← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XV

NGOÀI VIỆC ĐỌC NHỮNG CUỐN SÁCH nêu gương đạo đức mà mẹ tôi đã khuyên, tôi còn ngấu nghiến tất cả những cuốn sách nào mình vớ được, hay nói đúng hơn là chôm được từ các cửa hàng sách cũ trong phố. Tôi mang chiến lợi phẩm về vựa lúa mì rồi ngồi xuống đất, đắm mình trong thế giới kỳ diệu của Walter Scott, Karl May, Mayn Reed và Arsène Lupin. Tôi đặc biệt mê Arsène Lupin và cố gắng hết cách để gương mặt mình có được vẻ nhăn nhó châm chọc, dọa dẫm và trịch thượng như gương mặt nhân vật chính trên bìa sách. Với điệu bộ tự nhiên của một đứa trẻ, tôi diễn rất đạt và đến tận bây giờ, thỉnh thoảng, trong nét mặt hay điệu bộ của mình, tôi vẫn như thấy lại dấu ấn mờ mờ tỏ tỏ của bức hình mà một họa sĩ minh họa tầm thường nào đó khi xưa đã vẽ ra trên bìa một cuốn sách rẻ tiền. Tôi rất thích Walter Scott và đến giờ tôi vẫn thỉnh thoảng nằm dài trên giường, lao mình vào cuộc tìm kiếm một lý tưởng cao đẹp nào đó, bảo vệ những bà quả phụ và cứu vớt những đứa trẻ mồ côi - những bà quả phụ thì thường rất đẹp và thường biểu lộ lòng biết ơn đối với tôi, sau khi đã nhốt những đứa trẻ mồ côi cha vào phòng bên cạnh. Một tác phẩm khác mà tôi ưa thích là Đảo giấu vàng của R. L. Stevenson, thêm một cuốn sách để lại cho tôi nhiều ấn tượng khó phai. Hình ảnh một chiếc rương gỗ chứa đầy tiền, hồng ngọc, ngọc lục bảo và ngọc lam - không hiểu sao tôi chẳng có cảm tình gì với kim cương cả - đã luôn làm tôi băn khoăn day dứt. Tôi vẫn tin chắc rằng kho báu này đang ở đâu đó, chỉ cần tìm là thấy thôi. Tôi còn hy vọng, còn chờ đợi, còn cảm thấy bị giày vò bởi tin chắc rằng nó đang ở đâu đấy, chỉ cần biết câu thần chú, chỉ cần biết đường đi và biết chỗ. Một ảo tưởng như thế có thể chứa đựng những thất vọng, đắng cay như thế nào thì chỉ những kẻ ăn sao lão luyện may ra mới hiểu hết được. Linh cảm về bí mật kỳ diệu đó luôn ám ảnh tôi và tôi luôn rảo bước trên thế gian này với cảm giác mình vừa đi qua một kho báu bị chôn vùi nào đó. Khi thỉnh thoảng tôi lang thang trên những ngọn đồi thuộc San Francisco, Nob Hill, Russian Hill, Telegraph Hill, ít ai ngờ rằng cái ông có mái tóc hoa râm này đang đi tìm một Vừng ơi, mở ra, rằng nụ cười đầy vẻ lọc lõi của ông ta đang che giấu lòng luyến tiếc một chủ từ nào đó, rằng ông ta tin vào bí mật, tin vào một ẩn nghĩa, tin vào một câu thần chú, vào một chiếc chìa khóa; mắt tôi thường trông ngóng trời đất, tôi thường chất vấn, kêu gọi và chờ đợi. Tất nhiên là tôi biết giấu kín điều đó dưới vẻ hào hoa và xa cách của mình: tôi đã trở nên cẩn trọng, tôi vờ như đã trưởng thành, nhưng, một cách kín đáo, tôi luôn rình rập con bọ hung bằng vàng, và tôi chờ có con chim nào đó đậu lên vai, nói với tôi bằng tiếng người và cuối cùng cũng tiết lộ cho tôi nên làm sao và làm thế nào.

Mặc dầu vậy, tôi không cho rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với trò ảo thuật là đáng khích lệ.

Tôi võ vẽ học ảo thuật trong sân và người dạy là một trong những thằng nhỏ tuổi hơn tôi, chúng tôi gọi nó là Dưa Hấu vì nó có thói quen quan sát mọi người qua một miếng dưa hấu đỏ chót mà cả răng lẫn mũi nó đều ngập sâu vào, đến nỗi người ta chỉ còn thấy đôi mắt đăm chiêu của nó. Bố mẹ nó có một cửa hàng rau quả trong khu nhà, còn nó thì không bao giờ thò mặt lên khỏi tầng hầm là nơi ở của gia đình nó mà không có một miếng dưa hấu ra trò. Nó có cách cúi đầu cắn sâu vào miếng dưa mọng nước để làm cho chúng tôi thèm nhỏ dãi trong khi đôi mắt to của nó vẫn chăm chú nhìn chúng tôi qua phía trên đối tượng thèm muốn của chúng tôi. Dưa hấu là một trong những loại quả phổ biến nhất nước nhưng cứ đến mùa dưa thì trong thành phố lại xuất hiện vài trường hợp mắc tả, thế là bố mẹ chúng tôi cấm ngặt chúng tôi đụng vào. Tôi tin chắc rằng những bất mãn tuổi thơ đã để lại trong tôi dấu ấn sâu đậm không dễ phai mờ và không bao giờ có thể bù đắp được; ở tuổi bốn mươi tư, mỗi khi cắn sâu vào một miếng dưa hấu, tôi có cảm giác được trút hận và hân hoan tột độ, hình như mắt tôi luôn tìm kiếm gương mặt thằng bạn tôi phía trên miếng dưa thơm tho và mời gọi để nói với nó rằng cuối cùng chúng tôi cũng hết nợ, và rằng tôi cũng thế, tôi cũng đã đạt được điều gì đó trong cuộc sống. Mặc dù vậy, bây giờ tôi có ăn lấy ăn để loại quả ưa thích nhất của mình thì cũng vô ích thôi, không cần phải chối cãi rằng tôi sẽ luôn cảm thấy nỗi tiếc nuối cắn rứt trong lòng mình, rằng tất cả dưa hấu trên đời này sẽ không bao giờ làm cho tôi quên những quả dưa hấu mà tôi đã không được ăn lúc lên tám, khi tôi thèm nhất, và rằng dưa hấu nguyên chất sẽ tiếp tục coi tôi không ra gì cho đến khi tôi từ giã cõi đời, bởi nó luôn hiện diện, luôn được cảm thấy và luôn ở ngoài tầm tay.

Ngoài việc thách thức chúng tôi bằng cách thưởng thức sự chiếm hữu thế giới, Dưa Hấu còn có tầm ảnh hưởng khác rất quan trọng đối với tôi. Có thể nó thua tôi một hai tuổi gì đấy, nhưng tôi luôn chịu ảnh hưởng của những người thua tuổi mình. Người có tuổi chưa bao giờ có ảnh hưởng đối với tôi, tôi luôn xem như họ đứng ngoài cuộc và tôi thấy mấy lời khuyên bảo đạo lý của họ luôn tách rời chính họ như những chiếc lá rụng tách rời một ngọn cây, ngọn cây này có thể nguy nga nhưng không còn nhựa sống. Chân lý thường chết yểu. Cái mà người già đã “học” thực ra là cái mà họ đã quên, sự thanh thản của những ông già râu tóc bạc phơ và có cái nhìn độ lượng đối với tôi cũng ít thuyết phục như vẻ hiền dịu của những con mèo thiến, và, khi tuổi già bắt đầu đè nặng lên vai tôi với những nếp nhăn và tình trạng cạn kiệt sức lực, tôi không đánh lừa chính mình và tôi biết rằng, về cơ bản, cuộc đời tôi đã qua và không bao giờ trở lại.

Vậy thằng Dưa Hấu chính là người dạy cho tôi bài học đầu tiên về trò ảo thuật. Tôi còn nhớ mình đã ngạc nhiên đến nhường nào khi nó cho tôi biết rằng nếu tôi biết cách, tất cả những điều ước của tôi sẽ được thực hiện. Chỉ cần lấy một cái chai, đầu tiên là đái vào rồi lần lượt bỏ vào đó râu mèo, đuôi chuột, kiến sống, tai dơi cũng như hai mươi thành phần khác phải khó khăn lắm mới tìm thấy ở chợ, bây giờ tôi quên béng mất rồi, vì quên nên tôi sợ là những mơ ước của mình sẽ không bao giờ thành hiện thực. Thế là tôi đi tìm ngay các thành phần thần diệu không thể thiếu đó. Ruồi muỗi thì đâu cũng có, mèo và chuột chết thì không thiếu trong sân, dơi thì ở trong nhà kho còn đái vào chai thì không thành vấn đề. Nhưng các bạn thử cho kiến sống vào chai mà xem! Không thể cầm, giữ chúng được, vừa mới bắt được chúng đã trốn mất rồi, chưa kể việc phải bắt nhiều con, khi mà một con buộc phải đi vào theo lối cổ chai, trong lúc quyết định bắt con khác thì con trước đã chuồn mất rồi, thế là phải làm lại từ đầu. Đúng là nghề Don Juan dưới âm ti địa ngục. Dù vậy, cũng tới lúc Dưa Hấu, ngao ngán trước những nỗ lực của tôi và nôn nóng được thưởng thức chiếc bánh mà tôi phải cho nó để đổi lấy công thức kỳ diệu đó, tuyên bố là bùa hoàn chỉnh và sẵn sàng phát huy hiệu lực.

Tôi chỉ còn mỗi việc đưa ra một điều ước.

Tôi bắt đầu suy nghĩ.

Ngồi bệt xuống đất, hai chân kẹp lấy cái chai, tôi phủ đồ trang sức lên người mẹ tôi, tặng mẹ những chiếc xe Packard màu vàng cùng các tài xế mặc chế phục, tôi xây cho mẹ những cung điện bằng đá hoa cương và cả tầng lớp thượng lưu thành phố Wilno đều được mời đến quỳ trước mặt mẹ. Nhưng không phải thế. Vẫn luôn thiếu cái gì đấy. Những ước mơ vụn vặt đáng thương này làm sao sánh được với nhu cầu khác thường vừa thức dậy trong tôi, kích thước không hề tầm thường. Vừa mơ hồ vừa ám ảnh, vừa bạo ngược vừa kín bưng, một ước mơ kỳ lạ đang cựa quậy trong tôi, một ước mơ không gương mặt, không nội dung, không giới hạn, sự rung động đầu tiên của niềm khát khao chinh phục trọn vẹn nào đó, với niềm khát khao ấy, nhân loại đã nuôi dưỡng những tội ác động trời cũng như những viện bảo tàng, những áng thơ cũng như các đế chế, và nguồn gốc của khát khao đó có lẽ đã có sẵn trong gen của chúng ta như ký ức và nỗi nhớ nhung luyến tiếc sinh học của con thiêu thân đối với dòng chảy bất tận của thời gian và cuộc sống mà nó đã xa lìa. Tôi đã làm quen với cái tuyệt đối như thế. Tôi sẽ lưu giữ đến cùng vết thương sâu kín của cái tuyệt đối đó trong tâm hồn mình như sự vắng bóng của một con người. Thời ấy, tôi mới chín tuổi và chưa thể ngờ đó là lần đầu tiên mình cảm thấy vòng siết của cái mà hơn ba mươi năm sau, tôi gọi là “cội rễ của bầu trời” trong cuốn tiểu thuyết cùng tên. Cái tuyệt đối đột nhiên cho tôi biết sự hiện diện không thể hiểu thấu của nó và, tôi thì không biết phải lấy gì để xoa dịu cơn khát cháy bỏng của mình. Có thể ngày đó là ngày mà con người nghệ sĩ trong tôi đã thực sự sinh ra; bởi nghệ thuật luôn là một thất bại tuyệt đỉnh, con người, vốn mãi là kẻ lừa dối chính mình, sẽ cố gắng để biến tất cả những gì bị quy kết là tồn tại như sự chất vấn bi kịch thành một câu trả lời.

Tôi có cảm giác như mình vẫn đang ở đó, mặc quần cộc ngồi giữa đám cây tầm ma, tay cầm cái chai kỳ diệu. Tôi cố gắng tưởng tượng trong hoảng sợ, bởi tôi linh cảm rằng thời gian của mình đang trôi qua từng phút từng giây; nhưng tôi không tìm được gì ngang tầm với nhu cầu kỳ lạ của mình, không có gì xứng với mẹ tôi, xứng với tình yêu của tôi, với tất cả những gì tôi muốn dâng mẹ. Ham muốn một kiệt tác đã đến với tôi và không bao giờ rời xa tôi nữa. Dần dà, môi tôi bắt đầu rung rung, mặt tôi nhăn nhó bực bội và tôi gào lên vì giận dữ, vì sợ hãi và vì kinh ngạc.

Từ đó, tôi quen dần với việc suy nghĩ, và, thay vì gào lên thì tôi viết sách.

Thỉnh thoảng, tôi cũng khao khát một cái gì đó cụ thể và đúng là trần thế thực sự, nhưng vì tôi không còn cái chai nữa nên không cần phải nói về khát khao ấy làm gì.

Tôi chôn cái bùa trong vựa lúa rồi đặt chiếc mũ cao thành lên để đánh dấu địa điểm, nhưng cơn tỉnh mộng nào đó đã xâm chiếm lấy tôi nên tôi không bao giờ tìm cách lấy lại cái chai ấy nữa.