu lắm rồi?
— Anh vừa nhắc đến em xong. Đang nói chuyện về em. Thế nào? Bơi thuyền có vui không?
Nga đáp rất nhanh:
— Vui lắm. Giăng đẹp lắm. Em cứ muốn bơi mãi, bơi hết đêm. Giá anh về sớm, cùng bơi thì thích quá, À, anh có thích bơi thuyền không đã chứ?
Hoằng tươi cười:
— Anh thích bơi thuyền lắm. Và nhất là về đây, được bơi thuyền với em thì anh không mong gì hơn. Nhưng xin nói trước, anh bơi kém lắm đấy.
Nga chẩu mỏ:
— Anh cứ nói thế chứ! Em biết, anh bơi khá lắm kia mà. Anh chả thường nói trong thư cái lối bơi thuyền ngược giòng sông là gì?
— Nhưng bơi ở sông khác, ở hồ khác.
— Ồ! Bơi ở sông có sống, còn khó hơn bơi ở hồ nhiều. Em chỉ ao ước được bơi thuyền trên mặt sông, lúc nước chảy xiết xem sao.
Nàng quay nhìn Phong:
— À, rồi chuyến này anh Hoằng về trên ấy, chúng ta theo anh ấy lên bơi thuyền nhé, anh nhé!
Phong chau mày:
— Cái con bé này! Gặp anh, chẳng hỏi xem anh làm ăn ra sao? Sức khỏe thế nào? Chỉ cứ bơi thuyền với lại bơi thuyền!
Nga như vùng tỉnh:
— Ừ nhỉ, thế mà em quên khuất đi mất, Anh Hoằng! Có phát tài không? Anh có mạnh không?
Hoằng tủm tỉm:
— Nhờ giời, anh đủ tiền mua đạn bắn hươu. Và anh...
Hoằng chưa kịp giả lời câu hỏi thứ hai, Nga đã liến thoắng:
— Lần này, anh về ở lâu dưới này với chúng em đấy chứ?
— Còn tùy xem...
— Không, không tùy gì cả. Anh phải ở Hà nội ít ra là một tháng. Rồi khi anh lên đồn điền, chúng em sẽ theo anh lên.
Những câu hỏi liên thanh của Nga làm cho Hoằng nhớ tới cô bạn gái mà chàng coi như em bé năm nào. Nhưng chàng nhận thấy rằng cô em bé ấy bây giờ đã khác trước nhiều. Cô em bé ấy bây giờ đã có một tấm thân mà những nét người đã vẽ rõ, đã có đôi má hồng đầy nhựa huyết của tuổi thanh niên.
Tuy đứng trước mặt Hoằng, Nga vẫn tươi cười, liến thoắng, nhưng Hoằng cảm thấy rằng chàng không thể kéo Nga vào lòng, đặt một cái hôn lên trán như nàng quả thực là em gái nữa.
— À, anh đã nghe chị Minh-Thu đàn chưa?
Hoằng khẽ lắc đầu, nhìn Minh-Thu
— Ồ, sao các anh không bắt chị ấy dạo mấy khúc?
— Nhưng ai hát mới được chứ?
— Chị Thanh, chị Mai.
Thanh vội nói ngay:
— Em hôm nay khan giọng lắm, không hát được.
— Còn em thì giọng khàn khàn, hát để cho anh ấy cười tất cả ban âm nhạc của Hà thành ấy à?
Hoằng nhũn nhặn:
— Chị cứ nhún mình quá thế. Chị cứ hát cho chúng em nghe đi, ít nhất cũng gây cho em được một ít cảm giác mới.
Nga ngắt lời ngay:
— Không, chị Minh-Thu đàn, phải em ca mới được. Giọng chị Mai ồ-ồ như giọng ông lão, nghe làm quái gì!
Viễn nhạo:
— Gớm chửa! Hợm mình chửa!
Nga cất cao đầu lên:
— Thế có đúng không đã nào?
— Kể thì sự thực như thế. Nhưng ít nhất ta cũng phải giữ chút lễ độ với chị Mai chứ!
Nga ngước mắt lên:
— Anh nói cái gì? Nói dối, phỉnh phờ là có lễ độ phải không? Tôi không chịu thứ lễ độ ấy. Tôi, tôi cứ sự thực tôi nói. Thực thà là lễ độ thứ nhất.
— Nhưng cũng nhiều khi sự thực lại là sự khoe khoang,
Nga thản nhiên:
— À, nói đúng với cái giá của mình, có bị người gọi là khoe khoang cũng chẳng sao. Có hơn người cái gì thì mới khoe khoang cái ấy được chứ. Như tôi hát, hẳn là hay hơn chị Mai, tôi có quyền khoe cái tiếng hát của tôi, vì nó hay thật. Còn như anh Viễn mà khoe cái tài làm thơ, thì người ta gọi là... thôi không nói nữa!
Viễn, một người mà thơ đã nổi tiếng là ‘‘thối’’ nhất Hà thành, toét miệng cười:
— Người ta gọi là gì, chị cứ nói.
— Thôi, chả nói, nói lại có người mếch lòng,
— Không. Không có ai mếch lòng cả. Chị cứ nói. Chị phải nói.
Nga buông xõng:
— Thưa ông, người ta gọi là nói khoác ạ! Mọi người đều cười. Người cười to nhất lại là Viễn.
Hoằng tai ngược hỏi Nga:
— Thế cô hát hay đến thế kia à? Nào, thế em gái của anh hát đi một bài cho anh nghe. Lâu lắm, anh chưa được nghe tiếng hát hay.
— Khoan đã. Em đi thay áo đã.
Hoằng giữ lại:
— Thôi. Mặc thế được rồi, đẹp lắm rồi.
Mà Nga đẹp thực. Nàng đẹp cái đẹp lồ lộ, gọn gàng trong phục sức thể thao của nàng. Và nhất là nàng đẹp ở cái tươi nở mạnh mẽ của tuổi sấp sỉ hai mươi, đầy sinh khí.
Nàng ngước mắt nhìn Hoằng, nhoẻn một nụ cười rất trẻ con:
— Thế à? Em đẹp thật à? Thế mà em cứ tưởng rằng em xấu đấy!
Nói xong, nàng cười khanh khách và chạy vào trong.
Phong lắc đầu:
— Đấy, anh xem, nó vẫn cứ như trẻ con ấy.
Nói liến thoắng, mà gặp đâu nói đấy. Gía cứ chấp nhất lời nói của nó thì không ai đừng giận được.
Vừa nói, Phong vừa nhìn Viễn. Y đáp ngay:
— Ai mà giận cô ấy được. Ai mà giận con họa mi lúc nào cũng hót ấy được.
— Cũng là tại các anh, các chị chiều nó, nuông nó, nó càng được thể.
Minh-Thu, từ nẫy vẫn ngồi yên, bây giờ mới lên tiếng:
— Tuy thế, chị Nga lại có nhiều chỗ tốt hơn nhiều bạn gái. Cái gì chứ cái thẳng thắn của lòng, chúng ta đây đều phải thua kém chị ấy.
Viễn hóm hỉnh:
— Thế nghĩa là chị Minh-Thu thú nhận ngầm rằng lòng chị ấy không ngay thẳng. Minh-Thu giả miếng ngay:
— Nếu cái tài làm thơ của ngài cũng ngang với cái tài chơi chữ bắt bẻ của ngài nhỉ!
— Thì cũng có thế nào mới biết bắt bẻ chứ. Dễ ai cũng bắt bẻ được đấy,
Phong đàn giải:
— Thôi, nói phiếm mãi. Hôm nay đông cả các anh em chị em, lại có anh bạn tôi mới về chơi, trong khi chờ em Nga nó thay áo xong, xin chị Minh Thu cho nghe một vài bài thơ mới làm nào.
Minh-Thu khẽ lắc đầu:
— Hôm nay xin dâng mấy bài đàn thôi. Còn thơ thì xin thú thực là kém lắm, xin để bao giờ đáng đọc mới dám đọc.
— Chị dạo này cũng khách sáo. Anh em, chị em thân cả. Hay thì ta cùng thưởng thức, không hay thì ta thành thực nhận là không hay, góp ý kiến, quan niệm lại để cố tìm cái hay. Hay chị cho chúng tôi là những cái tai tục tử, không biết nghe thơ đấy?
— Đâu dám thế. Nhưng vì em thành thực nhận rằng còn nhiều khuyết điểm lắm, không dám làm mất thì giờ các anh, các chị.
Hoằng nói ngay:
Cái tuyệt đích có bao giờ người ta cầm nắm được đâu. Vì biết thế nào là tuyệt đích, là hoàn toàn? Tạo hóa vốn ghét cái tròn kia mà. Loài người tới được đâu hay đấy. Thi ca cũng vậy. Miễn là trong lúc nhà thơ có chân tình, chân cảm phát ra lời thơ, ấy là đã có được cái tuyệt đích trong cái phạm vi tình cảm ấy.
Phong ngắt:
— Thơ của chị Minh-Thu thì thực là chân tình, chân cảm.
Minh-Thu đang lắng nghe Hoằng nói, thấy Phong ngắt lời chàng, liền bảo ngay:
— Anh thì Iúc nào cũng chân tình, chân cảm. Làm như thơ chỉ là tình, là cảm. Thơ còn cần nhiều cái khác nữa, mà cần nhất là cái phần nghệ thuật. Để yên anh Hoằng nói, biết đâu không thêm được cho chúng ta một vài điều chỉ giáo hay.
Hoằng vội khiêm tốn đáp:
— Không, tôi cũng hiểu lõm bõm về nghề thơ mà thôi. Nhưng tôi được cái giời cho biết nghe và biết thưởng thức một vài bài thơ hay. Cứ như chỗ tôi biết, thì nghệ thuật gì cũng do nguồn lòng mà ra cả. Lòng có đầy, có giầu, có thực, thì mới phát tiết ra được những cái gì phong phú, sôi nổi. Nghệ thuật, theo nghĩa rộng là tất cả, mà theo nghĩa hẹp, chỉ là những phương tiện để khai thông cái going tình cảm mà thôi.
Minh-Thu gật đầu ra ý biểu đồng tình:
— Em không nói ra được như thế, nhưng em cũng mơ hồ cảm thấy rằng thơ là như thế.
Có điều từ sự cảm biết của lòng đến sự sáng tác, con đường còn dài lắm, mà em thì đã bước được mấy bước đâu. Chẳng qua một vài lúc ngẫu hứng, ngâm nga lằng xằng thế thôi.
Phong dai dẳng:
— Thôi, chị đừng nhún mình quá độ mãi thế. Chị đã đồng ý với anh Hoằng trong cái quan niệm về thơ, tức là chị đã gặp … tri kỷ chứ gì? Thế thì xưa nay, có thi gia nào giấu tài trước người tri kỷ bao giờ! Thôi, chị đọc đi, đọc một vài bài đi. Không cho chúng tôi nghe thì thôi, cho tri kỷ nghe vậy.
Minh-Thu ửng sắc mặt, lừ lừ nhìn Phong:
— Đã nói thế, nhất định không đọc nữa.
Rồi nàng cười, định xóa câu chuyện:
— Với lại các anh có nghe đâu!
Cả bọn nhao nhao:
— Không, chúng em nghe, chúng em xin nghe. Có cái thằng Phong nó nói thế, chứ chúng em đây, ai chả muốn nghe hở chị!
Viễn thêm:
— Mà nếu chị không cho chúng em nghe, chúng em xin bịt cả tai lại. Đây này!
Vừa nói, Viễn vừa đưa hai ngón tay chỏ lên bịt lấy lỗ tai.
Hoằng cười:
— Thôi, các anh ấy đã khẩn khoản thế, chị đọc đi, cho em cũng được nghe lỏm.
Minh-Thu cố đè cái ngượng nghịu, thành ra sự cố gắng thêm vào sự e thẹn, làm cho nàng càng đỏ bừng thêm nét mặt:
— Không. Quả thực thơ em không đáng đọc. Vả lại, đọc thơ tức là dâng cái tinh hoa của lòng mình, thì phải gặp lúc lòng thanh sảng, lâng lâng, hơi thơ tức là hơi lòng, mới thực.Miễn cưỡng thì còn thú gì nữa.
Phong bẻ ngay:
— Ồ, sao chị bây giờ kiểu cách quá thế?
— Không phải em kiểu cách. Lòng em như thế.
— Lòng chị làm sao?
— Lòng em lúc này không thấy muốn, không thấy thèm, không thấy cần phải đọc thơ, nếu bắt buộc phải đọc, thơ sẽ chẳng ra gì. Anh nên biết rằng có nhiều người viết chữ rất tốt, giọng hát rất hay, thế mà nếu không do lúc tự lòng mình thích mà viết, mà hát, y nhiên là chữ mất cả gân, là tiếng hát mất cả giọng. Đó cũng là một chỗ yếu của linh hồn. Nhưng linh hồn tế nhị nào mà chẳng có chỗ yếu? Vả cái tinh ngập ngừng, bẽn lẽn ấy lại hợp với bản tính của đàn bà, con gái chúng em.
— Thế em là con trai đấy hẳn?
Nga ở nhà trong bước ra, đem cả một trời tươi sáng vào căn phòng.
Hoằng đưa mắt ngắm đôi bạn. Mỗi người một vẻ. Nga với mái tóc chải hất ngược lên, xòe ra hai bên như cánh cung lệch, với đôi mắt long lanh, với cặp môi ngon ngọt, là tất cả cái phản trái của Minh-Thu. Nhìn nàng, rồi nhìn những sợi tóc buông lơi lả hai mé đầu rẽ lệch của Minh-Thu, và đôi mắt thăng thẳng có những cái nhìn như xa xôi, và cái miệng thanh tú, chàng có cái cảm-tưởng như ai đem đặt mùa xuân bên mùa thu.
Chỉ duy có một điều là giống nhau: cả hai cùng đẹp, và cái đẹp nào cũng có thể làm đắm hồn người.
Hoằng tự dưng có cái ý tưởng tìm cái hơn của người này, cái kém của người kia. Nhưng chàng không tìm ra.
Với lại Nga đã liến thoắng:
— Ngâm thơ chứ có phải đi xứ đâu mà khó khăn lắm thế. Các anh cứ bắt chị ấy phải ngâm cho được một bài, nếu không thì quyết
không tha.
Minh-Thu cười:
— Được rồi, thì đọc chứ sao. Nhưng nếu đọc thơ gì cũng được chứ?
— Được I
Hoằng cũng nói:
— Vâng, tùy chị cho nghe bài nào cũng là quí.
Minh-Thu chum chím nhìn Nga, rồi nhìn Hoằng:
— Những bài khác, quả thực em quên mất tất cả, thôi thì em xin dâng mấy câu này vậy.
— Vâng, chị đọc đi,
Minh-Thu vỗ vỗ vào cánh tay Nga, rồi đọc:
— ‘‘Người đâu dơ dáng dại hình,
Mở mồm nói chuyện chỉ rình nói điêu.
Đi thì ghế đổ bàn xiêu
Có chiều đỏng đảnh, có chiều lăng băng!’’
— Thưa thơ vịnh chị Nga, đúng đấy ạ! Những tiếng cười xen vào với những tiếng ‘‘Hay!’’ vang ầm,
Nga béo mạnh cánh tay Minh-Thu rồi bĩu môi:
— Thơ thế mà khen hay. Thực xứng đáng đặt bên thơ anh Viễn!
Viễn cười tít:
— Hân hạnh!
Người ta nghe đọc thơ, nghe đào hát, người ta uống nước, ăn bánh ngọt, rồi người ta ra về.
Minh-Thu ra về sau chị em. Lúc từ biệt, Hoằng nhìn nàng giây lâu, rồi ôn tồn nói:
— Hôm nay, tôi rất lấy làm may mắn được nghe lời thơ, tiếng hát của cô. Tôi ước ao lại được gặp cô, hôm nào, để nói chuyện... về thơ.
— Thì em đến đây luôn.
Hoằng tiếp, giọng nồng thắm hơn:
— Nhưng... thưa cô, như thế biết đâu những hôm tôi đến, cô lại chả không đến được. Mà việc đời biết thế nào trước được, mỗi một bước có thể đưa đi một con đường khác. Cho nên, trước khi lên ngược, tôi ước ao được gặp cô một buổi nào đó, để được nghe nhiều điều có ích về văn thơ, âm nhạc.
Minh-Thu tủm-tỉm:
— Em thì biết được bao nhiêu.
Nàng tần ngần, luỡng lự mấy giây, rồi e-ấp:
— Nhà em ở Quan Thánh số nhà 68. Vâng, lúc nào thư thả, mời anh... với anh Phong và chị Nga lên chơi.
Lúc Hoằng nói chuyện với Minh-Thu, chàng nhận thấy nét mặt Nga cứ bần thần ra. Nhưng đến khi Minh-Thu đã đi rồi, chàng thấy Nga lại tươi cười, lại liến thoắng lại hỏi, lại nói:
— Chuyến này, anh phải ở Hà-nội lâu, rất lâu mới được. Rồi anh phải lên hồ Tây bơi ‘‘yatch’’ với em đấy.
Nàng ngừng một lúc, rồi bỗng nắm lấy tay Hoằng;
— À, anh xem chị Minh-Thu thế nào? Khá
đấy chứ?
— Kể bề ngoài thì khá đấy. Ăn nói dịu dàng, câu chuyện vừa có duyên, vừa tỏ ra con người có kiến thức. Nhưng không biết lòng dạ ra làm sao?
Nga sốt sắng:
— À, lòng dạ khá lắm. Chị ấy đối với ai cũng tốt. Chị ấy chơi với em rất thân. Ấy, hễ cứ vắng nhau độ ba hôm không gặp mặt là nhớ sôi lên, không chịu được.
Phong vừa vào nhà trong, bước ra ngay:
— Thế nào, ông mãnh! Chuyến này ở Hà Nội lâu chứ?
— Xem đã!
— Còn xem cái gì? Ở đây, rồi lấy vợ, rồi sống cái đời tươi đẹp của kinh thành. Tội gì vùi mình ở xó rừng, phí cả một đời niên thiếu.
Hoằng cười:
— Nhưng lấy ai mới được chứ? Ai người ta lấy mình?
— Thiên hạ thiếu gì người! Chỉ sợ mình không để ý tìm tòi đấy thôi.
— Tìm! Anh bảo tìm ở đâu! Đàn bà thì khối ra đấy, nhưng chọn được một người ý hợp tâm đầu với mình không phải là dễ.
— Ấy thế mà có đấy, ở gần nách anh đấy. Mà anh vừa gặp đấy!
— Ai thế?
— Hãy đợi! Hãy đợi! Người hay lắm kia!
Hoằng tủm tỉm:
— Thì đệ cũng đã đoán ra là ai rồi.
Phong gật đầu:
— Thế nào? Khá đấy chứ?
— Kể thì hay đấy. Nhưng biết rằng rồi ra có nên công chuyện gì hay không?
— À nên hay không nên là tự mình chứ.
Hoằng vừa mấp máy môi toan nói thêm một câu nữa thì sực trông thấy Nga, thấy nét mặt Nga, chàng lại ngậm miệng nín bặt.
Nga từ nãy đến giờ ngồi tì má trên bàn tay, mắt đăm đăm nhìn ánh sáng đèn điện. Nghĩa là nàng không nhìn gì cả.
Trái với lúc mới gặp Hoằng, nàng vui vẻ, nhí nhảnh bao nhiêu, thì bây giờ nàng bần thần, lặng lẽ bấy nhiêu. Tâm trí nàng như để đâu đâu, tại nàng như không nghe thấy những điều hai người đang trò chuyện.
Tự dưng, Hoằng cũng lặng im. Chàng thấy như trong không khí có một hơi buồn nó lan khắp phòng, nó bọc lấy chàng, mà thấm vào lòng chàng một nỗi ngán ngẩm vẩn vơ.
Chàng muốn cất tiếng nói để xua đuổi cái ngán ngẫm vẩn vơ ấy đi, nhưng cặp môi hồ mấy mấy lại thôi. Biết nói cái gì?
Vì Hoằng thấy ngao ngán vẩn vơ mà cũng chẳng biết ngao ngán vẩn vơ vì đâu?
Vì Hoằng thấy Nga bỗng dưng có vẻ buồn, chàng cố tìm cái nguyên cớ của nỗi buồn mà chàng cảm thấy rẳng nó cũng vẩn vơ như nỗi lòng chàng, nhưng cố tìm mà chẳng thấy.
Một lúc, bỗng Nga ngửng phắt đầu lên. Một nụ cười tươi nở trên môi nàng:
— Anh Hoằng tài đoán đấy. Anh em sở dĩ viết bức thư cần kíp gọi anh về như có việc cấp bách ấy, là có ý định đem anh lại với chị Minh-Thu đấy.
Rồi nàng bước đến bên Hoằng ;
— Thế nào? Anh xem chị Minh-Thu em có
xứng đáng làm vợ anh không?
Hoằng lắc lắc đầu:
— Đâu mà đã vội vàng quá thê. Lấy một người vợ, nghĩa là ghép cái đời người ta vào với đời mình, đâu phải là một chuyện dễ dàng, Anh xem bức thư của anh Phong, cái bức thư kỳ khôi anh vừa đọc lúc nãy, và nhất là trong những bức thư trước, thấy anh Phong tha thiết đến sự hôn nhân của anh, anh rất cảm kích. Và anh cũng đã linh cảm thấy rằng anh Phong gọi anh về ngay, tất anh đã ‘‘dòm’’ món nào cho anh đây. Kể ra cô chị em họ của em người cũng khá đấy, nói có duyên đấy, câu chuyện không đến nỗi rỗng đấy. Nhưng anh chỉ mới biết thế thôi. Anh đã biết tính tình, chí hướng, tâm hồn cô ta thế nào? Lỡ một cái, khổ cả một đời anh, khổ cả đời cô ta nữa.
Nga nhất quyết:
— Không, em xin cam đoan với anh rằng chị Minh-Thu là người rất khá, rất xứng đáng với anh. Em xin làm hết các cách để cho anh được gần chị ấy luôn luôn. Anh sẽ thấy quả là hòn ngọc quý.
Hoằng cảm động đáp:
— Đa tạ cái lòng tốt của em gái anh. Nhưng hiện thời, anh thực chưa có ý tưởng gì về Minh-Thu cả.
Mặt Nga bỗng hớn hở:
—Thật thế chứ?
Hoằng có vẻ quả quyết:
— Anh thành thực với em gái của anh rằng lòng anh như thế.
—Thế sao vừa rồi, em xem ra anh... ân cần với chị ấy thế?
Hoằng chần chừ một khắc rồi đáp:
— À... vì lẽ xã giao. Chứ Minh-Thu với anh thì cũng như cô Lý, cô Thanh, cô Mai, có khác gì đâu.
Hoằng nói vậy, mà rồi chàng cảm thấy rằng mình nói dối. Vì, sự thực, nói đến Minh-Thu là chàng cũng thấy lòng đôi chút vấn vương.
Chàng thấy mình không được thực thà trong ý tình mà hối hận. Nhưng chàng cũng lại mừng,—chẳng biết vì đâu mà mừng — rằng sự nói dối ấy đã đem lại nét hồng tươi trên mặt Nga.
Phong thì đâu có hiểu đến cái chỗ u- uẩn của lòng bạn ấy. Anh bô-bô:
— À, thôi, chú nó cứ bưng mắt trẻ con làm gì thế! Có Nga nó chưa biết gì, nó không nhìn thấy cái chỗ người ta luyến nhau mà không biết, hay biết mà không thú nhận đó thôi. Sự thực nó sờ sờ ra đấy. Chứ lại bảo rằng coi Minh-Thu cũng như coi chị Thanh, chị Mai, chị Lý, thì chặt đầu, anh cũng không chịu.
Mặt Nga đang hớn hở bỗng sa sầm ngay xuống. Nhưng chỉ một giây, nàng lại tươi cười, lại vồn vã:
— Nếu thế thì là một điều đáng mừng lắm.
Phong gật:
— Chứ sao!
Hoằng đã nhận thấy nét biến đổi trên mặt Nga. Chàng thấy lòng hoang mang. Chàng thấy một cái gì như đè nặng lên thần trí chàng, làm cho chàng khó thở,.Chàng đứng giậy:
— Thôi, xin phép anh và em, về qua nhà.
Vừa nói, chàng vừa nhìn Nga, thấy mặt nàng lại xịu xuống.
Nga chưa kịp nói gì thì Phong đã choang choang:
— Ồ, đâu mà vội thế! Anh em xa nhau bốn năm năm, lại không gác chân nhau nằm ngủ một đêm mà nói chuyện được hay sao?
Hoằng phân trần:
— Phải về qua nhà. Đến Hà nội là lại luôn anh, chưa kịp về nhà. Mấy năm nay không gặp mặt thầy tôi, cha con xa nhau, chỉ thỉnh thoảng thư từ thôi. Giờ phải về mới được.
— Thì hãy ngồi chơi lúc nữa! Mới có mười một giờ hơn. Mười hai giờ hãy về.
— Thôi, xin để đến mai. Thầy đệ không ưa thức khuya, về muộn sợ người thức giấc.
Nga cũng lạnh lùng nói:
— Anh ấy đã nhất định về thì để anh ấy về, giữ làm gì, không khéo anh ấy lại giận cho.
Hoằng đi đến bên ghế Nga ngồi, ôm lấy đầu Nga, cúi đặt cái hôn của người anh giai lên trán nàng:
— Anh bao giờ dám giận em gái. Em gái chả giận anh đã là may cho anh lắm rồi.
Phong đưa Hoằng ra đến cửa, cầm tay bạn, ân cần:
— Trưa mai, anh lại xơi cơm với đệ nhé!
— Xin để đến chiều. Bữa trưa đệ phải ở nhà hầu cơm ông cụ. Cha con xa cách đã lâu ngày.
— A, thế nào, anh với ông cụ đã hòa nhau rồi đấy chứ?
Hoằng thở dài:
— Cũng vẫn cứ bằng mặt nhưng chẳng bằng lòng. Mình là con, biết làm thế nào? Nhưng gì chứ ép duyên thì đệ đành cam mang tiếng là bất hiếu.
— Thì ông cụ chỉ mong có dâu và chóng có cháu bế chứ có đếm xỉa đâu đến tình với ái. Đối với các cụ, hôn nhân trước đã, ái tình đến sau. Từ bao nhiêu đời đến nay vẫn thế, làm thế nào được?
Rồi thân mật bảo Hoằng:
— Anh cứ để yên, tôi làm mối cho anh lấy Minh-Thu là mọi việc gia đình ổn thỏa cả.
Hoằng cười:
— Nhưng cái điều ổn thỏa cần hơn hết là lòng mình trước đã.
Tiễn Hoằng xong, trở vào, Phong bảo Nga:
— Chúng ta phải cố làm cho hai người yêu nhau. Minh-Thu mà lấy Hoằng, vừa tốt đôi, vừa mẹ và các em nàng có người che chở. Mà đời Hoằng cũng đỡ quạnh hiu.
Ở nhà Phong bước ra, Hoằng đi loanh quanh mấy phố, không định về nhà, cũng không biết vào đâu.
Lúc ấy, phố xá đã vắng người đi lại. Những chiếc bóng đèn chùm kín nửa trên, hắt xuống mặt đường nhựa, ánh lửa lờ mờ. Những mặt nhà ẩn trong bóng những chỗ giở tối, giở sáng, những nóc đen chìm trong bóng đêm, Hoằng trông mới đìu hiu làm sao!
Đã bốn năm, anh xa Hà Thành. Nay, anh thấy một HàThành ủ - ê trong bóng đêm và bóng của chiến tranh. Nhiều lúc, anh đi dưới những gốc cây, bóng lá che đen, mà có cái cảm tưởng như đi ở miền quanh đồn điền trên rừng.
Vẻ lặng lẽ của thành phố, mầu bí mật của các ngõ ngách cho anh cái cảm tuởng của một người lạc bước. Và nó cho luôn anh cái cảm tuởng một người lẻ loi.
Phải, anh thấy anh lẻ loi, lẻ loi cả ngoài đời lẫn trong lòng.
Bốn, năm năm ru rú trên một đồn điền, anh đã biết cái lẻ loi là cái gì rồi. Nhưng không lúc nào, anh thấy anh ‘‘một mình’’ quả như thế.
Có lẽ vì cái cảnh hội hợp đầm ấm trong căn phòng sáng sủa lúc nãy đã gieo vào lòng chàng một nhớ tiếc bâng khuâng lúc bước chân ra. Rồi cái cảnh ban đêm, phố vắng lại làm cho lòng nhớ tiếc ấy chuyển thành lòng buồn rầu.
Chàng nghĩ thầm: Lúc này, giá có một người vợ khoác tay mình cùng đi chơi trong bóng tối, thì cái bóng âm thầm, tranh tối tranh sáng này sẽ kín đáo cho những lữ khách của yêu đương biết mấy!
Bấy giờ, chàng mới nhớ tới Minh-Thu. Và chàng lấy làm lạ: Tại sao đến lúc ấy, chàng mới nhớ tới con người mà chàng phải tự thú rằng đến trước mặt người ấy, lòng chàng quả đã có phút sao xuyến.
Nhưng nhớ đến Minh-Thu, chàng lại thấy cái hình ảnh Nga hiện rõ ra trong tâm trí chàng. Một cái hình ảnh lúc tươi cười, lúc lừ- lừ nhìn chàng như trách móc.
Chàng tự xét mình, xoát tại những cử chỉ, nhớ lại những lời mình đã nói trong nhà bạn, thấy chẳng có gì là đángtrách cả. Chàng lẩm bẩm:
— Hay là Nga có ý tình gì với mình chăng?
Rồi chàng lắc đầu, giơ tay như để phân bua với mình:
— Nhưrg mà mình có làm gì đâu! Thì đã hẳn là chàng không làm gì. Nhưng cái nó đến cho lòng chàng, nó vẫn cứ đến, mặc dầu chàng chẳng làm gì cả.
Mặc dầu chàng không muốn, hai cái hình ảnh của hai thiếu nữ xinh đẹp vẫn đến làm rộn lòng chàng thanh niên đi một mình trong đêm khuya, chúng theo chàrg trong mỗi bước, trong mỗi cử chỉ. Rồi chàng nói, chàng nói bằng cái tiếng nói yên lặng mà hùng biện, vang trong tấm lòng nhớ nhung vẩn vơ.
Phong về Hà Nội đã hơn một tháng rồi. Chàng vẫn chưa nghĩ đến sự lên đồn điền.
Trong cái khoảng thời gian ấy, chàng chỉ có hai việc: đến chơi nhà Minh-Thu và đến chơi nhà Nga.
Lần thứ nhất đến chơi nhà Minh-Thu, thấy cái cảnh thanh bạch nhưng cần mẫn của gia đình nàng, chàng thấy bồi hồi cảm động, và nhất là câu chuyện có ý vị của Minh-Thu lại như rót cái vị ngọt vào tâm hồn của một kẻ đã từng quen sống trong cái chua cay của đời vật lộn. Chàng thấy lòng chàng như được nghỉ ngơi bên con người thùy mị, dịu dàng. Ra về, chàng có cái cảm tưởng lưu luyến cái gia đình êm ấm của nàng, và mẹ nàng, và các em nàng.
Và chàng linh cảm thấy rằng một cái gì đã dính vào đời chàng mà từ nay, chàng khó lòng rời ra được một cách thản nhiên.
Nhưng đến lúc Hoằng đến nhà Phong thì chỉ một nụ cười, một câu nói với cái giọng trong trẻo của Nga là bao nhiêu những cái gì dính vào tâm trí Hoằng, cả cái quá khứ nữa, vụt tiêu tan.
Cùng Nga cười cợt, cùng Nga đua thuyền, đánh quần, đi xe đạp về những miền nhà quê, chàng lại thấy lòng mình tưng bừng lên, trẻ thơ lại.
Những lúc ấy, chàng quên hẳn Minh-Thu, hay có nhớ đến cũng chỉ như nhớ một kỷ niệm mờ nhạt trong quá khứ.
Thế rồi ra về, chàng thấy một hối hận thắt bóp lòng chàng. Và chàng nhớ, nhớ một cánh hoang mang cả hai người bạn gái ấy. Chàng trộn lẫn cả hình dáng, cử chỉ, tiếng nói của người nọ sang người kia. Tình trạng ấy gây nên một mối băn khoăn, thắc mắc có nhiều cái rất lý thú, nhưng cũng có nhiều khi rất khổ lòng.
Hoằng thấy mình như vật vờ giữa hai con đường, và nhiều lúc biết rằng mình dối lòng
mình mà vẫn cứ phải sống thế.
Lại khốn nỗi, chàng không tìm thấy ở Nga hay ở Minh-Thu một tính xấu nào rõ rệt để cho lòng mình có cớ mà nghiêng về một bên.
À, một vài thói quen, một vài cái tật lặt vặt thì có đáng kể gì!
Lần nào đến Minh-Thu chàng cũng được nghe một lời Minh-Thu nhắc nhở đến Nga, hoặc khen ngợi một việc làm tốt đẹp.
Mà hễ gặp Nga là y nhiên Nga hỏi săn, hỏi đón về đức tính của Minh-Thu, và hớn hở khi thấy Hoằng tỏ ý khen Minh-Thu điều gì, và băn khoăn khi chàng chớm có một ý nghĩ bất mãn về Minh-Thu.
Duy chỉ đôi khi, trong những phút yên lặng, chàng thấy thoáng qua một gợn tư lương trên vầng trán trắng ngần của Nga hay trong đôi mắt thăm thẳm của Minh-Thu.
Một buổi sáng chủ nhật, sau bữa cơm trưa ở nhà Phong, cả bọn bàn cách tiêu khiển buổi chiều hôm ấy.
Nga đề nghị ngay:
— Họa đàn.
Hoằng biết nàng đề nghị như thế là vì cuộc tiêu khiển ấy hợp với cái sở thích của Minh-Thu. Và cũng là một dịp để cho Minh Thu trổ tài.
Mọi người cùng tán thành:
— Phải đấy. Đã non một tuần nay, chưa được nghe đàn chị Minh-Thu.
Nhưng Minh-Thu gạt ngay:
— Thôi, không họa đào. Đàn ca mãi cũng nhàm. Hôm nay chiều giời mát mẻ, chúng ta lên Hồ Tây bơi thuyền, thú hơn.
Nga lắc đầu quầy quầy:
— Không. Bơi thuyền mãi cũng chán. Nghĩ cái gì khác cho nó đổi món.
— Hay đi xem chớp bóng?
Phong gạt ngay:
— Hủ chết! Anh Hoằng nghĩ xem có cái hay hơn không?
— Thì cũng chỉ một là ở nhà nói chuyện, họa đàn, hai là lên hồ chơi mát. Chứ chả lẽ đi coi đá bóng!
— Nhưng hai đàng, cũng phải chọn một chứ.
Hoằng băn khoăn, không biết nên đi hay nên ở nhà. Ở nhà thì hợp với sở thích của Minh-Thu. Mà đi thì sẽ làm hài lòng Nga.
A, thì vẫn biết rằng có làm gì một vài cái thích vặt ấy. Nhưng kẻ có lòng với nhau, đón ý nhau từng cái nhỏ nhặt mà đi.
Khốn thay, chàng muốn chiều Minh-Thu, chàng lại muốn được lòng cả Nga. Bởi thế, chàng mới không biết chọn bên nào, đừng bên nào.
— Hay ta hòa đàn xong rồi lên hồ cũng vừa.
— Ồ, như thế giở giang ra. Giữa cuộc vui mà ra đi thì còn thú gì nữa. Mà như thế lên hồ cũng muộn quá.
Phong đề nghị:
— Hay là ta làm cái lối bấu phiếu xem đa số thiên về bên nào?
Viễn họa theo ngay:
— Phải đó. Ta thử bầy cái trò ‘’ bảo cử”
chơi mà lại thú đấy.
Cả bọn biểu đồng tình:
— Phải đấy. Bây giờ ta chia ra làm hai phe ra ứng cử. Một bên là chị Minh-Thu, một bên là chị Nga. Chúng ta bầu phiếu kín, xem ‘‘quốc dân’’tín nhiệm về ai. Hễ Minh' Thu mà được đã số tía-nhiệm hơn thì hòa đàn. Mà Nga được hơn số phiếu thì đi bơi thuyền.
— Hay đó! Hay đó!
Cả bọn cùng xúm nhau lại cắt giấy chia cho từng người, gọt bút chì.
— Nhưng lấy gì làm hòm đầu phiếu? Nga nhìn quanh quẩn, rồi chạy ra mắc áo:
— Đây rồi! Hãy mượn tạm cái ‘‘thủ cấp’’
anh Hoằng!
Nàng lấy cái mũ dạ của Hoằng, đặt ngửa lên giữa bàn.
Hoằng mân mê bút chì, băn khoăn không biết viết tên ai.
Cái trò chơi ấy, tuy thực ra không có nghĩa gì, nhưng Hoằng cho đó là một việc đòi một quyết định quan trọng. Vì nó là khởi điểm cho biết bao nhiêu việc quan trọng về sau.
Là người thận trọng cách ăn ở, thận trọng ngay từ trong ý tình mà đi, Hoằng thấy trước khi hạ một chữ tên vào cái mảnh giấy cỏn con này, chàng cần phải suy nghĩ nhiều. Viết tên Minh-Thu hay viết tên Nga?
Thì viết tên ai mà chẳng được! Chàng đã nghĩ thế, nhưng nó vẫn làm sao ấy.
Cái việc làm tuy giản dị, không ai biết đến ấy, với chàng, nặng giá bằng một lời thề. Tuy không ai biết, nhưng giời biết, nhưng chàng biết.
Nếu sau này mà chàng ăn ở trái với cái đà lòng lúc này!
Cứ nghĩ viễn vông thế mà chàng thấy ngại ngùng.
-Kìa anh Hoằng, bỏ phiếu đi chứ! Xong cả rồi.
Hoằng chợt tỉnh, anh liền cầm mảnh giấy trong tay, nghí ngoáy đầu bút chì, rồi gấp, ném vào ‘‘hòm đầu phiếu’’.
— Cử tri đến đủ rồi!
Viễn nhặt những tờ phiếu, mở ra đọc:
— Nga... Minh-Thu... Minh-Thu... Nga… Minh-Thu... Nga.. Nga... Minh-Thu...
Hoằng bỗng thấy trống ngực đánh, bồi
hồi. Chỉ còn một phiếu nữa thôi.
— Ơ, sao lại có phiếu trắng thế này!
Mọi người nhao-nhao:
— Sao lại phiếu trắng?
— Ai lại bỏ phiếu trắng thế?
Nga nhìn Hoằng, rồi nói ngay:
— Biết ai? Đã là đầu phiếu kín, sao lại còn hỏi ai?
— Tuy thế, cũng nên biết rõ tại làm sao lại có người bầu phiếu trắng?
Lý hỏi:
— Hay là trong bọn ta, có người không muốn dự cuộc vui nữa?
— Ai mà lại muốn tách ra khỏi đoàn thế?
— Hoăc giả có nguyên cớ gì khác chăng?
Phải, có một nguyên cớ. Và cái nguyên cớ ấy, trong bọn, không phải chỉ một người biết.
Lao nhao một lúc, rồi Phong lên tiếng át mọi người:
— Hai bên bằng phiếu, Vậy thế bây giờ làm cách nào để định đoạt?
— Khó gì! Bây giờ ta làm cái lối rút thăm.
— Phải đó, thế mà nghĩ không ra. Thật là dung dị!
Thật là dung dị, phải một cuộc tiểu khiển có khó gì đâu.
Nhưng đời đâu phải là tiêu khiển tất cả. Và đời đâu có dung dị như cuộc rút thăm ngày hôm ấy.
Viễn lấy ngay hai cái phiếu, một cái tên Minh-Thu và một cái tên Nga, vê tròn lại ném vào mũ. Y sóc sóc một lúc, rồi đưa đến trước mặt Hoằng.
Không biết cái cử chỉ của y là vô tình hay cố ý. Chỉ biết rằng Hoằng từ chối:
— Sao lại tôi? Khách mạnh không lấn chủ. Rồi sợ Viễn cố gặng, anh bưng luôn ngay chiếc mũ, chìa đưa cho Phong.
— Nga!
Sự tình cờ đã định.
Chiếc yatch, buồm căng gió, lướt veo veo trên mặt nước hồ lăn tăn. Hoằng để trùng giây buồm cho chiếc du thuyền tự do theo gió ra giữa hồ. Ngồi bên chàng, Minh-Thu thỉnh
thoảng lại thõng tay xuống mặt hồ, để cho
làn nước đẩy cái cổ tay trắnng nõn trôi trôi ra sau.
Cách thuyền của hai người chừng hơn một trăm thước, Nga một mình một chiếc yatch, đang bắt giây lèo cho yatch Iuợn vòng tròn, cánh buồm nghiêng hẳn về một bên. Xa xa, Viễn và Lý cũng đang mặc cho cánh buồm uống gió.
Bỗng từ chiếc yatch của Nga bay lại một giọng hát véo von, cả Hoằng lẫn Minh-Thu cùng lắng tai.
Tiếng hát của Nga mỗi lúc một lên cao, một réo rắt:
‘‘Ngồi dưới bóng buồm bay phấp phới,
Lắng tai nghe như cởi tấm lòng.
Nhặt khoan giọng hát ngư ông,
Gió chiều càng thổi, tiếng đồng càng cao,
Nàng mới hỏi: Trời sao sáng tỏ?
Nọ chị Hằng lấp ló trong mây.
Rằng: Sao sáng khắp đó đây,
Từ làn bọt bể đến cây giữa rừng.
Lòng đây cũng bừng bừng sáng rọi,
Hỏi Căn nguyên đó bởi cớ sao?
Có cây sóng gió rì rào,
Khiến cho đây cũng nao nao tâm thần.
Hay là bởi lòng trần còn vướng,
Nên người vui, cảnh tưởng đều vui?
Hỡi chàng! Quê quán xa xôi,
Quê chàng vắng thiếp, có vui chăng chàng?
(Rút ‘‘Premier regret’’ của Lamartine. Bản dịch của Nam-Vân).
Tiếng hát trong, cao, lúc trầm, lúc bổng, gợi mối xao xuyến trong lòng Hoằng. Chàng đưa mắt mơ hồ về phía Nga. Lúc ấy, nàng đã thôi hát, đang dong thuyền về phía Petit Đồ Sơn.
— Trời ơi! Sao hôm hay giọng hát của em Nga nghe não nùng đến thế nhỉ?
Minh-Thu nín lặng.
Hoằng ngây người ra một lúc lâu, như quên hẳn rằng có Minh-Thu ngồi ở bên cạnh.
Đến lúc nàng cựa mình, chàng mới vùng tỉnh, quay lại.
Nét mặt Minh-Thu vẫn thản nhiên. Nhưng dấu vết một cái buồn chạy qua hãy còn rớt lại trên khóe mắt.
— Minh-Thu nghĩ gì thế?
Minh-Thu lắc đầu:
— Minh-Thu có nghĩ gì đâu!
— Nhưng hình như Minh-Thu buồn?
Minh-Thu lại lắc đầu:
— Minh-Thu có nghĩ gì đâu! Minh Thu có buồn gì đâu! Minh-Thu vui lắm,
Giọng nói như hơi gió thu thổi qua quán
chiều,
— Không, Minh-Thu có buồn. Tôi biết.
Minh-Thu vùng cười sằng sặc:
— Anh Hoằng đến hay. Cứ gán cho người ta
những tình cảm không có. Người ta vui thì cứ bảo người ta buồn, tức cười chưa.
Hoằng không cười. Anh cúi đầu bần thần. Chiếc yatch không ai giữ giây lèo, cứ thuận gió ra tít tận giữa hồ
Bỗng đâu cơn gió xoay chiều thổi lật cánh buồm, quay nghiên hẳn chiếc thuyền.
Minh-Thu đang lúc mải mê nghĩ những đâu, giật mình kêu rú lên một tiếng: ‘‘Ối chao!’’ Nàng chới với mấy cái, rồi lăn ùm xuống hồ.
Hoằng không để ý, đến lúc nhìn thấy, vội vàng choài mình ra nắm lấy áo Minh-Thu. Không ngờ vì thế, chiếc yatch nhẹ tênh hẳn một bên nên đồ lật nghiêng, hất nốt chàng xuống hồ.
Hoằng vội ôm ngang ngực Minh-Thu, cất đầu nàng lên khỏi mặt nước.
Lúc ấy, Minh-Thu đã uống phải vài ngụm nước, đang nhăn mặt, đập tay đập chàn ùm-ùm. Hoằng luồn một tay đỡ dưới ngực nàng
miệng luôn luôn:
— Em đừng sợ. Đừng cuống. Cứ để yên anh dìu vào bờ.
Minh-Thu chỉ gọi là võ vẽ biết bơi, giữ mình cho nổi được trên mặt nước đã là may rồi, Hoằng phải bơi cho cả hai người.
Lúc ấy, Hoằng thấy mặt hồ sao mà rộng thế, bờ hồ sao mà xa thế! À, ra khi người ta ngôi trên mặt nước với khi người ta ngâm mình dưới nước trông lên bờ, gần xa khác nhau nhiều.
Thấy mình là một gánh nặng cho Hoằng, Minh-Thu cũng đập chân, quờ tay. Nhưng nàng không bơi không khá, nàng bơi, Hoằng lại càng khó nhọc thêm, hết sức mới giữ cho nàng khỏi chìm lỉm.
Hồi lâu, thấy Hoằng thở mạnh, Minh-Thu khẽ bảo chàng:
— Thôi, anh buông em ra mà bơi vào bờ.
Hoằng nhìn nàng, lắc đầu:
— Chết thì cùng chết!
Hoằng đã gần thất vọng thì một cánh buồm trắng từ xa phăng phăng lướt tới.
Nga đứng thẳng trên yatch, gan ruột tơi bời như điên cuồng. Nàng dẫm mạnh xuống thuyền, cơ hồ muốn đạp tan đáy thuyền ra.
Chiếc thuyền lướt veo veo trên nước. Nàng vẫn thấy nó chậm như rùa. Chốc chốc, nàng chỉ lo hai cái hình đang vật lộn với nước kia chìm xuống, mất hút.
May sao, lúc nàng gần tới là lúc Hoằng vừa mệt lả.
— Cố lên! Anh chị cố lên! Em đến đây.
Tiếng gọi của bạn giữa cơn nguy cấp có cái sức mạnh của một liều thuốc hồi sinh.
Hoằng phấn chấn hẳn ngay lên, Chàng gắng, chàng gắng cái sức cuối cùng, thì vừa may, lúc chàng kiệt sức, chiếc yatch của Nga vừa luớt tới.
Nga ngoằng giây lèo cho chiếc thuyền lượn một vòng bán nguyệt, ghé từ từ đến bên hai người.
— Em cố... vịn chắc...
Hoằng vừa thở, vừa cố dìu Minh-Thu cho nàng bám lấy chiếc yatch,
Nga rối rít:
— Anh đỡ cho chị ấy chèo lên,
Hcằng làm theo, và miệg anh luôn luôn
— Ấy khéo em đứng... sang bên kia... không thuyền ụp.
Cố mãi, cố mãi, và nhờ có Nga giúp sức, Hoằng mới đun được Minh-Thu lên thuyền. Đoạn, chàng nằm ngửa, làm ‘‘planche’’ trên mặt nước, rang cả chân tay ra mà thở.
Nga nhìn chàng, chứa chan tình thương sót:
— Anh cũng lên đi. Coi anh mệt lắm rồi.
Hoằng thở mấy cái, rồi lại lật sấp mình xuống, Chàng bám lấy đằng sau lái:
— Em đừng lo... Thế này... được rồi. Em cứ đỡ chị Minh-Thu... Chị ấy mệt lắm...
Nga đỡ Minh-Thu nằm xuống thuyền, rồi bẻ lái về phía bờ.
Lúc ấy, trên mặt hồ, những cánh buồm trắng tới tấp kéo ra cứu ứng
Ba hôm sau, Hoằng đến thăm Minh-Thu, thấy nàng đã bình phục như thường, chỉ còn hơi xanh:
— Chị phải mặc ấm vào, kẻo nhỡ lạnh phổi.
— Em có sao đâu. Em vừa định lại anh, rồi cùng đến đằng Nga.
— Chết, chị phải ở nhà tĩnh dưỡng cho lại hẳn mới được chứ!
— Không, em có việc gì đâu! Gớm, anh cứ làm cho to chuyện. Một cuộc tắm nước lạnh bất đắc dĩ, và bất-đắc-dĩ uống mấy ngụm nước có nghĩa gì!
Hoằng cười:
— Bây giờ chị nói thế, chứ hôm ấy ở dưới hồ, hẳn là có nghĩa lắm!
Minh-Thu tủm tỉm:
— À, cái ấy thì đã hẳn. Nếu anh không cố gắng, và nếu Nga không ra cứu mau thì kể cũng nguy thật.
Nàng lấy thuốc lá mời Hoằng, rồi tiếp:
— Vì thế, em vừa sắp lại anh để cảm ơn cứu sống của anh, và rồi lại Nga một thể.
Hoằng xua xua tay:
— Ồ, vẽ! Đã là chỗ bạn thân, sao Minh-Thu lại còn khách sáo thế?
— Lẽ phải như thế chứ. Với lại em cũng có một chuyện cần phải nói với anh.
— Chuyện gì thế?
Minh-Thu tủm tỉm:
— Chuyện tâm sự.
Hoằng bỗng thấy long hồi hộp:
— Gì thế? Chị nói đi.
Minh-Thu gật đầu một cái:
— Thì hãy khoan, đi đâu mà vội?
Nàng không vội, nhưng chàng vội, chàng nóng nghe lắm. Một câu chuyện tâm sự nàng đã đem chuyện tâm sự ra mà nói với chàng, thì trong lòng nàng, hẳn chàng đã cò một địa vị thân mật đến bực nào!
À, thì ra từ trước đến giờ, nàng đã có biệt nhỡn đối với Hoằng, nàng hẳn đã có nhiều lúc muốn ngỏ một nỗi lòng u- ẩn gì đó với chàng mà chỉ vì chưa có dịp.
Hoằng mát rợi lòng, hân hoan đợi.
Sau một cái nhìn như gửi cả linh hồn, Minh-Thu chầm chậm lên tiếng:
— Anh ạ, ít lâu nay em nhận thấy một điều mà có lẽ anh vì lơ đãng, không để ý. Là em Nga đã yêu anh. Nó yêu anh lắm mà không dám nói ra.
Hoằng giơ tay phác một cử chỉ phản đối, nhưng Minh-Thu vẫn không ngừng:
— Không, em nói thật. Nga yêu anh lắm lắm, một mối tình thầm kín, có lẽ chớm nở từ ngày nó còn cùng với anh đi học. Vậy mà anh — phải nói là ngốc thật, — đã chẳng nhìn thấy cái gì cả.
— Không có lẽ!
— Thật mà! Em lầm thế nào được. Một điều quan hệ như thế, trước khi nói với anh, em phải xét nghiệm rõ ràng rồi mới dám nói chứ. Chả tin, anh thử tìm cách gợi lòng Nga mà xem
Thì HcẳHoằng biết thế lắm rồi. Nhưng chàng vẫn cố bảo thầm chàng rằng như thế là không đúng. Chàng vẫn cố nuôi một cái ảo tưởng để được tự do bước lên con đường đi vào lòng Minh-Thu.
Nhưng bây giờ, cái ảo tưởng ấy tan rồi, tan ngay trong câu nói của Minh-Thu.
Tự dưng, chàng thấy lòng buồn rười rượi:
— Thế ư? Câu chuyện tâm sự của chị chỉ có thế thôi ư?
— Vâng, chỉ có thế.
Hoằng nhìn Minh-Thu, nín lặng.
Hoằng ở lì nhà đến hơn một tuần lễ. Chàng thấy lòng se sắt, mệt mỏi, chẳng buồn đi đến đâu.
Nhưng một hôm, ánh sáng tưng bừng của một ngày tươi đẹp lôi chàng ra khỏi nhà.
Chàng đi loanh quanh mấy phố, rồi ngẫu nhiên đi tới phố Duvillier, phố nhà Phong ở. Thế là chàng bước vào nhà bạn.
Phong đi vắng Nga thấy chàng, đon đả chạy ra:
— Anh! Anh! Sao mấy hôm nay anh đi đâu mà không lại?
— Anh đi... ann đi... à anh mệt!
Nga rối rít:
— Sao? Anh mệt làm sao? Có nặng không? Thế sao không cho em biết?
— Anh mệt, nhưng anh khỏi rồi!
Nga nhìn Hoằng giây lát, rồi vùng nói:
— Không, anh nói dối em rồi. Anh chẳng đi đâu, anh cũng chẳng đau ốm gì cả.
Hoằng cười:
— Thế ra anh quả là cuội thật à?
Bỗng Nga không cười. Nàng nhìn Hoằng chăm chăm rồi đột ngột:
— Anh đã lại chị Minh-Thu chưa?
Hoằng ngần ngừ giây lát, rồi gật.
Nga nín lặng một lúc, rồi vùng nói:
— Anh… anh Hoằng. Em báo cho anh một tin mừng nhé, một tin mừng cho anh.
— Anh thì còn làm gì có tin mừng nửa?
Nga cười ròn rã:
— Thế mà có tin mừng đấy,
— ?!
— Đây này: Chị Minh-Thu chị ấy yêu anh mà anh không biết đấy!
Hoằng choáng váng một lúc lâu:
— Bậy nào?
Nga quả quyết:
— Thật mà! Em có bao giờ nói dối đâu, nhất là lại nói dối với anh. Em đã bảo chị ấy yêu anh là chị ấy yêu anh thật mà.
Rồi sốt sắng:
— Anh mà lấy chị ấy thì thực là tốt đôi. Nhất là chị ấy lại vừa mang ơn anh cứu sống. Chị ấy sẽ coi anh là ông giời của chị ấy.
Ở nhà Nga buớc ra, Hoằng thấy không biết nên khóc hay nên cười. Yêu? Thì chàng đã được yêu, được yêu nhiền quá. Chàng đã được những hai người yêu chàng.
Nhưng còn chàng? Chàng đã yêu người