V & VI & VII & VIII & IX
dịch giả: hằng hà sa và bích ty
V & VI & VII & VIII & IX
Kichinev, Boris đến viếng thăm trung tâm những người Do Thái tị nạn, và căn cứ theo biên bản hắn có thể tính được số người đến tị nạn mỗi ngày. Hắn yêu cầu trung tâm mỗi tuần phải chở những người tị nạn nầy đến sa mạc.
Lúc hắn đến trước khu trường trung học Hoàng gia, Novirok chỉ cho hắn một ngôi giáo đường nhỏ và bảo:
- Ngôi nhà thờ nầy đã đổi thành hý viện, một số người tị nạn đã trình diễn bằng tiếng Lỗ ma ni.
Boris và Novirok vào bên trong. Một người đàn ông và vài người đàn bà đang làm việc ở đó. Cảnh tượng ở bàn thờ đã thay đổi hẳn, vải bàn thờ đem làm màn che, tượng thánh và thánh giá vất ngổn ngang trên nền nhà. Boris thọc tay vào túi quân tiến lên, khinh khỉnh nhìn các bức tượng, trong lúc đó đôi mắt của các bức tượng thánh đăm đăm nhìn đôi ủng màu đỏ của Boris. Thánh Nicholas, thần Michel và Gabriel, thánh tông đồ Pierre vẽ bằng sơn dầu trên tường cũng đăm đăm nhìn chiếc khăn choàng cổ màu đỏ của Boris. Một thiếu nữ đang ngâm thơ bằng tiếng Lỗ ma ni lúc Boris bước lên sân khấu:
Boris chỉ cảnh trần thiết và la lên:
- Không đúng theo nghệ thuật của Sô Viết tí nào cả.
Nghe thế người thiếu nữ thôi ngâm, trong lúc một thanh niên của đoàn hát trả lời:
- Dạ thưa đó là cảnh tượng trưng con sông Prut phân chia tổ quốc Sô Viết với thế giới trưởng giả; bên bờ của trưởng giả là cảnh nô lệ nghèo đói, trong lúc bên bờ Sô Viết toàn là hoa cỏ và thịnh vượng.
- Vậy thì những cây cối mảnh khảnh ở bờ Sô Viết có ý nghĩa gì?
- Những cây đó giúp cho khung cảnh Sô Viết thêm thơ mộng bởi vì đối với bọn nghệ sĩ tị nạn chúng tôi, bờ sông phía Sô Viết là bờ của tự do.
Viên họa sĩ, các nghệ sĩ trên sân khấu và trong căn phòng cũng như Novirok đều sợ hãi nhìn Boris. Họ tưởng Boris là một công chức cao cấp của Sô Viết, số phận của hý viện nầy phụ thuộc vào hắn. Những thánh thần, Đức Mẹ lại bình thản nhìn Boris, vì họ biết số phận của họ đến đây đã chấm dứt. Các bức tượng sẽ được phủ lên một lớp sơn mới, một lớp vôi mới, với những câu cách ngôn mới, của đảng cộng sản vì thế mà họ chẳng sợ sệt điều gì cả.
Viên họa sĩ nói tiếp:
- Trong vở kịch nầy, nghệ sĩ của gánh hát Eddy Thall sẽ kể lại vì sao chúng tôi đã trốn sự khủng bố của phát xít để tị nạn sang quốc gia tự do Sô Viết.
- Thế thì lúc đến bên bờ Sô Viết, anh không để ý thấy những cơ xưởng chế tạo nào cả ư? Tại sao anh chỉ vẽ sông Prut băng ngang qua đồng cỏ và đất đai hoang phế?
- Dạ thưa tại tôi muốn diễn tả khung cảnh nên thơ của Sô Viết. Nhưng Boris lại hỏi:
- Nước sông chảy ngang qua cây liễu và đồng cỏ hoang có nên thơ hơn lúc chính con nước đó làm quay những bánh xe của một nhà máy điện chiếu sáng bờ sông? Có gì trong một cây liễu và hai con bò mà lại nên thơ hơn một nhà máy cung cấp ánh sáng cho hàng chục làng mạc, cho hàng ngàn ngôi nhà của công dân Sô Viết? Một con bò có nên thơ hơn một nhà máy nước không? Một cây liễu có nên thơ hơn một máy cày không?
Viên họa sĩ bắt đầu run rẩy:
- Ý của chúng tôi là muốn bày tỏ sự biết ơn đối với những người Sô Viết đã cho chúng tôi đến tị nạn. Tôi đã lý tưởng hóa tất cả những gì ở bờ sông phía Sô Viết.
- Anh bày tỏ sự biết ơn của anh bằng cách mời khách ngắm tranh quay lưng lại trước tất cả những công trình xã hội vĩ đại để chỉ nhìn một mảnh đất hoang phế với bò, cừu đang gặm cỏ?
- Anh làm cho khách ngắm tranh quên mất những cơ xưởng tân tiến, những cải cách xã hội rồi anh bảo đó là sự biết ơn của anh đối với Sô Viết ư? Tại liên bang Sô Viết, điều đó được gọi là tội phá hoại nghệ thuật và sẽ bị trừng phạt như những tội trạng khác.
Người họa sĩ lo sợ bảo:
- Chúng tôi sẽ vẽ lại tất cả những khung cảnh ở đây. Thế ngài có muốn nghe một nghệ sĩ tài danh của gánh hát chúng tôi diễn lại một vở kịch không?
Eddy Thall trong bộ quốc phục bắt đầu kể chính câu chuyện của nàng. Nàng kể rõ người ta đã đóng cửa hý viện của nàng ra sao, đã tịch thu nhà của nàng như thế nào, kể chuyện Tinka Neva bị buộc ra khỏi nhà nàng, Lidia Petrovici bị đốt trong trại giam, kể rõ trường hợp bị giết của bà Debora Paternik cùng hàng triệu người khác. Nàng cũng nói rõ ý định di cư sang Palestine của nàng cũng như của các bạn đồng hành dù biết rằng sang đó, ở đất Thánh, họ cũng sẽ bị người Anh bắt bớ giam cầm. Họ cũng muốn di cư trong tuyệt vọng nhưng tiếc thay chiếc tàu Adassa đã bị chìm tại biển Đen mang theo bao nhiêu là sinh mạng tài sản Do Thái. Những người may mắn còn sống sót đã quay sang Nga Sô, và nước Nga đã chấp nhận họ cũng như đã bao lần nước Nga tiếp đón những người bị ngược đãi.
Thình lình, Boris Bodnariuk hỏi Eddy:
- Nhưng tại sao cô lại mặc thứ y phục nầy?
Người họa sĩ lại trả lời thay Eddy:
- Đó là y phục của Cộng hòa Sô Viết Moldavie.
- Người đàn bà Sô Viết không thể mặc y phục đó bao giờ, vì nó thuộc về xã hội thoái hóa. Quốc phục đó là quốc phục của một người đàn bà nô lệ. Vì mặc nó, người đàn bà không thể nào làm việc được, nhất là ở các nhà máy hay ở bộ môn thể thao. Nghệ sĩ Sô Viết xuất hiện trên sân khấu phải ăn mặc thế nào để có thể khuyến khích đàn bà Sô Viết biết cách chọn y phục. Cô gợi ý cho khán giả chọn thứ y phục nô lệ nầy mà cô lại cho là quốc phục ư?
Người họa sĩ lại lo sợ bảo:
- Thưa ngày chúng tôi sẽ thay đổi cách ăn mặc.
Eddy Thall tiếp tục kể chuyện nhưng đã run lên vì sợ hãi. Boris lại cắt ngang hỏi:
- Cô ấy kể gì đó?
- Cô ấy đang kể lúc những người tị nạn phát xít khám phá ra dân tộc Sô Viết tự do mà trước họ không hề hay biết vì bị che dấu bởi thứ tuyên truyền của xã hội trưởng giả.
- Trong những xã hội trưởng giả, đã có hàng triệu đảng viên cộng sản hy sinh mạng sống để có thể nói lên được những sự thật về Sô Viết. Không nhớ điều đó tức là phản bội cuộc đấu tranh nầy và làm sai lạc lịch sử. Nghệ sĩ mà làm sai lạc lịch sử cũng phạm tôi rất nặng.
Boris bước ra cửa, đôi ủng bước lên trên cả những cây thánh giá, những bức tượng bằng sứ, bằng nhung vứt bừa bãi trên nền nhà, vừa đi vừa lầm bầm với Novirok:
- Không thể nào giáo dục lại bọn trưởng giả. Đồng chí cứ gởi hết họ ra sa mạc. Mấy người khác sắp đến đồng chí cũng cứ gởi nốt họ ra, theo những chuyến công voa hàng tuần. Con người của xã hội trưởng giả không thể nào thay đổi được nữa. Nếu chúng ta tin là có thể giáo dục họ được, chúng ta sẽ phạm đến tội lãng mạn chính trị.
VI
Chuyến công voa đầu tiên chở những người Do Thái tị nạn đã đến Sa mạc. Họ cũng đều ở trong lều và làm việc suốt ngày để hoàn thành con đường sắt nối liền ga cuối cùng đến công trường. Vài ngày sau, vào một phiên họp buổi sáng, Bodnariuk bảo:
- Hiện có hàng ngàn nhân công đang góp công vào việc hoàn thành hệ thống dẫn nước và đường sắt cùng các con đường nối liền công trường chúng ta đến mảnh đất phì nhiêu. Tôi cần các đồng chí liên lạc với họ. Số lượng những người đó mỗi tuần mỗi tăng lên để tạo một số nhân lực bất tận cho công tác của chúng ta.
Sau lời nói đó, buổi hòa tấu ban sáng lại bắt đầu. Boris ra hiệu cho một thiếu nữ thuộc tiểu bản địa chất. Thiếu nữ đó lập tức đứng dậy và tuyên bố:
- Khu đất mà chúng ta đang đứng đây, theo sự khảo sát của chúng tôi có nhiều mỏ dầu hỏa rất quan trọng. Ngoài ra chúng tôi đang kiếm thêm vài khoáng chất khác và than đá. Công tác khai thác kho tàng địa chất Sa mạc, sắp bắt đầu và chúng tôi có thể cam đoan với các đồng chí là không bao lâu nữa để thay thế cho những bãi cát, sẽ mọc lên những thành phố kỹ nghệ với những cơ xưởng, những nhà máy lọc dầu, những nhà máy sản xuất hoá chất vĩ đại. Tất cả điều đó có thể thực hiện được nhờ những cố gắng ăn khớp nhau của kế hoạch Sô Viết trong công trình khai thác Sa mạc và thay đổi khí hậu.
Tiếng vỗ tay lại vang lên. Boris xoay qua viên tổ trưởng ban hóa học. Người nầy lại đứng dậy phúc trình:
- Cây cối do các đồng chí ở tổ thực vật đem trồng ở đây đều được nghiên cứu kỹ lưỡng ở phòng thí nghiệm. Chúng tôi có thể đoán chắc ngay từ bây giờ là một vài hoá chất rất hiếm hoi trên thị trường sẽ do đồn điền ở sa mạc cung cấp, vì chúng ta sẽ có nhiều nhà máy sản xuất hoá chất ở đây. Đây là một vài thí dụ: Runex Humeno-bepalus là một thứ cây có nhiều chất tanin, và có thể dùng để chế tạo trụ sinh chữa bệnh lao rất công hiệu, một loại Agave đem lại rượu và một thứ cây rất đắt đỏ trên thị trường, Larrea paricata là một cây có lá luôn luôn xanh tươi sẽ cung cấp nguyên liệu bậc nhất cho kỹ nghệ hóa học. Nhờ sự canh tác sa mạc, nền hóa học mới có được một kho tàng nguyên liệu mà không thứ đất nào có thể cung ứng nổi. Chúng tôi đã nhận dạng được trên 500 cây rất quí cho chúng ta. Chúng ta có thể xem sa mạc sẽ là nơi của phòng thí nghiệm và của những nhà máy chế tạo hóa chất trong tương lai.
Boris lại chỉ định tiếp đồng chí trong tổ lo về rau sống:
- Theo kinh nghiệm của chúng tôi, sa mạc này có thể sản xuất 12 ký khoai tây trong mỗi thước vuông đất, mỗi trái xu có thể nặng 5 ký, một củ hành trồng ở đây có thể nặng 280 g. Đất cằn cỗi ở đây không ngờ lại ích lợi vô tận cho công việc làm vườn. Chúng tôi đang chờ đợi những kết quả mỹ mãn trong tương lai?
Một người khác trong tổ vệ sinh đứng dậy:
- Trại tù binh cách công trường chừng 50 cây số có thể là một ổ nhiễm độc cho toàn thể sa mạc. Vì gốc gác trưởng giả của họ nên có thể các công nhân rất suy yếu. Số lượng người chết sẽ rất cao. Mà sa mạc lại không phải là nơi có thể lập thành những nghĩa địa, vì gió có thể cuốn những nấm mồ đi rất dễ dàng. Vi trùng được mang đi hàng trăm cây số và sẽ rất nguy hiểm vì chúng sẽ làm không khí nhiễm độc và có thể gây ra những bệnh dịch cách xa hàng ngàn cây số. Tôi yêu cầu phải đốt các xác chết chứ đừng chôn xuống đất, vì các nấm mồ sẽ bị gió quật lên ngay.
Boris Bodnariuk mỉm cười, nhìn về phía cô thư ký Natacha Olt. Nàng cầm mảnh giấy đứng dậy đọc:
- Đồng chí trong tiểu tổ vệ sinh đã cho chúng ta một sự kiện rất hay. Trung ương cục về canh tác sa mạc gồm nhiều nhà bác học Sô Viết đã từ lâu giải quyết vấn đề nghĩa địa trong sa mạc. Đúng là không thể nào chôn người chết ở đây được, vì xác chết bị gió bới lên sẽ rất nguy hiểm nhưng đem đốt đi cũng là một lầm lẫn lớn lao. Vì thế uy ban trung ương đã có một quyết định phi thường. Đồng chí trong tiểu tổ «Trồng cây ăn trái» sẽ cho các đồng chí biết quyết định đó ra sao.
Một thiếu nữ khác đứng dậy:
- Vấn đề các xác chết ở trong sa mạc sẽ được giải quyết như sau. Những người chết sẽ được chôn xuống một hầm sâu chừng 60 phân dọc theo thủy lộ, cách nhau chừng năm thước. Trên mỗi xác sẽ được phủ lên một lớp đất mềm chừng 10 phân. Xong với sự kiểm soát của tiểu tổ trồng trọt, ta sẽ trồng lên đó một loại cây ăn trái, rồi mỗi chiều sẽ tưới lên đó chừng 5 lít nước, tưới trong một khoảng thời gian cần thiết để cây đâm rễ và xác chết vữa ra để giữ đất cứng lại. Theo kinh nghiệm của các đồng chí trong các tiểu tổ khác về sa mạc thì theo phương pháp đó, cát sẽ cứng hẳn lại và nấm mồ sẽ không bị gió quật lên nữa. Phương pháp đó có rất nhiều tiện lợi: đường thủy, đường bộ cũng như đường sắt có cây cối hai bên sẽ tránh bớt gió của sa mạc. Ta sẽ trồng thêm một ít cỏ để làm cho đất chung quanh được rắn chắc thêm, như thế đồn điền có thể được nới rộng. Hệ thống dẫn nước nhờ cây cối hai bên sẽ tránh bớt được ánh sáng gay gắt ở sa mạc. Trung ương cục đã tính là một cây trồng ở trong nghĩa địa, bón bằng xác người chết kết trái hai lần nhiều hơn các cây khác, như thế trong thời hạn năm năm, nghĩa là thời gian cần thiết cho sự phân hóa xác chết. Trái cây sinh ra cũng ngon và tốt hơn bội phần, ví dụ như trái anh đào sẽ ngọt và lớn hơn nhiều; vả lại phương pháp nầy đã được áp dụng từ lâu, chính vì vậy mà các nghĩa trang thôn quê lúc nào cũng có cây cối. Nhưng nhờ Liên Bang Sô Viết mà phương pháp đó được kế hoạch hóa và sẽ đem dùng tại công trường chúng ta.
Boris lại mỉm cười tuyên bố:
- Sô Viết không quên điều gì cả, nghiên cứu cả đến những xác chết ở sa mạc nữa.
Nói thế xong, hắn lại mỉm cười và bế mạc buổi họp.
VII
Bất thần Boris dùng cam nhông đi thanh tra công trường làm thủy lộ và thiết lộ. Hắn bước xuống xe, theo sau là Natacha, trưởng ban đồn điền, trưởng ban chính trị, y sĩ và ba thanh niên, sau cùng mới đến Vladimir Kanayan.
Người ta vừa lo trồng cây, vừa lo chôn cất những xác chết trong ngày. Trong lúc Boris đang xem công tác đắp đất mà cạnh đó người ta đã đào sẵn 27 hộ hình chữ nhật sâu chừng 60 phân, thì từ một căn lều có lính gác, 27 tù binh ăn mặc rách rưới bước ra mang theo 27 cây keo con.
- Chúng ta trồng cây keo ở đây vì chúng mọc rất dễ trên đất cát, trong 14 tháng nữa chúng sẽ được ghép cành và trở thành cây ăn trái.
Cũng từ căn lều đó, hai hàng nam tù binh cũng vừa bước ra, cứ hai người lại mang một xác chết trong ngày đem đặt cạnh hố vừa đào. Boris không thèm nhìn những người chết nằm úp mặt trần truồng, úp mặt để người ta không biết được xác nào đàn ông, xác nào đàn bà. Theo lệnh của trưởng ban, cứ hai người lại ẵm một xác chết quăng xuống hố, sau đó người ta đem đất vàng phủ lên. Viên chỉ huy xem kỹ thử tù nhân đã phủ đúng 10 phân đất mềm trên mỗi xác chết chưa. Xong người ta mang cây lại và trồng ngay trên ngực mỗi xác chết. Tất cả việc đó đều do đàn ông phụ trách, mấy người đàn bà chỉ đứng nhìn, mọi việc diễn ra trong yên lặng, bình thản, cho đến lúc xe mang lại 5 thùng nước. Tức thì mắt bọn tù nhân sáng hẳn lên, vì họ đã quá khát nước. Người ta có cảm tưởng là họ phải cố dằn lòng hết sức mới khỏi nhảy xổ đến các thùng nước. Họ đành liếm môi cho đỡ thèm, và cho dù họ bị chóa mắt trước những dòng nước đổ xuống bãi cát, họ cũng không thể làm gì hơn được trước những toán lính gác các thùng nước, đã được lệnh của tên ủy viên chính trị là: «Phải xem chừng nước bị đánh cắp, mỗi thùng nước phải được canh gác ngày đêm bởi một số lính gấp đôi».
Bodnariuk đứng nhìn người ta tưới nước lên cát mà không nói một lời nào. Natacha đã tránh xa công trường vì nàng không thể nào dự kiến quang cảnh tạo đồn điền bằng xác chết. Đứng ở xa nàng nghe được một giọng nói quen thuộc, đúng là giọng Vladimir Kanayan đang nói chuyện với một nữ tù nhân. Natacha muốn la lên là «không ai được đến gần công nhân ở công trường» nhưng giọng Kanayan đã vọng đến tai nàng thật rõ rệt:
- Với năm tiền vàng tôi sẽ dẫn bà sang Do Thái. Cho đến bây giờ đã có bốn trường hợp như thế rồi, và việc xảy ra thật hết sức giản dị. Ở đây qua Irak, và tới Israel chẳng bao xa, chỉ cần năm tiền vàng thôi. Có nhiều toán dân bản xứ đưa bà sang Irak dễ dàng đêm nay cũng được nếu bà muốn.
Người đàn bà khá cao, đẹp và hơi gầy, chỉ lắng nghe Kanayan mà chưa nói gì. Trong lúc đó Natacha rón rén tiến đến gần hai người. Nàng nghe rõ người đàn bà nói bằng tiếng Nga hơi khó khăn và khó nghe:
- Nhưng ông có bảo đảm là đưa chúng tôi khỏi biên giới an toàn khi tiền đã trao xong? Làm sao chúng tôi có thể chắc chắn là các ông không giết chúng tôi dọc đường?
Kanayan trả lời:
- Khi nào bà đi khám bệnh thì điều duy nhất bà có thể tự hỏi là bác sĩ đó có giỏi hay không. Thế thôi, sau đó, bà không thể nào kiểm soát xem bác sĩ đó sẽ làm gì cho bà, bởi vì một lúc đã giao tính mệnh cho ông ta, thì chỉ có vấn đề tín nhiệm mà thôi. Với bác sĩ, không có vấn đề bảo đảm. Với những người bản xứ dẫn bà qua Israel cũng thế, điều chính yếu là xem họ có biết đường hay không, thế mà họ biết sa mạc nầy rõ ràng lắm, vậy thì điều còn lại chỉ là vấn đề tín nhiệm.
Trong lúc người đàn bà còn suy nghĩ, Kanayan đã nói tiếp:
- Ngày mai, chừng quá nửa đêm, một số người sẽ đến đây dẫn những người Do Thái nào có đủ năm tiền vàng. Họ sẽ gặp các người ở nơi những ngôi mộ mới chôn ngày hôm nay. Họ sẽ bò đến, và các người đừng sợ, đêm mai không có ánh trăng. Nhưng các người phải có ít nhất là năm tiền vàng, không thể thiếu được. Dân bản xứ lang thang ở đây là những kẻ đáng tin cậy, không ai là người Sô Viết cả. Eddy Thall nhìn Kanayan. Hắn nhìn nàng và cười đồng lõa. Gần đó người ta nghe rõ giọng của Bodnariuk:
- Người nào chỉ sống cho hiện tại mà thôi kẻ đó là một tên mọi hay là một tên phản bội. Con người phải sống cho tương lai và hòa mình vào một kế hoạch. Kế hoạch là điều may mắn đích thực cho con người. Tương lai sẽ rạng rỡ không phải nhờ cá nhân mà nhờ ở đoàn thể và nhờ ở đoàn thể đã đi đúng vào một kế hoạch. Ngày hôm nay con người sống trong sa mạc này với đói khát. Hiện tại như vậy đó. Nhưng họ phải chịu để các thế hệ tương lai có nước mà uống. Nhờ ở kế hoạch của chúng ta, dân chúng trong tương lai không còn biết đến đói khát nữa. Chúng ta chôn xuống đồn điền nầy hàng trăm ngàn người để cứu vớt hàng triệu người trong tương lai. Có một thứ tình nhân loại nào lớn hơn thế không?
Xe cam nhông rồ máy. Natacha cắn chặt môi mà không dám nhìn Kanayan:
- Tối nay mình sẽ nói hết cho Boris Bodnariuk những gì mình đã nghe được. Boris sẽ bắt quả tang cả lũ...
Nàng còn nhớ rõ lời dặn của Boris: «Đó là sinh vật đầu tiên xuất hiện ở sa mạc». Vì thế nàng nhìn Kanayan, khinh bỉ, và nghĩ rằng vì thế Sô Viết đã có lý khi tìm kiếm kẻ thù của dân tộc trong cát, trong các rễ cây và trong những nấm mồ, vì kẻ thù ở khắp mọi nơi.
VIII
Một chiếc cam nhông chở đầy lính đang đứng đợi trước dãy lều. Cạnh đó, một số sĩ quan cảnh sát cao cấp đang bước vào lều, Boris vui vẻ tiếp đón họ và bắt đầu kể cho họ nghe công trình trồng trọt trên xác chết, dọc theo hệ thống dẫn nước.
Trong lúc Boris cùng quan khách bước vào văn phòng, Natacha và Kanayan đã lo sắp xếp ghế ngồi. Natacha hơi xanh, nghiêng người nói nhỏ với Boris:
- Tôi cần báo cáo với đồng chí một điều hết sức quan trọng. Nàng muốn lập lại từng chữ cuộc đối thoại giữa Kanayan và người nữ tù, nhưng một viên sĩ quan đã cản lại:
- Đồng chí cứ để khi khác hãy nói, giờ chúng tôi cần nói chuyện riêng.
Boris ra dấu cho Natacha bước ra ngoài. Viên sĩ quan vừa đuổi Natacha ra ngoài vừa tiết lộ với Boris:
- Chuyện nầy quan hệ lắm. Cơ quan an ninh biên giới của ta đã bắt được thêm một toán tù binh trong nhóm của đồng chí.
Sáu người sĩ quan đăm đăm nhìn Boris. Bên kia vách, Natacha lắng nghe. Cũng ở bên kia vách nhưng ở đằng sau căn lều, Vladimir Kanayan đang rình nghe.
- Hiện có một tổ chức chuyên dẫn tù binh ra ngoại quốc, một người nói thế, trong khi một sĩ quan khác viết biên bản.
Boris bình thản kể chuyện:
- Những người chết ở công trường đều dùng vào công tác trồng trọt. Chúng tôi khám phá ra rằng số cây trồng, nghĩa là số nấm mồ, ít hơn là số tù nhân đã chết. Hiện thiếu mất năm nấm mồ, tôi sẽ cho các đồng chí biết giả thuyết của tôi.
- Vâng, đồng chí cứ nói. Chúng tôi cần biết lắm.
Boris mỉm cười thản nhiên nhìn sáu viên sĩ quan trước mặt: hắn đang vừa khát vừa mệt, mồ hôi nhễ nhại:
- Chúng tôi chôn xác người chết dọc theo hệ thống dẫn nước và trồng cây lên trên. Không những xác người mà thôi, mà những xác súc vật cũng được dùng trong mục đích đó. Và tù nhân đã quật xác ngựa, lừa để ăn... Chúng tôi đã suy ra như thế, nhưng muốn kiểm soát lại chúng tôi phải kiểm soát chừng 400 nấm mồ, nghĩa là phải 400 cây, điều này chúng tôi không thực hiện được, vì mỗi cây trồng được cũng mất 5 lít nước mỗi ngày. Nhưng tôi vẫn chắc chắn là những xác mất đi là xác súc vật chứ không phải là xác tù nhân.
Boris nói tiếp:
- Bởi vì tù nhân không đi đâu được cả. Muốn trốn về phía Tây họ phải vượt qua nhiều hàng kẽm gai, như vậy trốn về phía đó chắc chắn là không được rồi. Phía Đông và phía Nam là hàng ngàn cây số sa mạc. Cả đến chim chóc cũng không dám bay qua huống nữa là người. Sa mạc là một thứ lính gác bảo đảm nhất.
Một viên sĩ quan phản đối:
- Trong phạm vi sở cảnh sát không có gì chắc chắn cả. Đúng ra phải kiểm soát cả ngày lẫn đêm.
- Nghi ngờ như thế là phi lý, vì sa mạc không cho phép bất cứ ai vượt qua cả. Các đồng chí cứ thử đi về phía Đông và Nam mà xem, chỉ đi được chừng hai cây số là nhiều, rồi sẽ bị nắng thiêu cháy như gà rô ti vậy.
- Ấy thế mà tù nhân của đồng chí đã băng qua rồi đấy. Họ đã khai với chúng tôi hết cả rồi, rõ như ban ngày. Cho nên chúng tôi phải đến đây để tìm xem ai là kẻ đã cho phép họ băng qua vùng cấm.
Viên đại tá rút trong túi ra vài tờ thông hành, loại giấy tờ chỉ Boris mới có quyền cấp mà thôi.
- Chúng tôi muốn biết ai ở văn phòng đồng chí đã cấp cho họ giấy tờ nầy.
Mọi cặp mắt đổ dồn về phía Boris quan sát từng biến chuyển trên mặt hắn. Ngay lúc đó, Natacha Olt ở phòng bên đứng bật dậy. Nàng quyết phải nói thật, vì chỉ có nàng biết điều đó. Kẻ thù của dân tộc, thứ rắn độc đó cần phải bị loại trừ. Người tổ chức cho tù nhân trốn thoát chính là Vladimir Kanayan. Nên nàng tiến đến cửa và sắp sẵn những lời tố cáo.
Qua cửa sổ căn lều, Vladimir Kanayan theo dõi từng cử chỉ của Natacha. Và lúc nàng đặt tay lên nắm cửa, Kanayan rút súng lục bắn ngay ba phát vào cổ trắng nõn nà của cô nữ thư ký, xong hắn vứt ngay khẩu súng xuống chân Natacha trước khi nàng ngã xuống, và bình tĩnh tiếp tục nghe lóm câu chuyện của các viên sĩ quan. Nhưng không ai tiếp tục nói chuyện nữa. Chỉ còn tiếng ghế rớt loãng choãng, tiếng cánh cửa răng rắc, tiếng chân chạy thình thịch. Lưng Kanayan ướt đẫm mồ hôi, nhưng nét mặt hắn vẫn lạnh lùng, thân thể vẫn bất động. Mọi người vào phòng Natacha, nàng đã chết cạnh khẩu súng lục, cổ đầy máu. Viên đại tá nói như hét:
- Như thế là quá đủ, không có lời thú tội nào đầy đủ hơn là lời thú tội của chính thủ phạm giết người. Kanayan sững sờ nghe giọng nói của viên đại tá.
- Đồng chí Boris, đồng chí bị bắt để điều tra.
Kanayan đứng dậy. Qua khung cửa hắn thấy rõ vừng trán cao, thông minh của Boris, thấy rõ viên sĩ quan trẻ ôm cứng Boris, một người khác cầm chặt hai tay và người thứ ba còng đôi tay trắng trẻo của Boris.
Hắn đứng thẳng, bất động như một pho tượng đồng.
Một viên sĩ quân lục hết giấy tờ trong ngăn kéo, trong lúc Boris lẩm bẩm:
- Kẻ phản bội phải chết đã đành, những ai không tìm thấy kẻ phản bội cũng đáng tội chết lắm.
Rồi Boris hình như thầm nói với riêng mình:
«Mình không có hân hạnh giết kẻ nào phản bội nhưng mình muốn làm tròn phận sự với Sô Viết bằng cách sẽ giết chết những ai không truy tầm được sự phản bội; dù nó đang lẩn quẩn quanh mình. Ai không trông thấy kẻ thù của Sô Viết không xứng đáng là một người Sô Viết. Một kẻ mù lòa không thể là một đảng viên cộng sản, không, Boris ơi, không...»
Boris nắm chặt tay lại, hình như chúng trở nên to lớn lạ thường và không còn nằm trong xiềng xích nữa. Và chính trong não tủy hắn, tội ác của hắn – thứ tội ác đã không tìm ra được những kẻ phản bội đang làm việc cạnh hắn – cũng chiếm những thể tích kinh khủng, Boris biết rằng có những thứ tội ác làm cho người ta không thể nào sống sót được nữa. Thế là hắn nắm chặt tay, nghiến răng dơ tay cao, đôi tay trong xiềng xích, vận dụng tất cả thớ thịt và trí óc, quyết tâm đánh mạnh vào thái dương, mạnh đến độ hắn bất tỉnh nhân sự. Trong giây lát hắn chỉ còn trông thấy muôn ngàn ngôi sao li ti màu lục, biến dần sang màu đỏ như máu đang chảy trên trán hắn. Hắn cảm thấy hơi nóng phát ra từ miệng rồi hắn ngã xuống nền nhà. Vạn vật thành màu tím thẫm, rồi hết, không còn gì nữa.
Viên đại tá ra lệnh thật hằn học:
- Vất nó lên xe. Một người cộng sản, ngay cả sau khi hoàn thành một tội ác, cũng còn phải phục vụ đảng bằng cách khám phá tụi phản bội khác. Boris đã xao lãng nhiệm vụ. Cái chết nầy gọi là đào ngũ. Cũng không phải là cái chết nữa, nhưng là một tội ác, tội đào ngũ.
IX
Một vết máu trên ngưỡng cửa chiếc lều còn sót lại sau khi chiếc cam nhông đã chở Boris đi. Vết máu đó là tất cả những gì Boris còn để lại đó sau khi hắn đi. Từ hồi ba tuổi đến giờ, hắn đã để lại đằng sau hắn không biết bao nhiêu là vết máu, nhưng là máu của kẻ khác, bây giờ mới là máu của hắn. Bắt đầu từ ngày mai biện pháp canh phòng sẽ gắt gao hơn nhiều. Người ta chôn Natacha xuống dưới một gốc cây như bao nhiêu xác tù nhân trước đây. Mỗi đêm người ta lại tiếp tục chôn người như thế dọc theo hệ thống dẫn nước. Máy bay bắt đầu đến rải hạt giống mỗi tuần hai lần Vladimir Kanayan coi sóc lũ thanh niên trong các công tác sưu tầm. Một hôm, hắn gặp Eddy Thall, người nữ tù trẻ đẹp bảo với nó là nàng có đủ năm tiền vàng. Nhưng Kanayan nhún vai bỏ đi, sa mạc bây giờ được canh phòng cẩn mật, không ai trốn thoát được nữa.
Vài tháng sau, một đoàn xe cam nhông đến chở hết tù nhân đi nơi khác. Kế hoạch thay đổi khí hậu và canh tác sa mạc tạm thời bị đình chỉ.
Chiến tranh đã lan tràn. Nhân lực cần được dùng vào việc khác. Các căn lều được giở đi. Gió sa mạc lại thổi tung cát. Và cuốn theo những dấu vết Sô Viết. Mặt trời lại thiêu đốt hết thảy, thiêu luôn cả những xác chết.
Boris đã để lại một vết máu; kế hoạch Sô Viết thì để lại những xác chết. Vladimir Kanayan lại trở về với cô đơn, với khô cằn và nắng cháy của sa mạc. Hắn tự nhủ:
- Mình thừa biết là không thể nào biến sa mạc thành những khu vườn. Ngay cả nếu chiến tranh không xảy ra họ cũng không thể thành công được. Muốn thành công, họ cần trồng cây trên xác chết nhưng không ai có thể giết người nhiều đến thế để chôn trên sa mạc. Cho dù có dùng máy móc chăng nữa, cũng không ai có thể giết được nhiều người như thế. Họa hoằn là có trời mới làm được thôi.
Trước khi rời sa mạc, Kanayan nổi lửa đốt hết đồn điền. Sa mạc đã có hàng ngàn cây nhưng vẫn cháy rất mau. Kanayan thầm nghĩ:
«Nếu Sô Viết thắng trận, họ sẽ trở lại đây và sẽ lại trồng cây trên xác chết. Người chết được tự do, nghĩa là người chết phải được ở ngoài kế hoạch.»
Đánh máy: Nguyễn Đ Thanh & Ct.Ly
Nguồn: Nhà xuất bản Lá Bối ngày 7- 10- 1968
casau - VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 10 năm 2014