← Quay lại trang sách

VI & VII & VIII & IX & X CUỐN SÁCH CỦA SỰ CHIẾN THẮNG

dịch giả: hằng hà sa và bích ty

VI & VII & VIII & IX & X

cuốn sách của sự chiến thắng

rong đám đông có kẻ la lên:

- Người ta đã bắt được một số gián điệp Sô Viết. Boris sợ toát mồ hôi, hắn đứng như dán lưng vào tường, núp sâu trong bóng tối. Hắn đặt bộ máy phát thanh trong phòng. Nếu hệ thống đó bị phát giác, thì hành tung bí mật của Boris bị bại lộ, công tác của hắn đành chấm dứt. Hắn sẽ bị bắt và bị xử tử.

Boris trà trộn vào đám đông. Lúc còi báo động chấm dứt thì một hàng rào cảnh sát đã có trước cổng ra vào. Đội cứu hỏa mang xuống một người đàn bà già nua trên băng ca. Đám đông thấy Boris mang y phục sĩ quan bèn nhường chỗ cho hắn đi ngay. Thế là Boris đành phải đứng cạnh hàng rào cảnh sát và cạnh băng ca người đàn bà bị cháy. Viên biện lý tòa án quân sự đã lập biên bản xong:

- Ngay sau khi báo động người ta đã cho chúng tôi biết là có một người làm hiệu bằng đèn bấm trên lầu căn nhà nầy. Chúng tôi đã đến tận nơi ngay, nhưng lúc đó, bom đã trút xuống căn nhà. Người làm hiệu đã chết trong đống gạch vụn, tay vẫn còn cầm cây đèn.

Viên cảnh binh chỉ người đàn bà nằm trên cáng:

- Không còn nghi ngờ gì nữa, chính là bà nầy đã ra dấu cho máy bay.

Người gác dan rẽ đám đông đi vào, trả lời ngay:

- Đúng là Tinka Neva, tôi biết bà ta rõ lắm. Bà thuê một căn trong nhà nầy.

Boris nhìn kỹ người chết. Đúng bà già hắn đã thấy ở quán lúc mới có báo động, trong lúc người gác dan giải thích tiếp.

- Đó là một người ở của một gia đình Do Thái, gia đình Thall. Sau khi bà chủ đi, Tinka ở lại trong căn nhà và luôn luôn say sưa. Đúng là Tinka Neva rồi đó.

Trong lúc cảnh sát rọi đèn để xem rõ mặt Tinka, người gác dan quả quyết:

- Tôi biết chắc là bà ta không phải cộng sản. Không ai nghĩ Tinka là cộng sản, ai cũng tin là bà chỉ là một người say rượu không hơn không kém.

Boris nhìn kỹ mặt viên biện lý tòa án. Hắn nhớ đến trường võ bị Hoàng gia, và giật mình, người nầy chính là bạn cũ của hắn năm xưa, đúng là Pierre Pillat. Hắn bước đi lập tức, và trà trộn ngay trong đám đông. Mọi người đang bàn tán về Tinka Neva như là một nữ gián điệp cộng sản. Boris lắng nghe những câu chuyện đang trao đổi:

- Nếu bà ấy không phải là gián điệp cộng sản thì tiền đâu mà bà ấy uống rượu suốt ngày như thế được?

Một giọng nói quả quyết:

- Cứ mỗi lần có báo động, Tinka Neva lại lên mái nhà. Tôi đã để ý đến cái đèn quá lớn đó của bà ta, đúng là đèn ấy đã làm hiệu cho máy bay Sô Viết.

Boris cố nhớ lấy cái tên Tinka Neva, mà hắn mới nghe lần đầu. Trong hai danh sách đảng viên cộng sản ở Bucarest, không có ai có mang tên Tinka Neva, nhưng đám đông vẫn cứ bàn tán về bà ấy, làm Boris lại nhìn kỹ một lần nữa người đàn bà đó, trong lúc Pierre Pillat nói với cảnh sát:

- Tinka có thể là một điệp viên Sô Viết, nhưng cũng có thể chỉ là trường hợp lẩm cẩm của một người đàn bà già nua và say sưa. Tôi có biết Tinka Neva, nên riêng tôi không tin bà ấy là một nhân viên Sô Viết. Chúng ta cứ cố tìm ra ánh sáng xem sao. Chúng tôi sẽ lập biên bản vụ nầy.

Boris bước lên phòng, mọi vật còn y nguyên, chỉ trừ những căn phòng ở phía Bắc đã bị phá hủy. Nhưng trong nhà hắn, bức tường không hư hại, bộ máy phát tin vẫn còn tại chỗ, tiền bạc giấy tờ cũng không hề mất mát. Trong chốc lát, vừa cởi áo, Boris vừa nghĩ đến người bạn đồng học, Pierre Pillat, nay đã trở thành biện lý tòa án quân đội, nghĩ đến người đàn bà mang tên Tinka Neva cùng những lời bàn tán sự việc vừa xảy ra. Trước mắt hắn, xuất hiện một người đàn bà nhân công với bộ mặt đầy nét nhăn, nhợt nhạt, với đầu tóc bạc phơ mang chiếc khăn tay cột tận cổ, và Boris thầm nghĩ:

- Đúng là bộ mặt muôn đời của một công nhân. Ngay cả nếu bà ta chỉ cầm đèn lên lầu vì vô tình hay vì say sưa, hành động của bà vẫn có một giá trị từ đó mình có thể tạo ra một huyền thoại.

Boris nghĩ đến các hoạt động bí mật của mình, đến sự bất động của quần chúng, cùng sự hững hờ của giai cấp công nhân. Hắn cho là quần chúng Âu Châu cần có những anh hùng mới thức tỉnh được, mới dấn thân được, cũng như thuyền cần đến cánh buồm vậy.

Cho nên hắn viết ngay một bản phúc trình bằng một giọng văn rắn rỏi. Hắn nói đến những người vô sản đang bị giai cấp trưởng giả phát xít ở Âu Châu đàn áp, nói đến Hồng quân đang chờ dịp để giải phóng công nhân. «Tinka Neva, một nữ công nhân già nua thất nghiệp đã lâu đang ở tại Bucarest, đường Apolodor, số nhà 165, vì quá đau khổ nên ban đêm đã cầm đèn lên mái nhà làm hiệu cho máy bay Sô Viết đến giải phóng tổ quốc. Bà ta đã chết ngay trên nóc nhà cao, nhưng bà đã chứng tỏ sức mạnh phi thường của giai cấp thợ thuyền đã tranh đấu chống lại xã hội trưởng giả và phát xít. Bà đã nêu gương sáng cho công nhân toàn thế giới. Tinka Neva là một nữ anh hùng, là vị thánh tử đạo, là vị đại diện cho giai cấp thợ thuyền.»

Boris Bodnariuk viết rất dài, đó là bản phúc trình dài nhất của hắn từ khi hắn rút lui vào bóng tối để hoạt động. Cho nên, lúc trời sáng, bước xuống đường, bắt chuyện với người gác dan, với người lối xóm, Boris mừng rỡ thấy mọi người tin chắc Tinka là một nhân viên Sô Viết, nếu không thế thì tại sao bà ấy lại lên mái nhà làm hiệu cho máy bay địch. Boris gởi ngay bản phúc trình đi Ankara và từ đó đến Mạc Tư Khoa, tất cả báo chí thế giới đều dành những cột lớn để kể lại cuộc tranh đấu anh hùng của Tinka Neva, chỉ một mình bà đã dẫn đạo cuộc chiến đấu chống quốc xã, chống phát xít, chống tất cả mọi kẻ thù để dành lấy tự do.

Nhờ thông tấn xã TASS và báo chí Hoa Kỳ, Tinka Neva trong một tuần đã trở thành cái tên quen thuộc của thính giả bốn phương. Bà đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bài nói về tranh đấu và tự do. Tinka Neva trở thành ngọn cờ cho những quốc gia đồng minh.

VII

Trong lúc mà xã hội văn minh Tây phương nói về Tinka Neva như là một tượng trưng cho tự do, trong lúc mà các nhà soạn nhạc, các tác giả báo chí dùng tên bà như là một vị nữ thánh và các tập san đã dùng những số tiền khổng lồ để kiếm cho ra một bức ảnh của vị anh hùng chống phát xít đã chết trên mái nhà trung tâm thành phố, thân thể của Tinka Neva được chở đến nhà xác của thủ đô Bucarest. Ở đó người ta lột hết áo quần bà, khám da, khám tóc, khám đến những móng tay. Ở đó người ta cắt xác Tinka Neva thành từng mảnh nhỏ ở trên bàn khám nghiệm tử thi. Người ta cặm cụi xem từng miếng gan, trái tim, bộ óc, buồng phổi của bà, người ta đem từng bộ phận ra cân, cân xong lại đem nấu, pha máu, bỏ vào ống nghiệm. Chết đã ba ngày, thân thể Tinka vẫn trần truồng, vẫn còn bị cắt thành từng miếng trong phòng khám tử thi. Một người đàn bà sợ các thứ giấy tờ, sợ các cơ quan công quyền, một người đàn bà suốt 60 năm chưa hề bước chân lên cân bao giờ, bây giờ lại bị người ta cắt từng mảnh cơ thể bỏ lên cân, cân gan, não tủy, cân tim đã ngừng đập, bị người ta soi mói tất cả những gì bà đã có trong bao tử, trong ruột non, trong bọng đái, tất cả những gì bà đã ăn, đã uống. Trong lúc cơ thể bà bị lột trần như thế thì tên bà lại đuoc nhắc nhở trên khắp tất cả đài phát thanh bằng tất cả ngôn ngữ của loài người, tên bà được loan đi trên khắp các làn sóng điện, cho nên nếu bà còn sống biết được cuộc phiêu lưu bẩn thỉu đó, bà cũng sẽ chết mất vì hổ thẹn.

May thay Tinka Neva đã chết, đã không còn biết những gì đang xảy ra trên trái đất nầy nữa. Sau khi chết đi, chắc chắn bà bước lên ngưỡng cửa thiên đàng, nơi đó, có thánh Pierre đang cầm chìa khóa nơi tay. Suốt đời, Tinka đặt hết tin tưởng vào trời đất, tin có địa ngục, tin có thánh Pierre. Cho nên sau khi chết đi, bà cũng chỉ biết có thánh Pierre thôi. Và nếu ngài hỏi bà «Tinka Neva, con có ý định gì khi con cầm đèn lên mái nhà lúc đang có còi báo động?», thì bà cũng sẽ thản nhiên trả lời: «Con không lên mái nhà, thưa ngài, con chỉ lên lầu thượng, vì muốn vào phòng con ở bên kia, con phải đi ngang qua lầu thượng. Một người đàn bà già nua như con muốn đi trong đêm tối phải cầm đèn, nhưng con không ngờ là chính lúc đó, máy bay oanh tạc trông thấy con».

- Thế con có uống rượu không?

Nghe câu hỏi đó, Tinka hơi cúi đầu và trả lời:

- Nếu con không uống rượu, con đã không cầm đèn đi như thế.

Và bà sẽ nói thêm:

- Thưa ngài, con uống vì buồn phiền quá. Sau khi chủ con, cô Eddy Thall bỏ đi, con đã khóc bao nhiêu ngày đêm, nên con đã uống rượu để giải sầu, con không uống vì trác táng, thưa ngài con chỉ uống vì buồn phiền thôi...

Cho nên, nếu Tinka gặp được thánh Pierre ở bên kia thế giới như bà hằng ao ước lúc còn sống, ngài sẽ đặt bàn tay thân yêu lên vai bà và sắp bà vào hạng những kẻ khốn khổ nhưng tâm hồn trong sạch, vì thật nếu có một cõi thiên đàng thì cõi đó phải được dành riêng cho họ. Tinka Neva cũng sẽ được giảm tội, cái tội đã làm cho hai người bị dập nát trong cuộc dội bom thành phố Bucarest.

VIII

Eddy Thall chưa lành bệnh hẳn, Ivan đành ngủ ở phòng làm việc để nhường giường cho nàng, hắn trở thành y tá riêng cho nàng và săn sóc nàng như săn sóc một người em gái, hắn đau khổ không ít khi thấy nàng ho ra máu dính cả lên gối. Nhưng hắn giấu hết mọi việc, bởi nếu hắn khai rằng Eddy bị bệnh, nàng sẽ bị chuyển sang bệnh xá, và một lúc đã vào đó, không ai có thể sống sót được, cứ mỗi ngày người ta lại khiêng ra ngoài chừng mười xác chết trần truồng và vứt vào hố công cộng. Cho nên Ivan vẫn khai với thượng cấp là Eddy lo việc quét tước cho văn phòng để đợi ngày toàn thắng. Mỗi ngày hắn mang tin chiến trận cho Eddy. Một hôm, hắn bảo:

- Quân đội Sô Viết đã chiếm Bucarest.

Thật là một biến cố lớn lao đối với Eddy, nên nàng khóc lên vì sung sướng. Nhưng chiến thắng vẫn chưa đến, vì còn một số các nước khác cần chinh phục. Tuy nhiên tù nhân vẫn còn nuôi hy vọng. Hàng ngàn người Do Thái hùng hục làm việc trên mảnh đất băng giá nầy, gồng gánh, đẩy những toa xe chở đầy quặng sắt. Mọi người trong hàng ngàn người đó đều có cảm tưởng mình là một người lính đang chiến đấu trong hàng ngũ của 52 quốc gia cho vinh quang và tự do. Cho nên dù cho thân thể đã già nua, đầy mụt nhọt và chí rận còn bị hành hạ bằng lạnh lẽo và đói khát, mọi người đều tự khuyến khích mình bằng niềm hy vọng đó, như là trên một cuộc hành trình tuyệt vọng, người ta vẫn vỗ về con ngựa bằng mấy tiếng: Nào, cố lên chút nữa, chút nữa, xem...».

Một đêm nọ, Eddy Thall nằm mơ thấy Tinka Neva, rồi Lidia Petrovici và bà Debra Paternik. Đất bỗng nứt ra, và các nắp hầm mở rộng. Người Do Thái choàng hết dậy để mừng chiến thắng. Esther và Rebecca mặc lễ phục bồng bềnh trên sóng của biển Đen. Trên bệ cao, Churchill, Roosevelt và Staline đang mỉm cười tuyên dương công trạng những kẻ đã sống dậy từ lòng đất, từ biển cả, từ trong những đống tro tàn, những kẻ đã liều mình đóng góp cho vinh quang. Churchill hút xì gà và Roosevelt mang cà vạt màu vàng chói. Họ ngồi chễm chệ như những vị thánh có hào quang chói sáng để ngỏ lời cùng người Do Thái rằng: «Các bạn đã chiến đấu trong các hầm mỏ, trong ngục tù, trong sa mạc cho thắng lợi chung».

Thực là một giấc mơ đẹp, Eddy muốn mơ mãi như thế, nhưng Ivan đã la lên đánh thức nàng dậy.

- Chiến thắng đã đến rồi. Chúng tôi được lệnh để cho tất cả người ngoại quốc trở về tổ quốc của họ. Mọi người chỉ làm một tờ đơn và sau đó có thể tự do về nhà.

Eddy Thall nức nở khóc:

- Trời, chiến thắng... Tôi biết thế nào ngày đó cũng đến, tôi đã mong ước bấy lâu nay. Hàng triệu người đã mong ước bấy lâu nay, và bây giờ, ngày đó đã đến...

Nàng muốn trở dậy. Nhưng Ivan đã yêu cầu nàng nằm yên, để hắn đi nạp đơn dùm cho nàng. Eddy Thall vừa khóc vừa bảo hắn:

- Tôi muốn chính tay tôi viết đơn xin trở về cố hương. Ông để tôi tự mặc áo lấy một mình.

Thế là Ivan đành bỏ ra ngoài.

Eddy bước đến tấm kính treo trên tường, đau khổ thấy từng sợi tóc của mình đã bạc. Nàng nghĩ: «Đối với người đàn bà đau khổ, có lẽ những sợi tóc chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Đầu tóc óng ánh nơi một người đàn bà sung sướng sẽ mất vẻ tinh anh đó ngay, lúc nào đau khổ bắt nàng phải gánh chịu». Eddy nhìn đầu tóc mình và nghĩ:

- Biết là thế nào tóc cũng bạc nhưng mình không ngờ tóc mình bạc nhanh và nhiều đến thế.

Rồi vừa chải đầu, nàng vừa an ủi: «Mình cứ chải đi, rồi chúng sẽ xanh lại cho mà xem».

Nàng lại ngắm đôi mắt. Cũng như xưa nhưng bây giờ mắt nàng đã mất vẻ tinh anh. Nàng đúng là một Eddy Thall thường hay diễn kịch thời xa xưa, nhưng bây giờ ánh mắt không còn là của nàng nữa. Ánh mắt của một người đàn bà đau khổ không còn tinh anh mà chỉ rõ ràng là tính toán và khô cằn như đất cát, mắt của một người đàn bà đau khổ thật chẳng khác gì một mảnh đất hoang vu mà hoa đã tàn, cỏ đã héo, sông rạch cũng đã khô khan. Như đôi mắt của Eddy Thall bây giờ, sau bao năm đau khổ. Nàng nghĩ đến một loạt bài đăng ở tờ báo La Pravda với 6 triệu người Do Thái đã bị quốc xã đốt cháy. Nàng vẫn còn là một kẻ được ưu đãi, bởi lẽ nàng còn sống để nhìn ngày chiến thắng. Mắt nàng không còn tinh anh nhưng ít nhất cũng còn nhựa sống. Mười hai triệu con mắt đã bị đốt cháy để vĩnh viễn không thấy ngày chiến thắng. Ngoài mười hai triệu đó ra còn biết bao nhiêu cặp mắt khác nữa, cặp mắt đen Hy Lạp, cặp mắt người Pháp trong sáng, mắt xanh của người Na Uy, Đan Mạch, Hòa Lan, Ý Đại Lợi, bao nhiêu cặp mắt bị tàn phá, đốt cháy để không bao giờ trông thấy ngay chiến thắng. Eddy Thall bỗng thầm cảm ơn số mệnh, bởi vì cho dù nét nhìn đã tàn úa, đôi mắt nàng vẫn còn để nhìn ngày giải phóng.

Nhìn quầng thâm quanh mắt, Eddy Thall bỗng so sánh vòng mắt như hai nấm mồ chôn sâu đôi mắt. Trán nàng cũng đã nhăn nheo, những nếp nhăn sâu như vết dao đâm không hy vọng bóng láng trở lại, những nếp nhăn tràn xuống quanh môi, quanh cằm, quanh cổ nàng.

Eddy Thall ngửng đầu lên. Ngay lúc đó, một tràng ho dài làm khăn tay nàng lấm chấm máu đỏ. Nhưng nàng không còn sợ hãi nữa, bởi bệnh lao còn có thể chữa trị. Điều chính yếu là ngày chiến thắng đã đến. Nàng nghĩ đến những ngọn đồi đầy thông ở Lỗ Ma Ni. Nhưng sự thực bây giờ vẫn qua khung cửa kính, cũng chỉ là hàng rào thép gai với từng đống quặng sắt, người nữ tù vẫn kêu khóc vì bị tên cai ngục đánh đập. Eddy Thall muốn cởi áo nhìn kỹ thân thể mình. Vú nàng đã mềm xèo, xệ xuống như những trái cây đã quá chín trên cành. Xương đòn gánh lòi ra, thân thể nàng móc vào đấy như một chiếc áo treo vào một cái móc quá rộng lớn.

Eddy mặc chiếc áo lính rộng thùng thình, bất giác buồn rầu nhớ lại những áo lụa mềm ngày xưa. Thật nàng không biết nàng bây giờ đang ở đâu.

Ivan đã đem giấy bút vào, Eddy nằm dài lên giường. Ivan đã viết sẵn và đọc cho nàng viết. Eddy chú ý đến câu cuối: «Tôi xin ông chấp thuận cho tôi trở về Lỗ Ma Ni». Nàng đưa tay ký bên dưới: Eddy Thall. Cũng là chữ ký ngày xưa. Chữ ký làm nàng nhớ đến cây bút đã mất ở Kichinev, nhớ đến những đồ vặt vãnh của nàng ngày trước, mỗi thứ hiện ra trong trí nhớ như những thớ thịt của chính nàng. Vào những lúc nguy hiểm, nàng đã để lại hoặc đánh mất hết những đồ vật kỷ niệm, như những con nai bị săn đuổi vừa chạy trốn, vừa để lại những mảnh thịt rải rác đó đây nhưng hệt như những con nai, vì quá sợ hãi và quá lo thoát thân, nàng không hề cảm thấy khổ đau. Nên bây giờ, lúc rảnh rỗi nàng mới có dịp nhớ lại tất cả cùng với những giọt máu từ hai buồng phổi bệnh hoạn của nàng, nhớ đến cả cái kéo cắt móng tay, đến làn lược mạ bạc. Bây giờ cả đến bàn chải đánh răng nàng cũng không còn. Bao nhiêu gian khổ đã qua, nàng đã quên khuấy đi là nàng đã mất mát quá nhiều nhưng bây giờ, lần đầu tiên, nàng mới thấy rõ là nàng không còn gì trong tay nữa cả.

Nàng phải đứng dậy, dựa vào cánh tay của Ivan lần đến bàn giấy để đưa đơn xin hồi hương càng sớm càng tốt.

Ở ngoài lều, hàng trăm người đang sung sướng chờ đợi nạp giấy hồi hương. Phần đông là những người còn trẻ, bởi vì hầm mỏ đã nuốt hết những người già cả và bệnh tật. Eddy Thall vừa húng hắng ho vừa nghĩ thầm: «Mình cũng thế, mình còn khỏe và trẻ nên mới sống sót đến bây giờ. Nàng nắm chặt mảnh giấy trong đó có câu chính nàng viết: «Tôi xin ông chấp thuận cho tôi trở về Lỗ Ma Ni...».

IX

Sau bao nhiêu là chờ đợi, bỗng một hôm người ta nhận được lệnh chỉ cho hồi hương những ai gốc Ba Lan, còn tất cả những đơn xin khác đều bị hủy bỏ, những tù nhân khác phải ở lại Sô Viết.

Lúc đầu, Eddy không muốn tin, dần dần nàng muốn chống đối. Sau cùng, nàng ngã lên giường vừa ho vừa khóc. Hỏi ai bây giờ, hỏi bức tường, hỏi chính nàng, hỏi Ivan?

- Người ta còn giữ tôi lại đây bao lâu nữa?

Ivan căn nhắc từng chữ lúc trả lời cho Eddy:

- Thật may mắn cho cô nếu cô được ở lại đây. Vâng, không có gì nguy hiểm nếu cô được ở lại đây. Ngày mai tôi phải đi xa, đi đến một doanh trại ở Sibérie. Chúng tôi cũng như lính tráng, phải đi bất cứ nơi nào mà người ta thuyên chuyển.

Eddy la to:

- Ông đi đâu thì đi, tôi chỉ muốn biết một điều duy nhất là người ta sẽ giữ tôi lại đây bao lâu nữa.

- Cô nên nhớ là cô đang được ở trong phòng của một người gác dan. Ngày mai sẽ có người khác đến thay tôi. Cô hiểu chưa?

Eddy sợ hãi nhìn hắn. Hắn vẫn nói:

- Có nhiều vấn đề còn quan hệ hơn cả chuyện hồi hương nữa. Người thế tôi sẽ dọn nhà đến đây ngày mai. Rồi cô làm gì nữa đây?

Cầm mũ đứng dậy, Ivan giải thích thêm:

- Nếu cô phải vào làm việc ở hầm mỏ, cô sẽ chết trong vài tuần. Chết, hoàn cảnh cô như thế đó, cô hiểu chưa? Cho nên cô có cần tôi nói với người thế tôi giữ cô ở lại đây hay không?

Những điều hắn vừa nói làm hắn khổ tâm nhưng hắn phải nói:

- Tôi có thể nói với anh ta điều đó, nhưng cô phải thông cảm cho tôi. Anh ấy sẽ ngủ trong phòng, chứ không ngủ ở bàn giấy để nhường chỗ cho cô như tôi đâu. Nào nói đi, cô muốn làm gì đây?

Eddy Thall đứng dậy. Nàng hết cả chóng mặt, hết cả mệt mỏi, hết cả nóng sốt. Nàng vội vã mặc áo quần. Ivan hỏi tiếp:

- Sao, cô quyết định thế nào?

Nhưng Eddy không trả lời, nàng tiếp tục mặc áo quần vội vã như là nhà sắp cháy.

- Cô muốn ở với anh ta hay vào hầm mỏ, chọn lựa đi chứ!

Eddy đến trước mặt Ivan, mím môi, mặt đanh lại và thản nhiên trả lời:

- Tôi muốn chết.

Sau đó, nàng chạy trốn khỏi căn phòng, bỏ đằng sau lưng Ivan, bỏ đằng sau lưng nàng những bức tường có treo những tấm hình cắt trên báo, chiếc giường nằm, bỏ luôn câu nói sau cùng của nàng: «Tôi muốn chết».

X

Eddy Thall cắm đầu chạy giữa những cột dăng dây thép gai, trong gió lạnh như cắt. Tay ôm ngực, nàng chạy mải miết không còn suy nghĩ gì nữa cả, đề cuối cùng ngã lăn trên đống than giá lạnh trong cơn họ không dứt.

Có người đến gọi tên nàng và mang nàng đi:

- Tại sao cô khóc.

Eddy tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường trong một căn lều xa lạ, bên cạnh là hai tù nhân, một Bác sĩ và một sỉ quan tiếp liệu.

- Tại sao cô khóc?

- Tại vì tôi là người Do Thái.

- Thì chúng tôi cũng Do Thái vậy.

- Nhưng tại sao người ta lại gởi tôi vào hầm mỏ sau ngày chiến thắng? Hàng triệu người chết để làm gì nếu kẻ nô lệ không được giải phóng sau ngày chiến thắng. Tại sao Churchill uống rượu tươi cười trước các nhà nhiếp ảnh?

Viên y sĩ an ủi:

- Cô hãy bình tĩnh, chúng ta sẽ được giải thoát.

Eddy Thall vẫn hằn học:

- Người ta không thể trả tự do cho những xác chết.

- Tôi sẽ chích cho cô một liều thuốc, cô sẽ bình tĩnh lại ngay.

Nghe viên y sĩ nói thế, đề nghị của Ivan để nàng sẽ trở thành người tình của tên gác dan bèn hiện về trong trí óc nàng. Trong một thoáng nàng ôm đầu chạy ra cửa, vừa hằn học vừa trả lời viên y sĩ:

- Tôi không muốn chích vì tôi không muốn bị chà đạp, bị đánh đập, bị nhục nhã. Tại sao lại chích thuốc cho tôi mới được chứ. Tôi không muốn bị ô uế. Mà chích làm gì?

Nhưng nàng chưa chạy đến cửa thì đã ngã xuống với một cơn ho dài, miệng đầy máu. Sự ấm áp độc nhất nàng cảm thấy lúc đó là sự ấm áp của chính những giọt máu trong cơ thể nàng.

Viên y sĩ chích thuốc xong, nàng mở mắt đứng dậy. Lúc đó nàng mới nhận chân được rằng ngoài chính máu huyết của nàng còn có một sự ấm áp khác trong cuộc đời nô lệ của nàng, đó là máu của đồng bào nàng. Viên y sĩ lên tiếng:

- Chúng tôi có một tổ chức chuyên lo cứu giúp đồng bào Do Thái ở các xứ khác. Chỉ có những người Do Thái gốc Ba Lan là có thể trở về cố hương bằng chuyến công voa sắp đến. Chúng tôi có thể mang các bà vợ chúng tôi đi theo. Vậy cô có muốn giả vờ kết hôn với người Do Thái Ba Lan để có thể chính thức từ giã nơi đây không?

Eddy tròn xoe mắt ngạc nhiên, trong lúc viên y sĩ giải thích tiếp:

- Hàng trăm người đàn bà Do Thái gốc Lỗ Ma Ni, Hung Gia Lợi, Bỉ, của mọi quốc tịch khác nhau có thể rời bỏ nơi đây bằng cách đó. Bạn tôi là Isaac Salomon đang còn độc thân. Cô có thể giả kết hôn với anh ấy để ra đi. Nào, cô có bằng lòng không?

Eddy Thall ngạc nhiên:

- Xin ông làm ơn lập lại câu hỏi?

- Chỉ là một thủ tục giản dị để từ bỏ nơi đây. Mỗi người Do Thái Ba Lan có thể mang theo một người vợ đang ở trong hầm mỏ.

Eddy lại khóc.

- Tại sao cô còn khóc?

- Từ lâu không ai hỏi tôi rằng tôi có bằng lòng không. Đây là lần đầu tiên, từ bao năm nay, tôi nghe được câu hỏi đó. Mọi người buộc tôi làm mà không hề hỏi ý kiến tôi bao giờ. Không bao giờ người ta hỏi xem một tên nô lệ thử nó có bằng lòng hay không. Cho nên nếu còn ai đặt cho tôi câu hỏi đó, nghĩa là tôi không còn là kẻ nô lệ nữa. Vâng, tôi bằng lòng, bằng lòng, bằng lòng.

Đánh máy: Nguyễn Đ Thanh & Ct.Ly
Nguồn: Nhà xuất bản Lá Bối ngày 7- 10- 1968
casau - VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 10 năm 2014