← Quay lại trang sách

- 9 - AI CÓ TAI THÌ NGHE-(Mt. 11:15; 13:9, 43; Mc. 4:9, 23; 7:16; Lc. 14:35

Lời phúc âm nói ngang không? Ai là người không có tai. Câu nói đơn giản, dễ hiểu, ai cũng nhận biết và mang kinh nghiệm thực dụng, ai cũng đang, nói theo ngôn từ đạo học Đông Phương là thực chứng sự thể hiển nhiên nơi mình. Nếu cho rằng đây là lời nói của đức Giêsu và cho là Lời Chúa để rồi cứ lặp đi lặp lại, không chịu suy nghiệm, suy tưởng, nghiệm xét, nghiệm chứng, năm chữ, năm tiếng đơn giản này để rồi lờ đi vì nghịch thường, đôi khi cảm thấy xúc phạm, thì có lẽ nên bỏ, không nên theo đức Kitô cho đỡ bực mình do bởi bị khinh thường. Ai không nhận biết tâm tình, phản ứng nơi tâm tư mình khi đọc hoặc nghe câu nói này, tất nhiên chẳng tin gì vào Thiên Chúa, chẳng tin gì vào đức Kitô. Quý vị đừng vội cho rằng tôi vơ đũa cả nắm, chỉ xin tự hỏi mình tin vào đức Kitô nghĩa là thế nào; tin vào đức Kitô là tin nhũng gì; có gì nơi niềm tin ảnh hưởng nơi cuộc sống thường ngày. Nếu nói không tin vào đức Kitô có gì thay đổi nơi cuộc sống của mình không? Có gì ảnh hưởng hoặc thay đổi nơi sự thể hoặc thực thể của đức Kitô không? Nói rằng tin vào đức Kitô thì phúc âm có ảnh hưởng gì tới đời sống của mình. Quý vị có nghiệm xét những câu nói bất thường nơi phúc âm không?

Không thể kiếm bất cứ nơi đâu câu nói đơn giản, bình thường, nhưng nghịch thường này nhưng lại được nhắc đi, lặp lại bẩy lần nơi phúc âm. Bất cứ ai mới thoạt nghe, hoặc đọc câu này, nếu là người để ‎ý và quen suy nghĩ, đều cảm thấy như bị chửi thẳng vào mặt hai tiếng, "Đồ ngu." Thử hỏi, thế sao không bực; chính câu nói kiến tạo nơi tâm tư mình cảm nhận như thế; nếu không cảm thấy như thế, có nghe, có đọc phúc âm thì cũng như nước đổ lá môn, mưa trên đầu vịt; Lời Chúa, Chúa nghe, mình nói tin cho vui, cho giống người khác hoặc tránh bị coi là vô thần bởi thực sự mình có biết tin là gì đâu, có tin chi đâu; Chúa chỉ là bung xung, là con ở cho mình đòi hỏi thực hiện những gì mình muốn, và có bao giờ Chúa làm theo ý mình đâu, Chúa không bao giờ vâng lời mình, có tử tế gì với mình đâu! Ngài có thực hiện gì cụ thể thì chỉ theo ý Ngài mà thôi. Thế nên mình chỉ hô lên tin, tin, nhưng trong lòng thực sự chẳng biết tin là thế nào phương chi sống đức tin. Mà đức tin là gì, sao phúc âm nói khác với những gì mình nghĩ, mình ước mơ, mình thực lòng hy vọng?

Cho dù cố gắng dồn hết lòng trí cầu nguyện mỗi khi chuyện ngoài ý muốn xảy đến, nhưng kết quả của lòng tin, đức tin cứ như không. Hình như sự cầu nguyện chỉ là phương tiện giúp an lòng chấp nhận trong trường hợp bị "Trói lại mà đánh." Tin vào Chúa cũng như chỉ để an lòng mà thôi. Lời phúc âm cứ như trêu ngươi, "Đức tin con cứu con; lòng tin con chữa con," chưa bao giờ, nếu không muốn nói là sẽ chẳng bao giờ hiện thực nơi cuộc đời mình. Tại mình không có lòng tin hay tin không đúng? Tại sao phúc âm cứ liên tục thách đố, "Ai có tai thì nghe;" nghe riết, nghe hoài, đọc tới, đọc lui cũng không thể hiểu phúc âm muốn thách đố điều gì, phải thực hiện hoặc áp dụng ra sao để sử dụng được đức tin, lòng tin nơi cuộc đời.

Vâng, mình không điếc, tạ ơn Chúa, mình có hai tai như mọi người, nghe được đủ mọi chuyện, ngay cả những chuyện không muốn nghe, hoặc vừa nghe thấy xong đã phải vội lòng dặn lòng quên ngay nó đi cho đỡ bực bội; bởi không quên, không lờ nó đi sẽ chỉ sinh thêm tội, nói đấu lại với họ, chỉ tạo thêm kẻ thù vô bổ, phiền hà tâm tư. Vậy phúc âm nói, "Ai có tai thì nghe" nghĩa là thế nào? Muốn nghe được như lời phúc âm phải làm sao? Nơi phương diện nào? Đọc nơi nhà Phật, có câu nói được đặt nơi miệng Thích Ca, "Lời ta nói như chiếc bè;" hoặc, "Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng." Vậy "Ai có tai thì nghe" ám định về điều gì? Tai mình có nghe được không? Rõ ràng là có nghe và thường nghe; nhưng thử hỏi cái tai có thể tự nó nghe được không? Đặt vấn đề như vậy, lại phải nhờ đến Phaolô, thử nghiệm xét câu nói, "Ai có tai thì nghe."

Đúng là ngớ ngẩn nhưng ngớ ngẩn hữu ích; tai có thể tự nghe được không? Kinh nghiệm sống minh chứng, khi một người chết, nghĩa là linh hồn đã ra khỏi xác, tất nhiên người đó không còn có thể nghe, nói, nhìn, hoặc suy nghĩ được gì. Sự thể này minh chứng, xác thân một người, những phần tử của xác thân, cuộc đời một người chỉ là phương tiện cho cái hồn mà thôi. Cái hồn dùng tai để nghe, dùng mắt để nhìn, dùng miệng để nói, và dùng bộ óc để diễn đạt suy tư. Cái hồn suy tư chứ không phải bộ óc như khoa học nói. Thì ra mấy nhà khoa học nói theo thói quen, nói theo kinh nghiệm sống như mọi người. Bộ óc thuộc về vật chất, không thể kiến tạo tư tưởng, ước muốn, ý định, tham vọng hay ước mơ. Cái hồn dùng tai để nghe; thế thì câu "Ai có tai thì nghe" mang ý nghĩa cái hồn có nghe, có biết nghe hay không. Như vậy, "Ai có tai thì nghe" chỉ về điều kiện của cái hồn, điều kiện tâm trí một người, có nghiệm xét, suy tư, suy nghiệm, suy tưởng, nghiệm chứng hay không.

Xưa nay, nay xưa, đâu có ai minh chứng, đâu có sách vở nào viết về sự minh chứng có linh hồn. Dẫu được dạy dỗ, chấp nhận rằng mình có linh hồn nhưng nào mình có biết gì về linh hồn mình đâu. Mình chỉ tin theo, tưởng theo mình có linh hồn nhưng chưa bao giờ đặt vấn đề linh hồn mình thế nào, ra sao! Ấy tin là thế đấy. Nói rằng tin mình có linh hồn, và linh hồn ngay nơi mình nhưng chẳng biết gì về nó. Và như thế, nỏi rằng tin vào Chúa, tin vào đức Kitô cũng vậy; chỉ hô lên, tuyên xưng, nhưng không biết mình tuyên xưng về điều gì, tin về thực thể nào.

Nhờ sự kiện người chết minh chứng một người có linh hồn và linh hồn điều hành cuộc đời, thân xác, và các bộ phận thuộc về thân xác như ngũ quan chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động. Vậy làm sao biết về linh hồn mình ra sao, có sự việc, sự thể nào nơi mình minh chứng mình có linh hồn hay chăng? Dẫu tin rằng hoạt động của linh hồn là tâm trí được diễn trình qua ước muốn, ý định, tham vọng, ước mơ nhưng sao có thể giãi bày cho rõ ràng. Có kinh nghiệm nào, thực chứng nào minh xác liên hệ thực tiễn tới linh hồn không? Kinh nghiệm thực chứng sống động ai cũng biết, ai cũng có nhưng ít ai để ý đặt vấn đề; đó là con mắt nào nơi mình nhìn trong giấc mơ? Ai nói chi thì nói; khoa học giải thích sao thì cứ việc tào lao thiên tướng; tuy nhiên, bất cứ ai đã ít nhất một lần gặp sự việc hay sự thể nào đó đã xảy đến trong giấc mơ nơi cuộc đời tất nhiên sẽ nhận biết; sự thể này được gọi thực chứng. Đồng thời người đó cũng nhận ra được nơi con người của mình có cái gì đó có con mắt nhìn trong giấc mơ. Con mắt nhìn trong giấc mơ này có thể nhìn về quá khứ, và cũng có thể nhìn trước tương lai.

Sau ngày ba mươi tháng tư năm 1975, tôi bị kẹt lại nên cùng một người bạn đến chung sống với cỡ bốn mươi gia đình nơi vùng kinh tế mới Tân Hữu, nằm trên con lộ nối từ Dầu Giây lên miền Võ Đắc, Võ Xu. Tôi thường vác rựa theo nhóm người vô rừng chặt những bộ sườn nhà đơn sơ, làm nhà kinh tế mới, để bán cho công ty nào đó. Một hôm, theo đường xe be tới một khúc quanh, tôi giật mình vì chợt cảm thấy mình đã ghé qua đây lần nào đó khi nhìn thấy một khúc gỗ lớn cỡ hơn vòng ôm, mục một phần, đã trở thành màu xám do ảnh hưởng mưa nắng đã lâu ngày. Nơi phần giữa ngửa lên trên, gỗ bị mục nhiều hơn các phần còn lại, một bụi cỏ cỡ hai bàn tay, lá dài buông thõng theo chiều ngang khúc gỗ, giơ vài cọng đã rụng hết cánh bông. Tôi tự hỏi trong ngỡ ngàng, sao tôi có thể đã qua đây lúc nào vì, cho đến ngày ấy, cả đời tôi hoặc tới trường lớp, hoặc làm rẫy với gia đình nơi miền quê xa cách với miền đèo heo gió hú này. Và tôi chợt nhận ra đã thấy cảnh này trong một giấc mơ không hiểu đã năm hoặc ba năm trước.

Sở dĩ tôi nhắc đến khúc quanh đường be, khúc cây mục, và khóm cỏ vì những hình ảnh này đã in vào tâm trí tôi từ một giấc mơ. Mãi sau này, chẳng biết bao nhiêu năm, khi đọc về sự thoát hồn của những vị sư Tây Tạng v.v…, tôi mới để ý nhận ra nơi mình có con mắt nhìn trong giấc mơ. Con mắt này có thể nhìn thấy sự việc trong quá khứ, và chẳng những thế, nó cũng có thể nhìn thấy sự việc nào đó có thể sẽ gặp trong tương lai. Con mắt này hiện diện nơi đâu trong tôi; nếu trong tâm trí sao tôi không thể nghiệm chứng; nếu nơi nào đó trong cơ thể thì lại càng phi lý hơn (Khai Phá Phúc Âm; Lã Mộng Thường; Litho Printers; MO. USA; 2021; Tr. 40-41).

Nhận biết được mình có linh hồn và cũng nhờ nhận biết được sự liên hệ và hoạt động của linh hồn với xác thân, không cần phải đặt vấn đề tin hay không, tôi biết chắc sự sống đời sau là cuộc sống của linh hồn, đồng thời cũng thực sự nhận ra cuộc sống xác thân chỉ là phương tiện cho linh hồn thăng tiến. Dẫu xác thân cũng như cuộc đời là cơ hội nhưng điều kiện sống và nhu cầu nhân sinh ảnh hưởng nặng nề tới sự thăng tiến của linh hồn. Ước mơ, hy vọng, tham vọng, ý định, niềm tin đều phát xuất tự linh hồn, nhưng nếu không nhận biết sự thể này mà chỉ cho rằng những hoạt động của tâm trí phát xuất từ bộ óc, tham vọng sẽ vượt trỗi lên trên và ảnh hưởng cũng như che lấp các hoạt động khác của linh hồn nơi tâm trí. Linh hồn nơi một người hòa nhập làm một với xác thân bất khả phân ly, ngoại trừ chết. Có thể so sánh linh hồn đối với xác thân chẳng khác gì người lái xe với chiếc xe. Chiếc xe tiến tới, lùi, hay quay ngang, quay dọc tùy thuộc người lái xe. Xác thân, cuộc đời một người cũng thế, lệ thuộc vào hoạt động, chiều hướng của linh hồn, hoặc là sống đúng để đạt thành những ước mơ đoan chính bởi nhận biết thực thể của mình, hay chiều theo tham vọng thế tục do không biết mình thực sự là gì nên nghĩ rằng cuộc đời một người chỉ là cuộc sống xác thân này. Như thế, câu, "Ai có tai thì nghe" nói lên sự nhận thức của một người, một hoạt động của hồn, hoạt động tâm linh hoặc điều kiện nhận thức của linh hồn.

Biết được, nhận thức được, mình có linh hồn và những hoạt động của linh hồn được gọi là tâm trí, nhưng sao có thể biết được đâu là điều kiện nhận thức của linh hồn, đâu là phương pháp để hồn thăng tiến trong khi nhu cầu vật chất nơi cuộc đời nhân sinh cần thiết và cấp bách từng ngày, từng giờ và thường che lấp nhận thức tâm linh của một người. Câu hỏi này mới thực sự mang ‎ ý nghĩa đúng đắn của, "Ai có tai thì nghe." Cái hồn nghe, nhưng nghe trong điều kiện nào, chiều hướng ra sao để thăng tiến hoặc bị phủ lấp thêm đầy dục vọng, tham vọng thế tục. Một sự việc nhân sinh điển hình, bất cứ ông chồng nào muốn có căn nhà sang trọng, to lớn mà không có khả năng thuê người giúp việc chăm sóc dọn dẹp cho căn nhà; ông ta đã vô tình mang ước muốn để bà vợ trở thành con ở. Bất cứ bà nào muốn có căn nhà đồ sộ, nguy nga cho bằng mày bằng mặt với "người ta," mà gia đình không thể hay không muốn thuê mướn người giúp việc; bà ấy đã tự động chấp nhận trở thành kẻ giúp việc trong gia đình, tốn công sức làm tôi mọi cho ý thích rởm được gọi là bằng mày, bằng mặt với người ta, thay vì dùng tiền bạc, công sức chăm lo cho căn nhà nguy nga đồ sộ, an hưởng cuộc đời nơi một căn nhà bình thường, nào thiếu tiện nghi gì kém đâu, và dùng thời giờ dọn dẹp để học hỏi, thăng tiến nhận thức về thực thể chính mình hầu nhận chân thực sự mình thế nào và sẽ đi về đâu sau khi chết.

Như vậy, "Ai có tai thì nghe" khuyến khích một người để tâm nhận thức về thực tại hiện hữu của chính mình. Không biết hoặc không muốn sử dụng năng lực hoặc khả năng nhận thức này để nhận biết thực sự hiện hữu của mình như thế nào hay mục đích cuộc đời mình là gì hoặc rồi mình sẽ đi về đâu được phúc âm gọi là tội phạm đến Thánh Thần, muôn đời không được tha nghĩa là không thoát khỏi sự mê muội nhân sinh, thế tục. Bên Đông Phương học gọi là tội vô minh như Đạt Ma sư tổ đã đề danh. Chúa nào, thần thánh nào có thể giúp kẻ không chịu suy tư, suy nghiệm, nhận thức được sự thể đích thực, bản lai diện mục (Lục tổ Huệ Năng) của mình; bởi thực tại cuộc sống minh chứng, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình, thì cũng không ai có thể suy tư, nghiệm xét dùm cho mình.

Điều rõ ràng, sự nhận thức không thể cầu mà chỉ có thể ngộ. Cũng như uống nước, ai uống người ấy hết khát, không thể học được. Thế nên, cũng như kẻ khát phải uống nước thì người muốn nhận thức, linh hồn muốn nhận thức, cần nghiệm xét, suy tư, suy tưởng, suy nghiệm, nghiệm chứng, thực chứng. Hành động ăn, uống, là sự thực chứng mùi vị và cảm nhận đồ ăn, thức uống. Muốn nhận biết thực thể mình thế nào, một người cần đối diện chính mình; vì không ai có thể giải thích sự thể nhận thức thực sự con người của mình; không ai giúp được nên cũng không thể học được. Người không nhận biết mình thế nào, ra sao, thường chạy theo những tham vọng, danh tiếng, vị thế nhân sinh, thế tục bên ngoài. Ham muốn chạy theo tham vọng nhân sinh chứng tỏ lòng khao khát nhận biết chính mình đồng thời bao gồm nỗi e ngại đối diện với con người thực sự của mình, có thể do mặc cảm nặng nề mình chẳng là gì, cũng có thể vì nhận ra mình đã mang quá nhiều lầm lỗi, ngu xuẩn, nên cố gắng che dấu thay vì trực diện.

Ai không nhận ra, "Đa thọ, đa nhục," và "Ai nên khôn không khốn một lần." Nhưng không dám đối diện để nhận thức thực sự mình tốt lành, thánh thiện ra sao, hoặc đốn mạt, xấu xa tới độ nào thì vẫn luôn mang chiều hướng tham vọng thế tục hầu che lấp sự vô minh, thiếu nhận thức về thực tại của mình. "Ai có tai thì nghe" thách đố một người đối diện chính mình hầu thực sự nhận thức thực thể mình thế nào, ra sao. Muốn trả lời hoặc thực thi hoạt động hay hành trình nào đó hầu nhận biết chính mình, thánh Phaolô đề nghị, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22), trong điều kiện, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8).

"Đừng dập tắt Thần Khí," Suy tư, suy tưởng, nghiệm xét, nghiệm chứng ý định, ước muốn, tất cả đều do hồn phát xuất được gọi là tâm trí. Hồn nơi mình, là thần khí nơi mình; nên sự suy tưởng, nghiệm xét vô giới hạn không lệ thuộc bất cứ gì. Không ai chen vào được, không ai biết những gì xảy đến nơi tâm hồn mình. Thế nên, cứ tự nhiên, muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, suy thế nào thì suy, không có rào cản, không để bất cứ chi ảnh hưởng; tự do nơi tâm tưởng là tự do tuyệt đối, không thần thánh nào có quyền chen vô, và bất cứ những gì chen vô bất lợi cho sự suy tư, suy tưởng, hãy để nó tự sinh, tự diệt. Phúc âm nói rõ, “Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi." Bất cứ những gì ngăn cản hành trình nghiệm chứng, nghiệm xét đều cần được dứt bỏ.

"Chớ khinh thị các ơn tiên tri!" Được gọi là ơn bởi chưa nhận biết sự thể, thực thể nhận biết này, mình được sinh ra, bẩm sinh với năng lực, khả năng nhận thức này. Bao lâu mình không nhận biết nên không sử dụng do đó đã trầm luân nơi tham vọng thế tục hoặc nhu yếu, cần thiết nơi cuộc đời nhân sinh; chẳng khác gì đức tin, lòng tin, mình cũng đã không nhận biết nên không thể sử dụng được. Nói lên sự thể này, tôi muốn nói bao gồm cả chính tôi, cũng như mọi người, tôi đã không thể nào sử dụng được đức tin, lòng tin như nơi phúc âm nhắc đến. Chẳng hạn, "Đức tin con cứu con, lòng tin con chữa con." Tôi ôm chân đau vì tắc mạch máu bốn tháng trời, đi gặp bác sĩ, tôi nói gặp bác sĩ chứ không khám vì không vị bác sĩ nào để cho tôi khám họ (Ấy, tiếng Việt nói, đôi khi cần hiểu ngược lại). Đứng không được, nằm chẳng xong, ngồi cũng dang dở, thế mà không biết cách nào để sử dụng lòng tin, đức tin nơi tôi để chữa cho khỏi đau. Thực ra, tới lúc đau quá nhưng không biết cách nào giải quyết. Hết bác sĩ dổm này, chẳng biết chi về mạch máu, ngó qua vài phút, hẹn tháng sau trở lại. Tôi bị đau quá, gọi, thư ký văn phòng bác sĩ, bị cho hẹn đi chụp Ultra Sound, vô ích, rồi đi chụp CAT, rồi thêm tháng hẹn nữa, trong khi tôi ngày đêm chịu trận. Có đêm sáu hay bẩy lần phải lò mò bước tới bước lui cho chân khỏi buốt. Bực mình, tôi kiếm bác sĩ mổ, và thêm ba tuần nữa. Mổ mạch máu xong, máu dồn xuống khiến chân tôi sưng phù lên, bỏng rát như hơ trong lửa, bước một bước chẳng khác gì xé thịt mình ra, và lòng tin, đức tin thì không sao sử dụng được. Tôi bị rơi vào thế, "Trói lại mà đánh, khen hay chịu đòn." Chúa chỉ chết một lần, tôi bị khốn nạn hằng đêm, có thể nói chết đi còn sung sướng hơn ôm chân chịu trận. Nhờ vậy, tôi có thể nhận thức được tại sao có những người chấp nhận tự tử. Tôi không dám tự tử vì còn ham sống, vì sợ mang mặc cảm khinh chê hồng ân sự sống. Đồng thời tôi cũng nhận thức được, điều làm vinh quang Thiên Chúa tuyệt vời nhất là an hưởng tối đa hồng ân sự sống đã được ban cho. Tôi biết đức tin, lòng tin là quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu, quyền lực của chính Thiên Chúa nơi tôi vì Thiên Chúa là sự sống; Thiên Chúa chính là sự hiện hữu nơi tôi, nhưng không biết cách nào sử dụng được quyền lực này. Thế nên, vì đau quá, cao ngạo nổi lên, tôi đành ương bướng thách đố, thử xem Chúa muốn chơi trò gì với tôi, thử xem bài học nào tôi cần phải học nơi trường hợp ôm chân đau chịu trận. Cho rằng tôi ham sống dù phải chịu khổ, chịu đau đớn kinh khủng, thì cũng không sai. Cho rằng tôi nghĩ bậy vì muốn tự tử cũng không đúng; vì tôi biết tôi sẽ đi về đâu. Tôi chẳng có gì lưu luyến cuộc sống này và dứt khoát, sau khi thân xác qua đi, không thèm trở lại thế giới hữu vi lắm phiền hà, nhiều ưu tư, lo lắng này nữa. Tôi chấp nhận ôm chân đau đớn để thách đố cuộc đời trêu chọc tôi, làm phiền hà tôi đến độ nào, và bài học nào tôi cần phải học, phải nhận thức cho xong kiếp người này. Đừng vội lên án tôi, nhưng hãy nhìn lại chính mình, có biết, có nhận ra hồng ân sự sống nơi mình chưa. Nếu chưa, chắc chắn ngày nào đó bạn sẽ bị hối hận, không bị ôm chân đau đớn thách đố cuộc đời thì ôm sự gì khác hầu nhận thức thực thể con người mình như thế nào.

"Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự." Nghiệm xét là suy xét, đặt vấn đề để tìm hiểu hay để giải quyết những khúc mắc, tìm cho ra sự thật, tìm cho ra nguyên nhân, ý nghĩa, căn gốc. Nghiệm xét, suy tư, suy tưởng, nghiệm chứng, đều mang nghĩa tương đồng, liên hệ. Nghiệm xét mọi sự có nghĩa suy xét, đặt vấn đề về mọi sự nơi bất cứ phương diện nào. Chẳng hạn nghiệm xét câu "Ai có tai thì nghe." Rất nhiều vấn đề liên quan đến câu này được đặt ra mà ít khi một người để ý tới. Tại sao lại nói, "Ai có tai thì nghe?" Thế cái tai để làm gì? Ai là người không có tai mà lại đặt vấn đề có tai thì nghe; điều này ám định nghĩa ngược lại và đó là mọi người có tai cũng như không. Cái tai tự nó nghe được không? Khi một người chết, nghĩa là khi linh hồn ra khỏi xác, cái tai có còn nghe được nữa không? Sự thể này rõ ràng minh chứng cái tai chỉ là phương tiện để cho cái hồn nghe. Cái hồn nghe chứ không phải là cái tai. Vậy hồn là gì nơi một người? Làm sao nhận biết hoặc minh chứng. Đây cả là một vấn đề lớn từ xưa đến nay ít ai đặt vấn đề để nhận thực được mình có cái hồn. Cái hồn nghe thì sao, có gì liên hệ hay ảnh hưởng. Hồn liên hệ với xác thân, với cuộc đời một người như thế nào? Sự hiện hữu của linh hồn ra sao, v.v... Quả thật, câu nào càng có vẻ ngớ ngẩn nơi phúc âm càng thâm trầm, nếu không để ‎ý nghiệm xét thì muôn đời lời phúc âm, lời Chúa cũng chỉ để Chúa nghe mà thôi.

"Điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào." Nghiệm xét, suy tư, suy tưởng, chính là hoạt động của tâm trí nên bất cứ gì xảy ra nơi tâm trí đều thuộc về tư tưởng. Tất nhiên, những ý định, ước muốn, ước mơ của một người đều làm phiền hà đến hành trình suy tưởng, nghiệm xét. Bất cứ những nhận thức ý nghĩ nào xảy ra đều có thể, đôi khi rất nghịch thường với người suy nghĩ. Tuy nhiên, những gì, những tư tưởng nào xảy đến hợp tình, hợp lý với suy tư, hài hòa với nhận thức của mình, đều là những điều lành dẫu đôi khi rất nghịch với ý nghĩ thường tình của mình nơi cuộc sống thế nhân. Ngược lại với điều lành chính là ước muốn, ước mơ, ý định, kiến thức, của chính mình làm phiền hà hay ngăn cản đến hành trình suy tưởng.

Dĩ nhiên, sống là có sự liên hệ, chịu ảnh hưởng của những liên hệ hay quan niệm, chiều hướng, ý thích, ước mơ, điều luật nhân sinh, truyền thống, những sự khôn ngoan thế tục, tham vọng bình thường của người nghiệm xét. Tuy nhiên, trong khi nghiệm xét, tâm hồn cần được tự do tuyệt đối để suy tưởng; bất cứ những gì ảnh hưởng đến suy tư đều được gọi là điều dữ. Do đó thánh Phaolô khuyên, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8). Theo đức Kitô tức là theo những điều kiện tâm trí khi suy tưởng được phúc âm dùng những câu nói nghịch thường đòi hỏi một người để tâm nghiệm xét như được giải thích nơi bài 02; Quan niệm đức Kitô chịu chết vì tội thiên hạ của thánh Phaolô và Tin Mừng được đức Kitô rao giảng.