- 15 - CẢM THƯƠNG CÁC VỊ RAO GIẢNG
Không nói về những vị được thúc đẩy bởi lòng chân thành đầy nhiệt huyết đã cảm nhận, nhận thức tâm linh nên đã tự phát rao giảng sự thức ngộ của mình với bàn dân thiên hạ dù sự thức ngộ dưới bất cứ dạng thức hay chiều hướng nào. Riêng những vị được hấp thụ những nền giáo dục tâm linh, nghĩa là có cơ hội học hỏi và thăng tiến nhận thức tâm linh qua các trường sở chuyên nghiệp về đạo học được mệnh danh trường thần học. hay kinh thánh, hoặc danh hiệu nào khác, hầu đào tạo những thành viên hay giảng viên để rao truyền về đạo học qua dạng thức tôn giáo. Đại khái, những trường học này huấn luyện một người về học thức, kiến thức, nghi thức, luật lệ, v.v... của tổ chức để rao giảng và phát triển tôn giáo.
Dầu các đấng lâm phàm không viết lách, không kiến lập tôn giáo, chỉ rao giảng chủ thuyết, nhận thức, để rồi những người tin theo, môn đồ, phát triển chủ thuyết nơi những hệ thống tổ chức nhân sinh được gọi là tôn giáo; tôn giáo được phát sinh từ những chủ thuyết được gọi là đạo học. Hơn nữa, môn đồ tiếp theo của các đấng lâm phàm ước vọng phát triển chủ thuyết nên đã viết thành kinh điển. Kinh điển bao gồm chủ thuyết của đấng lâm phàm và những nhận thức cá nhân cũng như nhận thức khôn ngoan từ ngàn xưa của dân tộc nơi chủ thuyết được triển dương. Từ kinh điển, tôn giáo được phát sinh và mang tên cũng như tin theo chủ thuyết dẫu theo thời gian được phát triển thành nhiều ngành, nhiều tông phái được phát sinh dưới danh hiệu của chủ thuyết. Chẳng hạn, Phật giáo được kiến lập từ Phật học; Lão giáo gốc gác phát xuất từ Lão học; Kitô giáo phát xuất từ những lời dạy của đức Giêsu, qua truyền thống truyền khẩu được ghi thành phúc âm.
Bất cứ sự phát triển nhân sinh nào nơi cuộc sống đểu phát xuất tự con người. Các đấng lâm phàm cũng có cuộc đời của một con người. Sự phát triển về kỹ thuật chỉ là thành quả của lý thuyết được sáng tạo từ những suy tư, khát vọng, hay tham vọng của con người. Những tư tưởng, nhận thức về tâm linh tất nhiên đều là kết quả của suy tư, nghiệm xét của con người được ghi lại thành kinh điển gọi chung là "Đạo học." Tuy nhiên, đã có trường hợp đạo học qua phiên dịch từ chương bị hiểu thành đường lối. Chẳng hạn, "Tào" (Thượng Đế) nơi Lão học được dịch thành "Đạo," và có đồng âm với "đạo" có nghĩa đường lối nên câu, "Tào như nước" được hiểu thành hãy có lối sống uyển chuyển như nước; trong khi câu "Tào như nước" mang nghĩa Tào (Thượng Đế) ở khắp mọi nơi, năng lực hiện hữu hiện diện ở bất cứ mực độ nào có sự hiện hữu mà tâm trí con người có thể nhận biết được; dù tư tưởng, lý thuyết, không thể rờ hay nhìn thấy nhưng vẫn có thể nhận biết.
Mục đích của đạo học kích thích suy tư của con người hầu đạt đến sự thức ngộ, nhận biết thực thể mình là thế nào, mục đích cuộc đời của một người là gì; suy tư, tư tưởng phát sinh từ đâu, và sau khi chết, con người sẽ ra sao. Qua nhận định của các bậc thức ngộ, chân nhân, có ba con đường đạt tới thức ngộ và đó là mật tông, minh triết, và tôn giáo. Những vị thuộc mật tông, thiền định, hoặc có cơ hội tham gia những tổ chức mật tông, chiêm nghiệm hay không, đều có căn cơ trỗi vượt; tâm trí luôn suy tư, nhận thức về thực thể con người nơi hành trình tâm linh. Con đường nhanh nhất đạt tới thức ngộ lại là minh triết. Những vị theo đường này, dùng sự hiểu biết, học thức, suy luận tiến dần về mục đích tối hậu của sự hiện hữu bản thể của mình. Tôn giáo là con đường dựa trên thờ phượng, sùng tín, kèm thêm tụng niệm hầu dẫn tâm trí nhập vô hành trình tâm linh. Tôn giáo phát triển tùy thuộc sự triển dương của tổ chức nhân sinh. Và để dẫn dắt tín đồ, các vị giảng viên cần phải được huấn luyện tới mức độ thành thạo về nhận thức chủ thuyết, diễn tiến tâm hồn nơi hành trình tâm linh, và sự chia sẻ nhận thức nơi diễn tiến tâm hồn giúp tín hữu hay tín đồ so sánh với suy tư cá nhân hầu nhận ra hành trình tâm linh mình nên theo để thăng tiến tâm linh.
Dĩ nhiên, vì tôn giáo được đặt nền tảng nơi thờ phượng, sùng bái, và tin tưởng; nên các trường huấn luyện thành viên, cán bộ cốt cán để rao giảng và phát triển dựa trên niềm tin, sự tin tưởng, và tất nhiên kinh sách đạo học là gốc gác cho sự tin tưởng, đồng thời từ sự tin tưởng kiến tạo những nghi thức thờ phượng, sùng tín. Nếu để tâm suy tưởng, nghiệm xét, kinh sách đạo học là những tài liệu ghi lại một cách ám định thành quả nhận thức, không giống như các sách kỹ thuật hoặc nấu ăn, trồng tỉa. Bởi đó, dưới sự am hiểu kinh sách một cách từ chương đã khiến những ám định thành quả nhận thức được coi là huyền nhiệm do không thể nào áp dụng nơi cuộc đời. Chẳng hạn, "Đi xa tức là về gần" (Lão), "Chớ bảo Như Lai độ chúng sinh, vì không có chúng sinh cho Như Lai độ" (Phật), hay, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta" (Phúc âm). Ngang ngược phát biểu hơn nơi Lâm Tế lục, "Gặp phật giết phật; gặp tổ giết tổ."
Rao giảng, soạn giảng, nào phải là chuyện chơi; bởi kinh sách sẵn đó ai cũng có thể đọc được nếu thực sự muốn hiểu biết. Nhưng thực tế minh chứng, hiểu biết về lợi ích của nước mà không uống nước tất nhiên vẫn khát khô cổ. Do đó muốn nhận thức về những gì được ghi lại trong kinh sách đạo học, người đọc cần suy tư, nghiệm chứng, nghiệm xét sao cho những câu nói, những dụ ngôn có thể hài hòa với tâm tư trong sự hợp lý và hợp tình. Muốn hết khát phải uống nước, muốn nhận thức lời ám định nơi kinh sách phải suy tư, nghiệm xét, không có con đường nào khác. Nói rằng, cho rằng, thực sự tin với tâm thành, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi" (Mt. 5:29;30), là tin thế nào? Điều đáng nói ở đây là nỗi khó khăn của vị rao giảng, giải nghĩa, giải thích, giải mã một câu nói khôn ngoan hay một dụ ngôn nơi kinh sách cho tín đồ, tín hữu đa phương, đa diện, đa cấp bậc kiến thức, đang an tọa hướng lòng chờ lãnh nhận, dạy dỗ. Làm sao có được chỉ một vài câu nói mà có thể làm hài hòa tâm hồn của tất cả tín đồ bao gồm những vị bác sĩ, kỹ sư, luật sư, già, trẻ, lớn bé, cũng như bà lão nhai trầu không biết ngay cả ký tên mình thế nào?
Để sao cho hài lòng, dễ hiểu, và hợp với mọi người, mọi cấp bậc hiểu biết, kinh sách đạo học tất bị hạ cấp và diễn giải theo nghĩa từ chương nơi phương diện luân lý thay vì chia sẻ suy tư, nghiệm chứng. Ôi, vị thế rao giảng đạo học chẳng khác chi chiếc lưỡi giữa hai hàm răng. Chẳng lạ gì Lão học có câu, "Người biết không nói; kẻ nói không biết." Dân gian Việt có câu, "Có ở trong chăn mới biết chăn có rận." Nhà Phật than "Thời mạt pháp" dẫu nơi Lâm Tế lục có câu, "Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp." Phật, tổ, còn bị giết, pháp bị bỏ thì có gì mà mạt. Có chăng, vị đang hùng hồn rao giảng, tuyên xưng, tuyên dương niềm tin, sự sùng bái, không nói thì mếu mà nói thì đành khóc thầm. Oai phong, tiếng tăm, đồn đâu không biết nhưng lòng thì chết điếng nếu tự hồi tâm nhận định thực trạng tâm tư nơi nhiệm vụ rao giảng của mình. Một là lừa đảo cho qua nếu giảng giải kinh sách theo nghĩa từ chương thế tục, hay miệng đành như ngậm hạt thị nếu thực tâm nghiệm chứng, nghiệm xét bởi, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6).