Chương 7 Ba mươi tám năm làm báo “lề phải” và “lề trái”
Trong thời gian từ 1969 đến 1974 dạy học ở Cẩm Giàng, tôi tham gia Hội văn nghệ tỉnh, lại viết bài cho các báo ở Hà Nội nên tôi có quen biết một số nhà văn, nhà báo. Đó là cái cầu để tôi, từ một thầy giáo làng bước sang một sân chơi rộng hơn là làm báo ở cơ quan báo chí thuộc trung ương.
Có lần, nhà thơ Thanh Thảo từ chiến trường ra Bắc điều dưỡng ở trại điều dưỡng Nam Sách-Hải Dương, không biết ai giới thiệu, anh Thảo đã “trốn trại” về Cẩm Giàng chơi với tôi. Anh đem theo một tập bản thảo thơ còn chưa in ấn ở đâu. Tôi đã được đọc bài thơ “Dấu chân trên trảng cỏ” của anh trước khi nó nổi tiếng trên cả nước. Nhưng Thảo cũng có những ý thơ “khác thường” nên không được giới chính thống ưa. Tôi nhớ một câu “khác thường” ấy trong tập thơ chép tay của anh: thế hệ tôi bùng cháy ngọn lửa của chính mình/ không dựa dẫm những hào quang có sẵn…
Ai cho phép nhà thơ “bùng cháy ngọn lửa của chính mình”? Chữ “dựa dẫm” nhằm mỉa mai ai? “Hào quang có sẵn” nhằm ám chỉ cái gì?… Cứ thế người ta đặt câu hỏi với tác giả. Câu chuyện về Thanh Thảo có liên quan đến câu chuyện của Chế Lan Viên mà tôi sẽ kể ở những phần sau.
Một lần khác, vào năm 1974, nhà thơ Trúc Thông ở Ban miền Nam của Đài Tiếng nói Việt Nam về Hải Hưng công tác. Anh Thông có hỏi nhà thơ Mai Thanh Chương ở tỉnh rằng, ở đây có ai “chơi được”, có thể “chứa chấp” anh trong vài ngày…? Mai Thanh Chương giới thiệu tôi, giáo viên dạy văn ở trường cấm 3 huyện Cẩm Giàng, hội viên Hội Văn nghệ tỉnh. Trúc Thông là nhà thơ đã có danh ở Hà Nội nhưng anh chưa được in một tập thơ riêng nào cho mình ngoài những bài thơ đã đăng đây đó trên báo, đọc trên đài… Hồi ấy in được một tập thơ lớn chuyện lắm, không như bây giờ (2013), có tiền triệu rồi mua cái giấy phép xuất bản là in được ngay một hoặc vài ba tập thơ một lúc. Thậm chí ai có tiền, nhất là các đại gia, còn có thể thuê người khác làm vài chục bài thơ rồi xuất bản lấy tên mình! Nếu sang hơn, sau khi thơ in rồi, có thể mở cuộc hội thảo mời ông Hữu Thỉnh chủ tịch Hội nhà văn về dự, miễn là tác giả chuẩn bị vài cái bao thơ cho nằng nặng một chút. Thơ muốn nói gì thì nói miễn là không nói đến những đề tài “nhạy cảm” như nỗi đau của nông dân bị cướp đất hay nói chuyện dân chủ, bảo vệ chủ quyền đất nước là được.
Anh Trúc Thông được in tập thơ đầu tay vào năm 1985, do nhà xuất bản Tác phẩm mới Hội nhà văn ấn hành, số lượng 5000 cuốn, giá 4 đồng. Nhưng là in chung với anh Đào Cảnh ở Hải Phòng. Bìa tập thơ phải chia làm hai. Phần trên, tên tác giả Đào Cảnh với tên tập thơ “Thời yêu thương”. Phần dưới là của Trúc Thông với tên tập thơ “Chầm chậm tới mình”. Có 98 trang sách mà phải chia hai, thật khốn khổ! Có ai hỏi vì sao lại đặt tên là “Chầm chậm tới mình”, thì anh giải thích, chầm chậm rồi cũng đến lượt mình được in thơ!
Trúc Thông đến Cẩm Giàng ở chơi với tôi gần cả tuần lễ. Hồi ấy tôi có khẩu súng hơi Tiệp Khắc, mua lại của ông Nguyễn Đình Thiên, anh ruột của nhà khoa học Nguyễn Đình Tứ nên ngày nào cũng bắn được chim về đãi khách. Sau những ngày “nhàn đàm”, trước khi về Hà Nội anh Trúc Thông bảo với tôi: làm một cái đơn xin về Ban miền Nam của Đài TNVN. Theo anh Thông, Ban đang cần người, tìm chưa được. Tôi có khả năng về Ban miền Nam của Đài, vì anh thấy tôi tỏ ra có kiến thức, nhạy cảm, có khả năng viết lách… Tôi nghe lời Trúc Thông và làm đơn. Mấy tuần sau anh Thông nhắn tôi về Đài ở 58 Quán Sứ Hà Nội để lãnh đạo… “sát hạch”!
Tại cơ quan Đài TNVN, phó Ban miền Nam Mai Thúc Long yêu cầu tôi viết một bài với đề tài: kỷ niệm ngày Nam Bộ kháng chiến 23/9 trong bối cảnh chính sự miền Nam năm ấy (1974). Anh Long bảo tôi, cậu về viết rồi gửi lên cho Đài. Nếu đúng ngày 23/9 theo dõi Đài TNVN, thấy phát bài ấy vào ngày… giờ… thì coi như Đài nhận cậu về làm phóng viên. Khi tôi định ra về thì Trúc Thông bảo tôi: ông Long này thích nhanh, anh nên quay lại bảo ông ấy cho anh được ngồi viết ngay tại Đài, viết xong nộp cho ông ấy. Như thế ông ấy khoái lại khỏi nghi ngờ anh về nhờ người khác viết hộ.
Tôi làm như lời Trúc Thông, Phó ban bảo tôi ngồi ngay bàn của ông ấy mà viết. Đi đâu đó độ 2 giờ đồng hồ, ông Long quay lại pha cho tôi một ly nước chanh rồi lại đi. Khoảng 12 giờ ông quay về thì tôi vừa viết xong bài, độ 3 trang giấy học trò loại “5 hào 2”. Đó là thứ giấy trắng khổ to giá 5 hào 2 phổ biến và sang trọng thời ấy, tương đương khổ giấy A 4 bây giờ. Tôi ra về nhưng không hy vọng lắm về cuộc “sát hạch” này, vì trợ lý của Ban là anh Hữu Tính cho biết Ban đã đặt bài nhà báo Lưu Quý Kỳ viết bài với nội dung như thế để phát vào ngày 23-9 sắp tới. Nhưng thật không ngờ, bài của tôi được phát sóng trên đài đúng ngày giờ như ông Long đã nói. Tôi còn nghe được bài của nhà báo Lưu Quý Kỳ phát trên đài cũng vào dịp đó. Chỉ một tuần sau tôi nhận được công văn tiếp nhận về Đài Tiếng nói Việt Nam do bà phó Ban tổ chức Đài đem xuống tận trường.
Việc chuyển công tác của tôi rất chật vật vì Ty Giáo Dục Hải Hưng không đồng ý. Ty Giáo dục lấy lý do giáo viên cấp 3 do Bộ Giáo dục đào tạo và chỉ phân về các địa phương. Ủy ban nhân dân các tỉnh không được chuyển giáo viên cấp 3 ra khỏi ngành. Đó là quy định của Bộ. Tôi lại phải dùng đến thế lực của tướng Qua mới có được quyết định về Đài do chủ tịch UBND tỉnh Hải Hưng Nguyễn Bắc ký.
Những năm ở Đài TNVN và Đài Truyền hình Trung ương
Về Đài tôi được phân công vào tổ “Thành thị miền Nam” nơi làm các chương trình phát thanh cho đô thị miền Nam. Ban khi đó tập trung những cây bút xuất sắc của Đài vì lúc đó ưu tiên số 1 là công tác tuyên truyền đấu tranh thống nhất đất nước. Suốt một thời kỳ dài, báo viết hiếm hoi, lại vận chuyển khó khăn, truyền hình chưa có nên tất cả thông tin đều trông vào làn sóng của Đài (kể cả ca nhạc, sân khấu). Thể tài sân khấu truyền thanh, đặc biệt là “câu chuyện truyền thanh” và “tiếng thơ” là những thể tài chỉ phát triển ở ngành phát thanh Việt Nam do những đặc điểm lịch sử, kinh tế xã hội ở Việt Nam. 40% dân số Pháp biết chơi một nhạc cụ, người nông dân Pháp có thể tự biểu diễn và thưởng thức văn nghệ trong làng quê của mình khi có thời gian nghỉ ngơi hoặc hội hè. Nhu cầu tin tức và nhu cầu thưởng thức văn học nghệ thuật của dân ta trong một thời kỳ dài chỉ có thể trông vào Đài phát thanh và hệ thống loa công cộng, loa kim dẫn đến từng nhà trong thời kỳ của hai cuộc kháng chiến. Hình ảnh nhiều người tập trung để nghe một vở sân khấu truyền thanh dưới một cái loa là hình ảnh chỉ có ở Việt Nam.
Tôi về công tác ở Đài TNVN trong thời kỳ mà nhu cầu nghe đài của nhân dân lớn hơn bao giờ hết. Đó là thời gian cuối 1974, đầu 1975 chiến sự ở miền Nam diễn biến dồn dập, công việc ở Ban miền Nam của Đài cũng dồn dập, tất bật theo với diễn tiến của chiến trường, chính trường miền Nam. Từ sáng sớm, những cây bút lão luyện của Ban như Trung Ngôn, Viễn Kinh, Phan Đắc Lập… vừa bốc xôi (hay gặm bánh mì), vừa liếc mắt trên những trang báo xuất bản ở Sài Gòn như: Tiền Tuyến, Đại Dân Tộc, Chính Luận, Điện Tín… do một đường dây đặc biệt chuyển ra. Khoảng 9-10 giờ, các anh xoay trần trên máy chữ gõ bài rồi chuyển ngay đi thu âm, phát sóng. Những tin bài nóng hổi tính thời sự như thế là không thể thiếu được với bạn nghe đài cả nước, cả ở miền Nam nữa. Tôi nhìn các anh làm việc mà thán phục. Nghĩ rằng mình không biết đến bao giờ mới trở thành một nhà báo lão luyện và hiện đại như thế. Nhưng rồi tôi hòa nhập cũng nhanh. Tin, bài tôi viết đầu được lãnh đạo Ban sử dụng. Với một người mới tập việc như thế xem như là được.
Một sự việc mà tôi nhớ mãi là cuối tháng ba, khi ta đánh vào thành phố Huế, ông Trường Chinh gọi điện qua lãnh đạo Đài, yêu cầu cử phóng viên sang bệnh viện Việt-Đức, thu thanh lời nói của GS Tôn Thất Tùng, người Huế… kêu gọi trí thức Huế ở lại với cách mạng, đừng hốt hoảng bỏ chạy theo “địch”. (Tôi viết chữ “địch” trong ngoặc, bởi thời điểm tôi viết hồi ký này là 2013, còn dùng chữ “địch” để chỉ chế độ Việt Nam Cộng hòa e rằng không công bằng. Hôm nay, những kẻ đi cướp đất của Đoàn Văn Vươn, cướp đất ở Văn Giang, ở Vụ Bản… bây giờ có khác gì “địch” mà ta gọi ngày ấy!). Là phóng viên của tổ Đô thị miền Nam, tôi được cử đi gặp GS Tùng. Sau câu chào hỏi và biết rõ lý do, ông nhìn tôi một cách vô tư rồi gật đầu, ngồi xuống bàn, lấy một tờ giấy “5 hào 2”, dùng bút chấm mực và hý hoái viết. Tôi ngồi ngắm SG Tùng, ông rất đẹp tướng, tóc bạc trắng hơi dài chấm ngang vai, da dẻ hồng hào… Trông ông vừa có vẻ một chính khách Phương tây lại pha chút đạo cốt tiên ông của phương Đông dễ làm người ta thấp thỏm. Nghe nói ông nóng tính khi đang mổ cho bệnh nhân, hễ người phụ mổ chậm đưa dao kéo là ông lấy chân đá ngay người ta, dù người “ét” đó là vợ ông cũng thế. Thấy ông hý hoáy viết là tôi mừng. Viết xong, SG Tùng đưa bản thảo cho tôi. Ông viết rất ngắn, chữ xấu như chữ học trò lớp ba, lại to như con gà mái… Tôi vẫn giữ bút tích của ông đến tận bây giờ để làm kỷ niệm (dù nhiều lần dọn nhà). Một đồng chí lãnh đạo của tôi ở cấp phòng đã viết thêm một đoạn nữa vào bản thảo của ông rồi đánh máy để đem lên cấp Ban duyệt. Tôi cầm bản đánh máy đã được duyệt chạy ngay sang bệnh viện Việt Đức để thu thanh lời kêu gọi của GS Tùng. Tôi cẩn thận nhờ thêm anh Hữu Tính cùng đi, vì anh thông thạo thu thanh, phòng có gì bất trắc sẽ có người hỗ trợ.
Giáo sư Tùng chăm chú xem bản thảo đã đánh máy và được duyệt, có thêm bớt ở đầu và cuối bài. Đọc xong chẳng nói chẳng rằng, ông xé tờ giấy đánh máy làm đôi và vứt xuống đất, còn dậm chân lên… rồi mắng hai đứa tôi: đồ ngu! Tôi giận run cả người, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh và cúi xuống nhặt mảnh giấy đã bị xé làm đôi. Tôi hỏi GS Tùng: xin giáo sư cho biết chúng tôi ngu ở điểm nào? Ông trợn mắt quát: tại sao các anh lại viết thêm vào “nhân dịp này xin chúc đồng bào… nhân dịp gì? Cái gì cũng nhân dịp, người ta đang cực kỳ hoang mang thì mình lại “nhân dịp”. Ngu nó vừa vừa thôi chứ!
Ngu thật rồi, cái đoạn ông phó phòng của tôi thêm vào cuối bài kêu gọi của GS Tùng rất trơ trẽn, vô duyên, không ăn nhập gì với lời lẽ ở trên của giáo sư. Một người làm báo phải biết nghe người ta chửi mình là ngu, nếu chửi đúng. Tôi nghĩ vậy nên xin giáo sư được sửa lại đoạn cuối. Ông đồng ý. Tôi cẩn thận cầm cả hai tay đưa lại hai mảnh giấy giáo sư vừa xé có phần cuối bài do tôi vừa sửa lại. Đọc xong ông gật đầu và ra hiệu cho chúng tôi đưa máy lại thu thanh. Đến lúc đó, Hữu Tính vẫn ngồi ung dung như không có gì xảy ra, anh giúp tôi thu thanh. Phòng mổ và phòng kế bên nơi ông làm việc máy lạnh chạy đều đều. Đây là nơi hiếm hoi ở Hà Nội được sử dụng máy lạnh ngày ấy, vậy mà tôi vã mồ hôi do lo sợ không hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ khi xong mọi việc tôi mới biết mình… đã toát mồ hôi. Thấy thế, giáo sư bảo hai đứa: không nên viết dài, viết ngắn thôi, nhưng phát thanh nhiều lần, phát để người ta ngồi ỉa cũng nghe được thì mới tốt. Từ đó trở đi, khi cầm bút đi lang thang trên mọi nẻo đường tươi đẹp và đau khổ của đất nước, bên tai tôi luôn văng vẳng giọng Huế của GS Tùng: đồ ngu, viết ngắn thôi! Sau này khi giảng dạy ở những lớp nghiệp vụ báo chí, về phần phát thanh tôi không quên đưa ý kiến của GS Tùng vào giáo án của mình: viết ngắn, phát nhiều lần.
Vậy rõ ràng là, cứ theo lời kêu gọi trí thức Huế ở lại với cách mạng của GS Tùng, được đích thân đồng chí Trường Chinh chỉ đạo cho Đài thực hiện thì đến lúc ta đánh vào Huế, trung ương vẫn chưa có ý định đánh vô Sài Gòn. Nhưng diễn biến tình hình quá nhanh, và chiến dịch Hồ Chí Minh chỉ được quyết định sau đó. Hàng loạt tỉnh từ Đà Nẵng trở vào lần lượt được giải phóng. Do đất nước bị chia cắt lâu, các tỉnh miền Trung và Nam Trung bộ ít được dân miền Bắc biết tới. Tôi được Ban chỉ thị phải giới thiệu về từng tỉnh mới được giải phóng trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Công việc này dễ mà khó. Dễ vì không cần phải đi đâu, ngồi nhà viết cũng được. Khó vì nếu không có tư liệu thì không thể viết được. Nhờ có tủ sách phong phú mà tôi đã góp nhặt được trong 8 năm dạy học nên các tỉnh chạy dài suốt mảnh đất miền Trung đã được tôi giới thiệu về địa lý, văn hóa, kinh tế một cách tóm tắt nhưng khá đầy đủ khi nó lần lượt được giải phóng.
Ngày 30/4/1975 là một ngày đáng ghi nhớ ở Hà Nội. Với cơ quan Đài Tiếng nói Việt Nam thì càng nhộn nhịp. Các phóng viên, biên tập viên, lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của Đài là dân miền Nam tập kết đều được mọi người chúc mừng. Câu nói cửa miệng của người Hà Nội mỗi khi nhắc đến cái gì đó xa xôi là “chờ đến ngày thống nhất”, thì ngày ấy đã tới. Niềm vui vỡ òa trên đường phố. Ngày ấy không ai ở nhà cả, người ta cứ ra phố. Dù không biết đi đâu nhưng nhất định là không ở nhà. Cứ đi, cứ đi, gặp chỗ nào có người quen là xà vào. Ngày ấy, tôi cứ nghĩ là nhà nước sẽ mở kho, khao dân chúng “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” như các vua chúa ngày xưa mỗi khi thắng trận, nhưng không hề có. Chỉ có các quan là có vật chất mà thôi. Tướng Qua, từ khi lên cấp tướng, tuy chức vụ vẫn là Cục trưởng như hàm ngang với Thứ trưởng nên được cấp xe LADA đi riêng, được cấp sổ mua hàng ở cửa hàng cao cấp Tôn Đản. Thời đó có câu ca dao:
Tôn Đản là chợ của vua quan
Nhà thờ là chợ của trung gian nịnh thần
Đồng Xuân là chợ của tư nhân
Vỉa hè là chợ của nhân dân anh hùng!
Tôi đến nhà tướng Qua với hy vọng là được uống bia và hút thuốc lá Điện Biên bao bạc, và quả đúng như tôi dự đoán. Lúc đó, ông còn ở khu tập thể ngõ Văn Chương. Hàng xóm của ông là trung tá nhà thơ trào phúng Lê Kim làm ở báo QĐDN. Hai vị đang liên hoan bên nhà tướng Qua lúc tôi đến. Chính tại bữa bia bọt đó, tôi được biết trung tá Lê Kim hôm sau sẽ lên đường vô Nam công tác. Ông được phát cho một khẩu súng lục mà theo tướng Qua nhận xét: tay này chưa biết bắn súng thế nào. Và, tôi cũng được biết, Bộ Công An sẽ cử một đoàn đi Nam để tìm kiếm Nguyễn Công Tài, người hùng của Bộ.
Sau 30/4, không chỉ ở Đài tôi mà ở bất kỳ đơn vị nào, cán bộ tập kết là dân Nam Bộ đều xin về quê sạch hết. Chỉ có cán bộ là dân miền trung và khu 5 thì đa phần là ở lại. Và lúc này, Ban miền Nam của Đài Tiếng nói Việt Nam giải thể vì đã hoàn thành nhiệm vụ. Phóng viên, biên tập viên, người thì xin về Nam, người thì sang các bộ phận khác của Đài. Tôi được phân về chương trình phát thanh “Trên miền Bắc XHCN”, một chương trình phát thanh “nối tiếp” các chương trình phát thanh vào Nam của Ban miền Nam trước đây, nhằm giới thiệu các “thành tựu” xây dựng CHXH ở miền Bắc cho đồng bào miền Nam mới được giải phóng(!)
Đề tài thật là rộng lớn, đủ mọi lãnh vực. Các phóng viên của chương trình thỏa sức vẫy vùng. Mới ngoài 30, đang sức lực trẻ, tôi hăm hở đi mọi nơi, mọi vùng trên miền Bắc, từ vùng than Quảng Ninh đến miền núi, miền xuôi. Ngoài viết cho Đài tôi còn viết cho báo Nhân Dân mục “Nông thôn mới”, do nhà báo Trần Minh Tân ở Ban nông nghiệp báo phụ trách. Rồi còn viết cho mục “Đó đây cuộc sống con người” của báo Văn Nghệ Hội Nhà văn do nhà văn Trần Hoài Dương phụ trách. Tôi còn viết cho cả báo QĐND do các anh Thụy Vũ, Trịnh Tường của báo đặt bài. Được các đồng nghiệp ở báo Nhân Dân động viên là người “đi đâu viết đó, viết đâu ra đó”, tôi càng hăng say có mặt “trên từng cây số”. Bây giờ, “những chiều gió tím mây xanh” rảnh rỗi ngồi đọc những bài báo còn giữ được, nhớ lại những nơi mình đã đi, đã đến, tiếp xúc với bà con cô bác để lấy tin, viết bài… sao tôi nhớ những ngày ấy quá. Những ngày đó tôi vô tư, tin tưởng vào hy vọng cuộc sống sẽ ngày một tốt đẹp hơn. Qua lao động say sưa và lăn lộn với cuộc sống nên tay nghề của tôi được nâng lên rõ rệt. Các bậc đàn anh cho tôi nhiều kinh nghiệm làm báo. Có lần, tôi đưa một bản thảo viết tay dập xóa nhiều lần cho trung tá Thụy Vũ ở báo QĐND với băn khoăn là bản thảo của mình dập xóa nhiều quá (tôi không biết đánh máy). Anh Thụy Vũ cười nói: mình lại thích những bản thảo viết tay dập xóa như thế. Nhìn vào, mình sẽ biết cậu đã nghĩ gì, rồi nghĩ lại mà xóa đi. Biết được dòng chảy tư duy của cậu. Nhìn một bản thảo đánh máy sạch sẽ, không thấy được điều đó. Cái thời ấy, các anh lớn tuổi ở các tòa báo làm việc đầy trách nhiệm như thế, nâng niu cộng tác viên như thế. Tôi đã theo nhà báo đàn anh Trần Minh Tân trên mọi nẻo đường vất vả. Theo anh từ lúc đi lấy tài liệu, cách hỏi han đối tượng khai thác tin tức, rồi đọc bản thào anh viết, đọc bài của anh khi đã đăng trên báo … và rút ra được nhiều điều bổ ích. Đặc biệt, tôi học tập được ở các nhà báo thế hệ đó đạo đức nghề nghiệp. Có lần, tôi đi với bác Minh Tân đến vùng trồng rau xanh của huyện Thanh Trì, vành đai cung cấp rau quả cho thủ đô Hà Nội. Trời rét như cắt ruột mà phải lội bộ hàng cây số ngoài đê sông Hồng. Đến trưa đói thắt ruột mà bí thư huyện ủy chỉ đưa cho bác Minh Tân vài các bánh quy rắn như đá. Vậy mà bác vừa đi vừa ăn trong gió rét. Đến chiều, chiếc xe com-măng-ca ọc ạch của báo Nhân Dân đưa bác về thẳng tòa soạn để bác làm việc ngay. Thế là sáng hôm sau tôi đã được đọc bài của bác trên báo. Bài viết nói về những vấn đề đặt ra cho vành đai rau xanh của Hà Nội, bài viết “đâu ra đó”!
Trong gần ba năm 76,77 và đầu năm 78 làm việc ở chương trình này, tôi thâm nhập tầng lớp trí thức của Hà Nội để viết, quen biết nhiều vị trí thức danh tiếng bấy giờ. Một lần tôi đến gặp GS bác sĩ Hồ Đắc Di tại nhà riêng của ông là một biệt thự ở đường Lê Thánh Tông. Ông là hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Y khoa. Nhà Gs Di ở dưới, tầng trên là BS Tôn Thất Tùng ở. Nghe nói vợ Bs Tùng gọi vợ Gs Di là cô ruột và cùng là người Huế. Tôi muốn phỏng vấn Gs bác sĩ Hồ Đắc Di về sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức. Giáo sư người nhỏ bé, ăn nói nhỏ nhẹ, ông nhìn tôi từ tốn nói: cậu cứ viết về câu hỏi, rồi tự viết câu trả lời, muốn viết gì thì viết… rồi đem máy ghi âm đến đây, tôi đọc vào rồi đem về đài phát!!! Tôi bẽ bàng quá, không ngờ nhận được kết quả như thế với một vị giáo sư điềm đạm như ông Hồ Đắc Di. Tôi ra về lòng buồn rười rượi, thà cứ quát mắng chúng tôi như giáo sư Tùng còn hơn là nhận được một lời nhã nhặn mà đau như thế. Tôi đem câu chuyện này kể cho một đồng nghiệp lớn tuổi ở báo Đại Đoàn Kết. Nhà báo lão thành này nói với tôi: là vì cậu chưa hiểu giáo sư Di đấy thôi. Hồi mới giải phóng thủ đô 1954, khi đó ông là hiệu trưởng trường Đại học Y. Có người đến xin gặp chính quyền nhà trường. Giáo sư Di đã trả lời: chính là tôi, còn quyền là vị bí thư Đảng ủy ngồi ở phòng bên cạnh! Bà bí thư đó là một cán bộ xã mới học hết lớp 2 trường làng cậu có biết không. Kể xong câu chuyện đó cho tôi nghe, vị nhà báo lão thành kia vỗ vai tôi bảo: buồn làm gì, chúng tao nhiều tuổi hơn nên hiểu chế độ này hơn mày!
Trong khi các vị trí thức miền Bắc đã chán chường sự lãnh đạo của Đảng như giáo sư Di thì thời điểm mới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đó, các vị trí thức Sài Gòn lại rất hồ hởi, tin tưởng ở tương lai của đất nước. Ngày ấy, tôi được phân công một công việc khá nặng nề là làm cuộc tọa đàm thu thanh với các vị trí thức miền Nam là đại biểu quốc hội thống nhất khóa đầu tiên. Buổi tối, từ làng Hoàng Mai cuối thành phố, tôi chạy cái xe mobilet màu xám, còn gọi là xe “cá xám” lên tận khách sạn Thắng Lợi ở Hồ Tây, nơi các đại biểu miền Nam ra ở tại đó trong thời gian quốc hội họp. Tôi đưa thẻ nhà báo, xưng danh là của Đài TNVN xin được gặp giáo sư Lý Chánh Trung. Công an gác cửa gọi điện vào và tôi nhận được lời từ chối của ông. Hai ngày sau, tôi lại chạy xe lên khách sạn Thắng Lợi, lần này tôi yêu cầu cảnh vệ cho tôi được nói chuyện qua điện thoại trực tiếp với giáo sư Lý Chánh Trung. Tôi nói rõ yêu cầu của Đài và tha thiết xin ông cho gặp. Nhưng từ đầu giây bên kia giáo sư Trung kiên quyết từ chối với lý do ông đang rất bận, phải viết tham luận thay mặt trí thức miền Nam đọc trước quốc hội trong những ngày tới. Tôi vô cùng buồn bã. Khách sạn Thắng Lợi ở bên hồ Tây rộng mênh mông. Buổi tối, khi có ánh đèn, côn trùng từ không gian Hồ Tây bay về nơi có ánh sáng đã trở thành một vấn nạn cho khách sạn lúc đó. Vậy mà muỗi mòng hay rầy (còn gọi là thiêu thân) bay vô mặt tôi mà tôi cũng không buồn muốn đuổi… Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường, người như lên cơn sốt. Với một phóng viên mới vào nghề, thử thách này quả là lớn đối với tôi. Nếu không làm được cuộc tọa đàm phỏng vấn này với các đại biểu quốc hội là trí thức miền Nam thì tôi còn “mặt mũi nào” mà vác mặt về Đài. Nhưng trò đời “cùng tắc biến”, tôi đã nghĩ ra một “mẹo” để có thể tiếp cận giáo sư Trung. Tối hôm sau, tôi lại phóng xe lên khách sạn Thắng Lợi. Lần này tôi nói với giáo sư Trung qua điện thoại: tôi bỏ ý định phỏng vấn giáo sư mà chỉ muốn gặp ông để nói những nhận xét, ý kiến độc giả, trí thức miền Bắc về các bài viết của giáo sư đăng trên văn đàn Sài Gòn và đặc biệt là bài viết về Hồ Chí Minh của giáo sư khi Bác Hồ mất trên báo chí Sài Gòn năm 1969…
Quả là tôi đã “thắng lợi”. Có người cầm bút nào lại nỡ từ chối một lời đề nghị như thế của độc giả về những tác phẩm của mình. Nhất là những độc giả ở trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt hai miền như hai nước khác nhau? Giáo sư Trung đã đồng ý tiếp tôi. Trước khi vào câu chuyện, tôi còn giả bộ xem đồng hồ và nói: để khỏi làm mất thì giờ của giáo sư, tôi chỉ trình bày ý kiến trong 30 phút. Tôi nêu những nhận xét của bạn đọc miền Bắc về những bài SG Trung đã viết ở Sài Gòn. Tôi đi sâu nhận xét về cuối “Những ngày buồn nôn”. Đây là tập hợp những bài giáo sư đã viết trong một năm, mỗi tuần một bài, khi giáo sư ngồi chờ máy bay trong mỗi lần lên giảng bài ở đại học Đà Lạt. GS Trung không ngờ tôi lại đọc kỹ cuốn sách này như thế. Đây là điều rất bất ngờ đối với ông, một giáo sư ở tận Sài Gòn lại có độc giả như thế ở Hà Nội. Tôi có được những tác phẩm đó nhờ công tác ở Ban miền Nam của Đài Tiếng nói Việt Nam, có đường dây đặc biệt mang sách báo Sài Gòn ra Bắc. Khi chiếm được cảm tình của giáo sư rồi, tôi lại giả bộ xem đồng hồ và nói: đã hết 30 phút, xin phép giáo sư… Nghe vậy, ông ngăn tôi lại và nói: cứ tiếp tục đi… tôi lại nói về bài viết của ông về Hồ Chí Minh năm 1969 khi ông Hồ qua đời. Bài báo đó được đăng và đọc trên đài, báo Sài Gòn sau ngày 3/9/1969. Trong bài đó, giáo sư Trung đã ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh và cuối cùng ông kết luận: chỉ tiếc là ông Hồ Chí Minh lại là cộng sản mà thôi! Chính cái kết luận này đã gây tranh cãi trong giới làm tuyên giáo, làm tuyên truyền ở Hà Nội. Có người khen, có người chê. Cuối cùng thì ông Trường Chinh kết luận, đại ý nói, người ta phải viết thế thì mới đăng được trên các báo ở Sài Gòn chứ. Đó là nghệ thuật của người ta, mình phải phục chứ!
Tôi kể những chi tiết về “vụ” ấy cho giáo sư Lý Chánh Trung nghe, ông vô cùng thích thú. Cuối cùng tôi chân thành nhờ giáo sư giúp tôi làm một cuộc tọa đàm với anh em trí thức miền Nam là đại biểu quốc hội. Giáo sư đã vui vẻ đi các phòng gọi các anh: Nguyễn Long, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm… để cho tôi làm một cuộc tọa đàm thật vui vẻ. Máy ghi âm của tôi chạy ro ro… Tôi vui mừng được thấy những con người rất nổi tiếng như anh Nuôi, anh Mẫm… của phong trào sinh viên đấu tranh chống Mỹ Thiệu ở Sài Gòn trước 1975. Thật bất ngờ đến ngạc nhiên là hôm nay, 36 năm sau, trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam ngày 9/12/2012 tạo TP HCM tôi lại đứng cạnh anh Huỳnh Tấn Mẫm trên thềm nhà hát lớn thành phố, nơi cách đây 40 năm anh đã xuất phát để dẫn đầu đoàn sinh viên năm xưa. Trái đất quả là tròn!
Cuộc tọa đàm này đã cho tôi một kinh nghiệm quý, bổ sung vào bài học “phỏng vấn-tọa đàm” mà các giáo trình báo chí chỉ dạy lý thuyết, chỉ nêu yêu cầu nội dung của một cuộc phỏng vấn hoặc tọa đàm mà không ai dậy, không ai nêu câu hỏi và trả lời cho các sinh viên đại học báo chí rằng: làm thế nào để gặp được người mình muốn phỏng vấn… khi họ đều là VIP, những người nổi tiếng, rất khó gặp. Nếu không tiếp xúc được với họ, nếu họ từ chối, hoặc có gặp được nhưng họ không “mở miệng” thì phỏng vấn cái gì? Chính vì thế mà các trường đại học báo chí trên thế giới họ không mời các giáo sư mà chỉ mời các phóng viên nổi tiếng đến giảng cho các lớp báo chí của họ. Còn ở ta, giảng dạy ở các trường tuyên huấn, báo chí, người dậy nếu không phải là một giáo sư văn học thì lại là một cán bộ chính trị, tuyên huấn chưa từng là ký giả bao giờ(!)
Nghĩ lại cuộc tọa đàm, tôi quá hài lòng nhưng vẫn thấy tiêng tiếc vì không gặp được một gương mặt cũng rất tiêu biểu nữa là bà Ngô Bá Thành. Trước khi đem băng ghi âm về Đài và viết lời giới thiệu cuộc tọa đàm, tôi quyết định đến Quốc hội, tìm gặp bà. Tôi nói (và cũng để là xin phép) là xin bà cho tôi “ăn gian” ghi tên bà vào lời giới thiệu cuộc tọa đàm “Trí thức Nam Bộ” tại Quốc hội thống nhất, vì bà là một trí thức rất nổi tiếng. Bà Ngô Bá Thành đã cười ngặt nghẽo rồi nói: Tôi là con mẹ Bắc kỳ, sinh ra ở phố Nhà thương chó Hà Nội chứ Nam Bộ cái nỗi gì! Anh muốn giới thiệu tôi vào đâu cũng được. Nghe xong, tôi mừng quá, vậy là cuộc tọa đàm của tôi thật “hoành tráng”. Báo Hà Nội mới ngày ấy đã đăng bài tường thuật của tôi về cuộc tọa đàm này. Cũng xin mở ngoặc nói dông dài một chút. Phố “nhà thương chó” là phố Yersin ở gần vườn hoa Pasteur Hà Nội. Xưa kia thời Pháp là nơi nhốt chó dại để nghiên cứu. Dân mình gọi là “phố nhà thương chó” rồi chết tên luôn. Cũng như phố “Cây đa nhà bò” ở gần ô Đống Mác, như “Ngã năm chuồng chó” ở Gò Vấp TP HCM, như ngõ “Cô ba chìa” ở Hải Phòng, hay như phố “Lò bánh mì”, phố “Cửa hàng thịt” ở Paris mà tôi đã biết. Trên thế gian này, ở đâu cũng có những cái tên “bình dân” như thế bên cạnh tên những anh hùng hào kiệt.
Cũng tại Quốc hội thống nhất, lần đầu tiên tôi được nhìn tận mắt bà Nguyễn Thị Định. Trước đây chỉ thấy bà trên phim, ảnh. Bà Định hôm ấy mặc chiếc áo bà ba màu trắng, cổ quàng chiếc khăn rằn Nam Bộ. Bà đẹp lạ lùng, một vẻ đẹp phúc hậu, nền nếp giản dị mà kiêu sa dũng mãnh. Chỉ có phụ nữ Nam Bộ mới có vẻ đẹp lạ lùng đến thế.
Kết thúc đợt tuyên truyền về Quốc Hội thống nhất, trong một cuộc giao Ban của Đài, tôi được tuyên dương về cuộc tọa đàm phỏng vấn trí thứ Nam Bộ, còn chị Thanh Hương đồng nghiệp của tôi thì bị phê bình vì không hoàn thành nhiệm vụ. Thật oan uổng cho chị Hương. Chị được phân công phỏng vấn một đại biểu Quốc hội là chị công nhân quét rác trong đoàn đại biểu TP HCM. Ngày ấy, mỗi đại biểu Quốc hội đều được phát một cái phiếu để đi mua hàng cung cấp. Thời bao cấp, “bán như cho, mua như cướp”. Cái phiếu ấy mua được nhiều hàng quý, có cả áo len nữa, Chị công nhân kia tất bật đi mua hàng trong các giờ giải lao, tối về lại đi chơi phố phường hà Nội nên chị Hương không sao gặp để phỏng vấn được. Còn các vị trí thức thì họ không quan tâm mua bán như chị công nhân và cũng không thiết đi xem “Hàng Đào không lụa…” của Hà Nội vì thế gặp trí thức dễ hơn gặp chị quét rác nhiều! Nhưng có một chuyện không dễ quên đó là, không hiểu vì lý do gì hay sơ xuất mà trong khi mỗi nhân viên phục vụ ở Quốc hội lại được phát một phiếu mua hàng, còn ba nhà báo mới được một phiếu nên phải bốc thăm để loại nhau! Một đồng nghiệp của tôi ở TTXVN mới phán một câu xanh rờn: thì ra ba thằng bồi bút mới bằng một con bồi bàn! Câu nói đó đến tai chủ tịch Quốc hội Trường Chinh. Ông lập tức họp báo vào cuối giờ phiên họp đó để xin lỗi các nhà báo. Ngày ấy văn hóa xin lỗi còn giữ được, chứ như ngày nay thì dễ gì anh hói, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng xin lỗi ai!
Cuối năm 1976, cũng trong không khí hồ hởi thống nhất đất nước, Việt Nam đã tổ chức một hội nghị toán học lớn, có rất nhiều nhà toán học giỏi gốc Việt các nước về dự. Tôi phải ra tận sân bay để đón các trí thức Việt Kiều về dự hội nghị. Tôi nhớ đã đón tiến sĩ toán học Lê Dũng Tráng, 29 tuổi người Thanh Hóa, Gs Federic Phạm, cha là nhà toán học Việt Nam mẹ là người Pháp. Giáo sư Phạm sinh ra ở Pháp nên nói tiếng Việt rất khó khăn, chỉ nói được từng từ một, không thành câu. Đa số các vị là những nhà toán học lý thuyết. Một nữ giáo sư toán học ở trường ĐHSP Hà Nội dự hội nghị đó, bà là một người rất nổi tiếng, rất tâm huyết với nền toàn học của nước nhà rất được mọi người kính trọng vì tính tình thẳng thắn cương trực. Bà đã nói với tôi: toán lý thuyết rất quan trọng, rất vĩ đại nhưng với nước ta thì chẳng có tác dụng thiết thực là bao, thế cho nên ngày nào tôi cũng phải xếp hàng mua bắp cải để ăn! Rồi bà hỏi tôi: anh có biết trường phái “Toán học kỳ dị” là thế nào không, anh có biết thế nào là “Bài toán bốn màu không”? Rồi bà giải thích “Bài toán bốn màu là, tôi cho anh bốn màu khác nhu anh phải tô được bản đồ thế giới mà các nước ở xung quanh một nướclại không trùng màu nhau. Nhưng trên thực tế, có nước giáp ranh tới 5-6 nước thì làm sao mà tô được bản đồ thế giới, khi trong tay chỉ có bốn màu! Ấy vậy mà trên lý thuyết bài toán đó lại giải được. Thế nên giới toán học lý thuyết gọi bài toán đó là “Bài toán bốn màu”! Toán lý thuyết là thế đấy anh ạ! Nó chỉ làm người nghiên cứu nó vinh thần phì gia, với một nước nghèo và lạc hậu như nước ta thì… vô ích.
Được vị giáo sư đáng kính này giảng giải tôi mới vỡ lẽ, tại làm sao trong hội nghị đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc đó là Phó Thủ tướng, phụ trách công tác khoa học đã kêu gọi các nhà toán học Việt Nam mà tuyệt đại là toán học lý thuyết chuyển sang nghiên cứu toán học ứng dụng cho đất nước được nhờ. Nhưng chẳng ai làm theo lời khuyên của tướng Giáp(!) Vì thế sau này, người ta làm rùm beng việc đón GS Ngô Bảo Châu, hòng lừa mị lớp trẻ, xem như cái lý thuyết “Bổ đề” là tất cả, toán lý thuyết là tất cả, họ quên mất rằng ở cái nước Việt Nam nghèo đói này, cơm áo, ruộng đất của nông dân, dân chủ với nhân dân còn cần gấp triệu lần cái “Bổ đề” kia. Vì thế, nhà văn Đào Hiếu mới lên tiếng. Và, tôi đã viết bài trên mạng INTERNET với đầu đề: “Trí thức, trí ngủ và trí trá” với cái kết luận: “Toán học rất vĩ đại. Viện nghiên cứu toán học cao cấp mà GS Ngô Bảo Châu đang làm viện trưởng rất sang trọng. Nhưng các bệnh viện nhi đồng ở nước ta các cháu thiếu nhi phải nằm chung 2-3 cháu một giường, các bà mẹ phải nằm dưới đất. Khi một em bé bị đau ruột thừa, mẹ em vừa khóc vừa bế em đến bệnh viện, van lạy các BS cứu nhân độ thế. Nhưng bệnh viện còn chờ bố em đi bán bò có tiền nộp viện phía thì mới mổ ruột thừa cứu em… thì mọi sự sang trọng phải xem lại, mọi vật trang trí phải xem lại”! Bài viết trên mạng tháng 4/2011 này của tôi đã gây nhiều tranh cãi.
Cuối năm 1976, sau đại hội Đảng lần thứ 4, nhiều nhân vật bị loại dần khỏi chính trường. Giáo sư Tạ Quang Bửu là một điển hình. Ông Bửu là một người có cá tính mạnh và thuộc loại “cứng đầu”. Ông là tác giả của những câu nói nổi tiếng một thời. Ông tuyên bố: tôi là một nhà toán học, tiếp xúc nhiều với khái niệm trừu tượng, nhưng tôi chưa thấy cái gì trừu tượng bằng khái niệm “làm chủ tập thể”! (tác giả của “làm chủ tập thể” là Tổng Bí thư Lê Duẩn). Về cá nhân, tôi có may mắn được gặp giáo sư Bửu trong nhiệm vụ đi làm thu thanh cuộc bảo vệ luận án Ph. D lần đầu tiên trong nước. Trước đó học vị này là đem từ nước ngoài về. Đề tài bảo vệ thuộc chuyên ngành toán nên GS Bửu nằm trong ban giám khảo. Khi ông xuất hiện, cả hội trường đã đứng lên vỗ tay theo kiểu “đại hội”. Có nghĩa là vỗ tay theo kiểu đồng loạt theo nhịp, cách vỗ tay trong chế độ toàn trị chỉ dành riêng cho các vị lãnh tụ tối cao của Đảng và nhà nước. Tiếng vỗ tay kéo dài không dứt đến nỗi giáo sư Bửu phải ra hiệu nhiều lần xin ngừng. Sau khi hội trường im lặng, ông Bửu tiến đến chiếc micro và nói: tôi có gì oan ức mà các anh các chị phải làm như vậy(!) Số là, lúc đó GS Tạ Quang Bửu vừa mất chức Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Mọi người đã vỗ tay như thế để biểu thị thái độ “phản kháng” việc cách chức giáo sư! Một cách thức mà ngày nay người ta gọi là đấu tranh bất bạo động hợp pháp. Đến giờ giải lao, mọi người quay lấy GS Bửu, vòng trong vòng ngoài. Có người hỏi: thưa giáo sư, vì sao GS lại thôi giữ chức Bộ trưởng? Trả lời: vì lý do sức khỏe, nhưng người thay tôi thì đang nằm bệnh viện! Mọi người đã cười ồ! lại có người hỏi: thưa giáo sư, hiện nay GS làm gì? Trả lời: tôi làm chồng bà Bửu! Mọi người lại cười ồ.
Tôi đã tường thuật thu thanh tạo chỗ cuộc bảo vệ luận án Ph. D đầu tiên này và cố tình để rất lâu tiếng “vỗ tay đại hội” khi làm hậu ký để phát sóng. Ngày ấy, phát thanh có vai trò chủ lực trong hệ thống thông tin đại chúng khi báo viết còn hạn chế, truyền hình mới ra đời và rất ít người có TV, còn INTERNET thì chưa có. Vì thế, không phải vô tình mà trang bìa tập 1 cuốn “Bên thắng cuộc” của Huy Đức lại in hình cái cột điện có gắn loa phóng thanh. Tôi được thính giả của Đài biết danh nhờ những chương trình phát thanh như các tường thuật thu thanh kể trên, vì trước khi phát bài đều có giới thiệu tên phóng viên thực hiện. Thật trớ trêu, ngay sau đó tôi lại bị phân công đi phỏng vấn vị Bộ trưởng mới lên thay GS Bửu là GS phó tiến sĩ vật lý hạt nhân Nguyễn Đình Tứ. Vì ông Tứ mới lên Bộ trưởng nên nhà ông còn ở gác 5 của khu tập thể Kim Liên Hà Nội. Tôi leo lên được gác 5 mệt muốn chết! Nhưng tôi hoàn toàn thất bại. Vì tất cả các câu hỏi được soạn sẵn ở nhà đại loại như Bộ trưởng có dự định gì để khắc phục những tồn tại của ngành đại học và trung học hiện nay… đều bị tân Bộ trưởng từ chối. Hầu như ông không trả lời gì cả (bất cứ một câu hỏi nào) và còn né tránh mọi lý do vì sao không trả lời. Ở một nền báo chí tự do thì nhà Đài có thể công bố tất cả những câu hỏi và công bố sự từ chối của vị tân Bộ trưởng đối với những câu được hỏi. Như thế cũng là một chương trình phát thanh hay. Hay theo một nghĩa là nó đa dạng và tôi cũng vẫn được trả nhuận bút về cái chương trình đó. Nếu công bằng mà nói cho dù Đài TNVN tuy không chấp nhận quan điểm báo chí tự do nên không thể phát sóng thì Đài vẫn phải tính công lao động cho tôi, vẫn phải tính buổi làm việc đó vào số lượng tin bài đã được giao khoán cho phóng viên hàng tháng. Đằng này không. Tôi mất trắng chuyến đi phỏng vấn phải leo gác 5 và phải soạn câu hỏi cả buổi. Khi được lãnh đạo Đài hỏi về cuộc phỏng vấn, do bực tức, tôi đã trả lời không chút do dự: tôi vừa đi phỏng vấn một anh học trò giỏi, không phải đi phỏng vấn một ông Bộ trưởng!
Với một phóng viên mới vô nghề được một, hai năm mà dám trả lời cấp trên như thế là chỉ có “tự sát” và khỏi mong tiến thân vào con đường hoạn lộ, hay muốn vô Đảng, muốn được cất nhắc lên phó, trưởng phòng, phó Ban, trưởng Ban biên tập của cái cơ quan đầy quyền lực này. Nhưng tôi tự xét mình không có “khả năng” đi lên bằng con đường làm quan trong nghề báo, tôi chỉ muốn cầm bút suốt đời, làm phóng viên suốt đời nên tôi đã trả lời rất bình thản những câu hỏi của cấp trên theo suy nghĩ của mình, kể cả với những người có thiên ý muốn nâng đỡ, cất nhắc tôi… cho đến ngày về hưu từ cơ quan của Đài TNVN.
Tôi gọi GS Nguyễn Đình Tứ là anh học trò giỏi vì biết rõ ông từng học thủy lợi ở Trung Quốc, học và làm việc ở Liên Xô. Ông được công nhận đậu Ph. D vật lý hạt nhân cùng một lúc với 7 nhà khoa học người Hungary nhờ cùng với 7 người này chụp được một “bụi phóng xạ lạ” trong một bức ảnh tại cơ quan Viện Đúp-na Liên Xô. Vậy thôi! Ông chỉ là một nhà khoa học thuần túy, không có tư chất một chính khách, một Bộ trưởng như GS Bửu. Dưới chế độ cộng sản, những trí thức như Tạ Quang Bửu chỉ được dùng trong giai đoạn đầu. Khi đã “toàn thắng” rồi thì người ta dùng những trí thức XHCN như Nguyễn Đình Tứ, dễ bảo hơn. Cái chết bí ẩn của ông khi ông được bầu vào Bộ cchính trị tại đại hội 8 là một câu chuyện khá… ly kỳ! Tôi sẽ nói ở phần sau tập hồi ký này.
Chương trình phát thanh “Trên miền Bắc XNCH” đã đưa tôi đến nhiều nơi ở phía Bắc vĩ tuyến 17. Từ vùng vàng đen Đông Bắc của tổ quốc đến đồng bằng Bắc Bộ, miền núi phía Bắc… Tôi nhớ mãi chuyến đi viết phóng sự dài ngày ở Lạng Sơn. Nếu miền Tây Bắc “vời vợi nghìn trùng”, vùng núi Cao Bằng hùng vĩ, miền cao nguyên đá Hà Giang cheo leo hiểm trở thì miền núi xứ Lạng là một “bình nguyên” của núi đồi, được hình thành bởi những tầng địa chất của tâm linh, của ca dao và cổ tích.
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”
Quả thật là chúng tôi cũng không bõ công lên xứ Lạng. Tôi viết được những phóng sự thu thanh có tiếng nói của bà con Tày, Nùng rất thiết thực cho đài quốc gia. Bà con dân tộc ở quanh thị xã Lạng Sơn đã trồng được đậu tương với năng suất cao hơn miền xuôi nhiều. Rồi, một hợp tác xã nhỏ trong mấy tháng đã bán cho nhà nước hàng chục tấn thuốc lá Lạng Sơn thái mỏng vàng ươm, thứ nguyên liệu rất cần cho nhà máy thuốc lá Thăng Long ở Hà Nội. Lạng Sơn là tỉnh miền núi có giao lưu với bên ngoài từ lâu đời nên con người ở đây lịch lãm. Tôi và anh bạn đồng nghiệp ngủ trên gác nhà công quán, nguyên là nhà cổ từ thời Pháp mới sang ta đặt nền cai trị. Sàn nhà bằng gỗ, chỉ khi nào khách thức giấc, nện gót giầy lên sàn gỗ cộp cộp… thì cô phục vụ mới mang bình thủy nước nóng lên, đặt trước cửa ra vào gõ nhẹ vào cửa báo cho khách biết. Ở nơi này, từ cô nhân viên phục vụ đến người đứng đầu thị xã đều tỏ ra là những nhà ngoại giao từng trải mà chân thành. Buổi làm việc với bí thư thị xã cũng đầy ấn tượng, ông đứng hẳn dậy để nói lời “thay mặt nhân dân” cám ơn hai nhà báo, rồi lại ngồi xuống ghế. Cách tiếp khách của ông thật giản dị và chu đáo, là món quà tinh thần theo mãi chúng tôi về xuôi. Đó là 2 gói xôi đậu đen nóng gói trong lá chuối tươi buộc lạt rơm cẩn thận. Ông nói: chúng tôi tặng 2 nhà báo đi tàu về xuôi ăn đường. Dạo ấy tàu lạng Sơn-Hà Nội chạy mất cả ngày. Đến trưa chúng tôi giở ra ăn thấy cả gói muối vừng… Sau chuyến đi ấy, ngoài những bài phát trên đài, tôi đã viết cho báo Nhân Dân số ra ngày 28/12/1977 ở mục “Hình ảnh nông thôn mới”, bào “Đồng rau Khỏn Thác” có ảnh kèm theo.
Chỉ hơn sau 2 năm công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi đã nhận được sự đánh giá tốt của lãnh đạo Đài. Một hôm, trưởng phòng biên tập chương trình “Trên miền Bắc XHCN” bảo tôi: cậu mới về Đài mà đã được Tổng biên tập Trần Lâm khen bài viết trong một cuộc giao ban. Ít khi ông Lâm khen cụ thể một bài viết. Tôi sẽ đề bạt cậu lên phó phòng và chắc chắn lãnh đạo sẽ ủng hộ. Nghe xong ý kiến của ông trưởng phòng tôi đã bỏ đi chơi suốt một tuần. Nghe Đào Cảng đọc thơ, nghe Vân Long tán hươu tán vượn trên đất Cảng! Khi về cơ quan, trưởng phòng tôi là anh VB, người rất hám quyền lực đã lắc đầu nói: Ông vô kỷ luật quá, không làm lãnh đạo được!
Sở dĩ tôi cố tình bỏ đi chơi một tuần lễ như thế để gián tiếp nói với ông trưởng phòng là tôi không hám gì chức vụ, đừng bao giờ đặt vấn đề đó với tôi - một người chỉ thích cầm bút. Đây cũng chính là vấn đề then chốt của báo chí, của văn học. Nó chứng tỏ rằng ở Việt Nam và nhiều nước XHCN khác, không có báo chí, văn học đích thực. Ở các nước có tự do báo chí, tờ báo, đài phát thanh, truyền hình do tư nhân quản lý. Tổng biên tập, chủ báo cần bán được báo, cần người xem đài, nghe đài để có nhiều quảng cáo… nên người ta cần các ký giả, các cây bút có tiếng tăm, “sản xuất” ra nhiều bài vở hay, chương trình hay cho họ. Các nhà báo nổi tiếng như Burchett hay Jean Lacouture… suốt đời làm phóng viên. Burchett từng có mặt ở Hiroshima khi Mỹ ném bom nguyên tử, từng đến vùng giải phóng ở miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ. Jean Lacouture làm phóng viên cho tờ nhật báo “Combat” do văn hào từng đoạt giải Nobel Albert Camus làm chủ bút và ông từng làm phóng viên cho tờ báo nổi tiếng “Le Monde”. Khi cuộc xung đột ở kênh đào Suez nổ ra, ông làm phóng viên thường trú cho báo “France Soir” tại Ai Cập (1953-1956). Về Pháp ông làm bình luận viên, phóng viên cao cấp ch otờ tuần báo “Le Nouvel Observateur”… Ông được xem là nhà sử học lớn, chuyên viết tiểu sử các danh nhân (trong đó có cuốn về Hồ Chí Minh, xuất bản 1967). Ông là tác giả của trên 60 đầu sách có danh mục các tác phẩm của mình trên các mạng điện tử.
Cả Burchett và Jean Lacouture chưa bao giờ làm phó phòng hay trưởng phòng biên tập như ở nước ta cả. Ở nước ta báo chí chỉ có một thang bậc giá trị là chức vụ hành chính. Và thực chất, các nhà báo của chúng ta là những ông công chức trong cơ quan nhà nước. Họ chỉ có thể tiến thân bằng con đường quan chức báo chí. Vì thế, có thể nói nước ta chưa có báo chí, chưa có “nhà báo” đúng nghĩa vì chỉ có báo quốc doanh. Thậm chí, có nơi chẳng “doanh” gì cả. Họ lấy tiền công quỹ ra để in báo rồi biếu không cũng chẳng ai đọc. Một phóng viên dù tài giỏi đến đâu nếu không có một chức ssắc gì trong cơ qua, thì cũng chỉ là nhân viên hạng… chót! Tôi còn nhớ, năm 1998 tôi được giải B (không có giải A) của giải báo chí toàn quốc. Tôi được huy chương vàng trong liên hoan phát thanh toàn quốc, được cơ quan thường trú tại TP HCM cử ra Hà Nội nhận giải. Khi đi, ông cán bộ trưởng phòng cùng đi thì được cơ quan mua vé cho đi máy bay. Còn tôi, nhân vật chính trong đoàn đi nhận giải phải đi xe lửa… vì không có tiêu chuẩn đi công tác bằng máy bay (tôi chỉ là anh phóng viên, không phải cán bộ cấp phòng(!)). Mặc dù sống trong một cơ chế đầy rẫy sự vô lý và bất công, biết vậy nhưng tôi vẫn muốn làm phóng viên suốt đời, ví tôi thích đi và thích viết. Tôi cũng thừa hiểu, là anh cán bộ quèn thì “khổ” suốt đời (như phải đi xe lửa suốt đời). Nhưng điều băn khoăn nhất của tôi là báo chí nước ta không thể có những Burchett, những Lacouture được, vì ở cơ quan báo chí của ta, chỉ có một thang bậc giá trị là cấp bậc hành chính, chức vụ. Nói rộng sang lĩnh vực khác như ngành Y chẳng hạn, cũng khốn nạn không kém. Một vị bác sĩ giỏi có khi phải rời phòng mổ, rời phòng khám để… phấn đấu làm chủ nhiệm khoa, làm phó giám đốc, rồi giám đốc bệnh viện thì mới “khá” được! Có một chuyện đáng buồn như thế này, khi chiến sự ở Irak nổ ra, một tờ báo ở TP HCM năng nổ cử phóng viên thạo tiếng Anh đi Iraq viết tin, bài… thì lập tức bị cấp trên phê phán là chưa báo cáo xin phép!
Những năm về sau này, mỗi khi diễn ra đại hội nhà báo thì nhìn vào thành phần tham dự là 100% tổng biên tập các báo, các đài phát thanh và truyền hình trung ương và địa phương, không hề có một phóng viên, một nhà báo có tên tuổi nào, một cây bút được giải báo chí nào được cử đi đại hội. Các vị Tổng biên tập xúng xính comple, caravat đi Hà Nội dự đại hội. Độc giả, thính giả trên cả nước chẳng hề biết họ là ai, chẳng nghe thấy tên tuổi họ trên các bài báo, các chương trình phát thanh truyền hình nào. Đến nỗi, báo Tuổi Trẻ ở TP HCm có lần phải viết bài chỉ trích là đại hội các tổng biên tập, không phải đại hội nhà báo!
Đầu năm 1978 tôi được điều động sang Đài Truyền hình trung ương (truyền hình Việt Nam sau này) ở Giảng Võ. Truyền hình nước ta được làm thí điểm, phát sóng từ Đài Tiếng nói Việt Nam trước 1975 sau tách thành một đài riêng lấy tên là Đài truyền hình trung ương. Ủy ban phát thanh và truyền hình VN được thành lập bao gồm 2 Đài, phát thanh và truyền hình do ông Trần Lâm làm chủ nhiệm. Đa số cán bộ phóng viên của truyền hình trung ương là của Đài Tiếng nói Việt Nam điều động sang. Tôi và một số đồng nghiệp được đưa sang truyền hình trung ương để “tăng cường” chất lượng cho truyền hình. Thật là khôi hài, không được học hành một ngày nào về nghiệp vụ truyền hình vậy mà lại được đưa sang đó để “tăng cường”. Sau buổi tiếp xúc đầu tiên, phó Tổng biên tập Đài Truyền hình trung ương là Nguyễn Văn Hán, một con người từng trải, nhiều mưu lược được mệnh danh là “Hán Cao Tổ” tuyên bố với chúng tôi: các cậu là những thằng không biết bơi, nhưng tớ cứ đạp các cậu xuống sông, bơi kiểu gì cũng được, miễn là sang được bở bên kia, thằng nào không bơi được thì… chết đuối!
Chúng tôi, trong đó có nhà báo Trường Phước, một phóng viên truyền hình rất nổi tiếng sau này, đã bước vào lãnh vực truyền hình bằng những lời giáo huấn đầy chất humour (khôi hài) của “Hán Cao Tổ” như thế. Xét cho cùng thì, như nhà báo Phan Quang viết: “… Đến thời đại tin học, thông tin bùng nổ, báo chí ngày càng đa dạng, vậy mà cho đến ngày hôm nay chưa một loại hình truyền thông nào dám tuyệt đối không sử dụng đến ngôn từ”. (Tầm nhìn. NXB Lao Động, 2013. Tr. 98). Đó là một nhận xét rất căn cơ. Làm báo viết cũng như làm báo nói phát thanh - cái cốt lõi vẫn là nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Truyền hình là hình ảnh động, nhưng muốn có một tác phẩm truyền hình chất lượng thì phóng viên vẫn phải sử dụng đến ngôn từ trong khi viết kịch bản và vẫn rất cần đến lời (ngôn từ) thuyết minh cho hình ảnh một cách khúc chiết, sáng sủa, đanh thép, sinh động. Đó là gì, nếu không phải là nghệ thuật của ngôn từ. Những phóng viên “cứng tay” trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ phát thanh sẽ mau chóng biết làm truyền hình. Nếu để ý, người ta sẽ thấy hai phóng viên truyền hình nổi tiếng ở miền Bắc là Trường Phước và ở miền Nam là chị Minh Thu Đài Truyền hình TPHCM đều rất thành công cho các chương trình truyền hình của mình, dù là phim tài liệu hay phóng sự… Khi tôi rời Đài Truyền hình trung ương, vô Nam làm ở Đài phát thanh tỉnh Tiền Giang, rồi lại trở về Đài Tiếng nói Việt Nam ở cơ quan thường trú tại TP HCM, tôi thường được các phóng viên Đài THVN “thuê” viết lời thuyết minh cho các chương trình truyền hình họ vừa dàn dựng xong phần hình ảnh. Tôi hỏi nữ phóng viên quay phim gạo cội Bạch Vân của cơ quan thường trú Đài THVN tại TP HCM: vì sao các vị đi quay về, dàn dựng xong, nắm vấn đề từ khi viết lịch bản, chỉ còn khâu cuối cùng là thuyết minh lại phải kêu tôi làm…? Chị trả lời: viết thuyết minh là khâu chúng tôi ngại nhất! Rõ ràng là động tới ngôn từ. Lời thuyết minh phải ăn nhập với hình ảnh truyền hình, ngắn gọn và dễ hiểu, nâng chất lượng thông tin của hình ảnh lên, làm nổi bật chủ đề của kịch bản. Người Pháp có câu ngạn ngữ: “Không gì khó bằng viết cho dễ hiểu” là vậy. (Rien n’est plus difficileque d’ecrire facille).
Khi giảng dạy ở trường trung học phát thanh truyền hình trực thuộc Đài TNVN tại Tp HCM tôi đã đưa ra câu hỏi như sau: cho các em xem một bản tin truyền hình, nhưng chỉ được xem hình mà không được nghe phát tiếng hoặc không cho xem hình (che màn hình lại) chỉ cho nghe tiếng… rồi các em phải cho biết nội dung của bản tin truyền hình đó, các em chọn hình thức nào? Tất cả đều chọn không xem hình mà được nghe tiếng. Rõ ràng ngôn từ có một vai trò đặc biệt trong các loại hình thông tin đại chúng, cho dù đó là loại hình lấy hình ảnh làm ngôn ngữ chính như truyền hình.
Các cụ ta xưa kia dậy: “Học thầy không tầy học bạn”. Tôi đã chọn cách “học bạn” để làm truyền hình. Tôi đi theo đạo diễn kiêm biên tập viên Trần Cương để học nghề. Trần Cương học hành bài bản về báo chí từ Liên Xô về, anh rất giỏi tiếng Nga. Tôi đi theo Trần Cương từ lúc anh đi thu thập tài liệu để viết kịch bản rồi đọc kịch bản anh viết, rồi theo ê kíp làm phim của anh (thường là ba người: biên tập viên viết kịch bản 7 biên tập viên, đạo diễn và quy phim) cho đến khi quay ở hiện trường xong, lại theo anh vào phòng dựng phim để làm hậu kỳ. Khi phim được dựng xong, xem cách các anh lồng nhạc và đọc kỹ lời thuyết minh cho phim do biên tập viên viết. Theo từ đầu đến cuối một chu kỳ làm phim cho đến khi chương trìnhz được duyệt và phát sóng, tôi đã nắm được cách làm phim truyền hình. Có thể tự độc lập làm một chương trình cho mình. Cái khó nhất vẩn là tìm kiếm được đề tài, chủ đề hay “ăn khách” cho một tiết mục truyền hình để thực hiện. Riêng khâu viết kịch bản là cả một vấn đề được trao đổi, tranh cãi. Kịch bản cho một phim truyền hình chỉ là một đề cương hay một phân cảnh cụ thể, chi tiết? Rất nhiều ý kiến khác nhau. Riêng “Hán Cao Tổ” thì lại phán một câu xanh rờn: chúng mày muốn viết cái gì thì viết nhưng đừng gọi nó là “kịch bản” để đưa tao duyệt! Làm riết rồi chúng tôi rút ra một kết luận: phải ăn ý nhau trong một ê kíp làm phim. Ý đồ của biên tập viên phải được cả nhóm (đạo diễn và qua phim) hiểu và thực hiện một cách sáng tạo. Tác phẩm truyền hình bao giờ cũng là một sản phẩm của tập thể, mang tính tập thể. Sau này, có tác giả viết kịch bản rồi tự đạo diễn rồi cầm máy quay luôn. Đó là trường hợp hiếm. Tôi đã xa truyền hình ba chục năm nay, không biết hiện nay các đồng nghiệp của mình tác nghiệp ra sao, nhưng cái thời tôi làm truyền hình thì như thế. Thời đó chưa có camera quay băng nhựa video, chưa có kỹ thuật số, phải quay bằng phim nhựa 16 ly. Có chương trình quay cả tháng trời mới xong, đến khi đem phim nhựa về in tráng thì cả đêm, cả nhóm