← Quay lại trang sách

III & IV

dịch giả: hằng hà sa và bích ty

III & IV

au khi Doina Australie chết, Pillat và Marie bí mật trốn qua Pháp. Người Pháp không bắt bớ những người tị nạn, nên cảnh sát Pháp đã cho họ giấy phép tạm cư một tháng. Họ nghĩ là từ Pháp họ sẽ dễ dàng di cư sang đất khác; hơn nữa tất cả sứ quán và đại diện các quốc gia bên kia bờ Đại Tây Dương đều có ở Pháp. Ở đây không có ủy ban buôn bán người như ở Đức. Marie hy vọng là sẽ di cư sang Gia Nã Đại để tìm gặp Kostaky.

Hai vợ chồng thuê một căn buồng gần đại học Sorbonne, trong khách sạn của ông Dupont, khách sạn này dành cho sinh viên, vợ ông chủ cũng giúp đỡ trong việc quét dọn phòng ngủ; ông bà có hai đứa con gái.

Pillat và Marie trả tiền phòng và tiền ăn nhờ các cơ quan từ thiện tương trợ. Ở Ba Lê có đến hàng ngàn người tị nạn, các cơ quan từ thiện thường giúp đỡ họ bằng cách biếu phiếu thực phẩm, vài trăm francs hay là cho quần áo. Lúc nào không đi đến các cơ quan từ thiện thì Pillat lại đến các sứ quán để lo về chuyện di cư, vì hai vợ chồng đã xin tất cả các quốc gia nào còn nhận người di cư chấp nhận họ, và đang chờ trả lời. Trong lúc chờ đợi, họ viết thư cho các bạn bè đã di cư được ra xứ ngoài để hỏi han về cuộc sống ở đó. Varlaam trả lời là anh đã được bốn huy chương ở Israel. Ante Petrovici đã trở thành nhà đại sản xuất đồng hồ ở Argentine. Daniel Motok viết một bức thư thật dài:

«Tôi biết là ông bà đang muốn di cư sang Venezuela, ở đây tôi đang ở trong một thiên đàng của rắn độc. Nếu ông bà chính thức sang đây thì có lẽ sẽ được may mắn hơn. Tôi thì phải trốn qua đây thôi. Như ông bà biết chuyến đi của tôi ở Đức bằng cách tự nằm nhốt trong một kiện hàng. Mới đầu, tôi đã bị nghẹt thở vì chính hơi nóng của thân thể mình. Chóng mặt đến muốn chết được. Thật là phải cầu trời xin đừng bao giờ cho con người đau khổ đến như thế. Tôi đã đau khổ quá nhiều. Trên cùng chuyến phi cơ có hai người khách danh dự, chắc ông bà có nghe báo chí nói đến: đó là hai phi công Nga Anatole Barsov và Igor Poltarev. Người Mỹ cho họ ăn uống đầy đủ trong suốt cuộc hành trình, phỏng vấn, chụp hình. Người Mỹ muốn biến họ thành những người khổ nhục vì Sô Viết, nhưng những người chịu khổ nhục thực sự thì người Mỹ lại không hề biết đến. Ở trong kiện hàng tôi tưởng mình sẽ ngủ luôn một đời. Nhưng lúc tôi tỉnh dậy và đẩy nắp kiện hàng lên thì thấy mình đang ở trong một nhà kho hàng của một phi cảng Hoa Kỳ còn xa thành phố.

Vừa choáng váng, vừa đói, vừa khát, tôi như kiệt lực đi nhưng cũng cố lê chân về phía nam. Đang đêm, tôi biết là tôi, Motok, đang ở trên đất Hoa Kỳ một cách bất hợp pháp nhưng tôi không hề sợ hãi.

Tôi chỉ biết có một điều: tôi là một con người và lúc tôi là một con người thì không có gì là bất hợp pháp khi tôi đặt chân lên một con đường, ngắm sao trên trời và thở không khí của trời đất.

Tôi, Daniel Motok, đêm đó, đã tự thấy mình vẫn hợp pháp. Tôi đi kiếm việc làm nuôi thân như là một điều đương nhiên. Đêm đó nếu ai có bảo là tôi đang đi một cách bất hợp pháp trên mảnh đất nầy chắc là tôi chết được. Tôi cảm thấy là ai cũng có quyền tranh đấu cho sự sống còn của đời mình. Điều đó hợp pháp. Chỉ cấm không cho con người sống nữa, điều đó mới là bất hợp pháp.

Cứ như thế, tôi đi về phía Nam. Ban ngày ngủ giữa đồng. Ban đêm tôi đi bằng cách quá giang, đi bộ, đi tàu lửa, lúc nào cũng trốn tránh bí mật. Tôi vượt qua hai biên giới mà không bị bắt giữ. Khi bị bắt thì đã biết mình đang ở trên đất Venezuela. Người ta chỉ hỏi là tôi có cần làm việc không, chứ không hỏi giấy tờ.

Venezuela đang kiến thiết một con đường cắt ngang dãy núi của một khu rừng đầy rắn của vùng nhiệt đới. Thợ thuyền đều là người da đen vượt ngục. Tôi là người da trắng duy nhất. Họ tưởng tôi cũng là một tên tội phạm. Nên họ không cần hỏi giấy tờ tôi, cũng không cần hỏi tôi ở đâu đến. Thế là tôi được ra làm ở công trường.

Thật chưa sách vở nào viết về một vùng như thế lại có được trên quả đất. Mặt trời làm thân thể chảy nước ra được và cứ mỗi bước lại gặp một con rắn. Tôi sống sót, nên được làm trưởng toán. Tôi thay thế một kỹ sư, rồi hai, rồi dần dần tôi thay luôn nhiều kỹ sư vì họ không muốn ngày ngày bước chân đến vùng đó. Tôi lãnh một nửa lương của họ để thay họ sống với cái địa ngục nhiệt đới toàn là rắn và rắn. Tôi làm giàu nhanh chóng, có cả một va li toàn ngân phiếu, nhưng tôi cũng bị nhiều khổ tâm vì nóng và rắn. Sợ hãi đến tột cùng. Nhưng còn bị dày vò vì một nỗi khổ khác nữa đó là sự khao khát đàn bà. Từ lúc đến đây, tôi chưa hề thấy người đàn bà nào cả, dù là thấy ảnh mà thôi. Sau là tôi sợ người da đen. Người da đen căm thù người da trắng đến độ có thể giết chết được. Họ không dám bắn người da trắng trừ trường hợp người nầy say rượu. Mỗi đêm, hàng trăm người mọi da đen dưới quyền điều khiển của tôi lảng vảng quanh lều tôi để xem thử tôi có uống whisky hay không. Chỉ cần tôi nhắp một chén rượu là tôi sẽ bị giết ngay, lũ mọi sẽ vồ lên thân xác tôi xé tôi ra thành từng mảnh. Cho nên tôi không hề đụng đến rượu, nhưng càng kiêng cử tôi càng thèm khát. Trong một năm, hợp đồng sẽ mãn hạn. Nếu trong năm nay tôi không chết khát, chết nắng, chết vì rắn rết, vì mọi da đen thì tôi sẽ trở về thế giới loài người. Tôi sẽ trở thành giàu có trên đời, và sẽ kiếm ông bà nếu ông bà còn sống sót trên lục địa nầy. Nhưng một năm dài quá, gần như là bất tận đối với tôi nhất là tôi sống với toàn là kẻ thù với ánh nắng mặt trời luôn thiêu đốt tôi, với lũ rắn độc và lũ mọi hung dữ. Nên ông bà hãy nghĩ đến tôi vào giờ cầu nguyện vì không có sự giúp đỡ của trời không ai có thể chống cứ để sống sót ở một nơi đầy hiểm nghèo như thế nầy. Hoàn cảnh tôi như thế đó. Tuy nhiên, tôi có thể nói là cho đến bây giờ, tôi hoàn toàn may mắn đã đến đây. Như tất cả sự may mắn dành cho một kẻ bị lưu đày, sự may mắn của tôi chỉ là một vận hội thứ hai, thứ vận hội giống như chiếc áo mưa rẻ gặp dịp, thứ vận hội vay mượn tạm bợ.»

Pillat đọc thư Motok hết sức cảm động. Chàng bảo vợ:

- Chắc vợ chồng mình không đến nổi nào, chúng mình sẽ di cư đàng hoàng, chính thức. Di cư như thế đỡ hơn nhiều chứ.

Thế là Pillat được phép di cư sang Venezuela, chỉ còn đợi tàu nữa thôi. Việc kiếm ăn hàng ngày thật khó khăn và chật vật, nhưng hy vọng sẽ được có việc làm nay mai làm cho hai vợ chồng thêm can đảm. Họ chờ đợi ở khách sạn Dupont.

Một buổi sáng, có tiếng gõ cửa thật gấp trước phòng họ. Có cảnh sát đến. Hai vợ chồng có phép cư ngụ đến một tháng và họ chỉ ở Ba Lê mới có ba tuần và chưa làm điều gì bậy bạ. Tuy thế Pillat vẫn run sợ. Hai người cảnh sát bận đồng phục bước vào hỏi giấy tờ vợ chồng Pillat. Pillat tìm giấy tờ cư ngụ, một tờ giấy mỏng tanh như giấy hút thuốc, đưa cho cảnh sát.

- Ông bà không còn giấy tờ gì khác sao?

- Không, chúng tôi chỉ có giấy tờ bằng tiếng Lỗ thôi.

Marie còn đang bận mặc áo lại dưới tấm mền. Cửa mở toang hoang, bốn người cảnh sát quan sát mọi cử chỉ của hai vợ chồng.

- Ông bà có giấy tờ gì khác bằng tiếng Pháp?

- Thưa không.

Pillat trả lời thế và mặc vội chiếc áo, Marie ôm đầu thầm cầu nguyện «Lạy trời đừng để họ bắt chúng con, hãy tha cho chúng còn chuyện bắt bớ».

Cảnh sát ra lệnh:

- Mặc áo quần và đi xuống.

Pillat thắt cà vạt, hỏi:

- Chúng tôi bị bắt giữ sao?

- Vâng, ông bà mặc áo quần nhanh lên.

- Các ông có giữ chúng tôi lâu chăng? Chúng tôi có cần mang gì theo chăng? Mà tại sao lại bắt chúng tôi?

Viên cảnh sát thản nhiên châm điếu thuốc lá, dựa lưng vào tường. Pillat hỏi lại:

- Chúng tôi đã làm điều gì đến nỗi bị bắt? Giấy phép cư ngụ chúng tôi không hợp lệ chăng?

- Xuống đi.

Ra lệnh xong, viên cảnh sát khóa cửa phòng trả chìa khóa cho ông Dupont.

Con gái bà Dupont đã thức giấc, nhìn Marie và Pillat bị còng tay đi giữa hai người cảnh sát. Ông Dupont không nói gì, chỉ cầm chiếc chìa khóa và nhìn Marie, Pillat ra chiều khinh bỉ. Đó là sự khinh bỉ của người đang có tự do đối với người bị bắt. Ông ta cho rằng mình không bao giờ bị bắt, và con cái ông ta cũng thế. Điều đó chỉ xảy ra cho những người ngoại quốc mà thôi. Pillat hỏi lại một lần nữa:

- Chúng tôi đã làm gì? Tại sao bắt giữ chúng tôi?

Cảnh sát vẫn không trả lời. Họ dẫn Marie và Pillat đến tòa thị chính leo lên tầng thứ năm. Lúc đó đã sáu giờ sáng. Họ nhốt hai người trong một căn phòng. Pillat vẫn tự vấn xem mình đã phạm tội gì. Giấy cư ngụ thế là đã bị thu hồi. Lúc 11 giờ, họ được mời vào văn phòng một viên thanh tra khá dễ thương. Ông nầy cho biết:

- Nếu ông bà tái phạm, sẽ bị đuổi ra khỏi xứ nầy ngay.

Marie khóc. Pillat thanh minh:

- Chúng tôi đã được chấp thuận di cư sang Venezuela. Chúng tôi sẽ đi trong vòng vài ngày nữa bao giờ có tàu đến. Chúng tôi không có tội gì, tại sao các ông bắt giữ chúng tôi?

Marie chăm chú nhìn các ngón tay dính đầy mực đen sau khi được sở cảnh sát lấy dấu tay. Đúng là những vết đen ô nhục. Nàng chùi các ngón tay và bật khóc. Những dấu mực đã thấm vào da, đã bám vào thịt, nàng có chùi cũng vô ích, đen vẫn hoàn đen.

Viên thanh tra nói:

- Đáng lý tôi đưa ông bà xuống trại tạm giam.

Marie trố mắt nhìn.

- Bà không biết trại giam là gì à? Đó là một nhà tù, vâng đáng lý tôi đưa ông bà vào tù, nhưng vì đây là lần đầu, tôi tha cho. Ông bà chỉ bị phạt vạ mà thôi.

Marie hỏi:

- Nhưng chúng tôi phạm tội gì mới được chứ?

Trong lúc Pillat cứ nghĩ là nếu mình không có tiền để đóng phạt thì tội phạt vạ sẽ biến thành tội tù ở.

- Ông bà không khai báo chỗ ở cho sở cảnh sát.

Chúng tôi chỉ ở có một ngày hồi mới đến Ba Lê ở khách sạn «Con mèo câu cá», sau đó chúng tôi dời đến khách sạn của ông Dupont trên cùng con đường, chỉ cách đó hai nhà mà thôi, vì rẻ hơn. Và ở đây cho đến bây giờ.

- Như thế ông đã vi phạm nghị định 31-12-1947 về chuyện khai báo chỗ ở của ngọai kiều. Ông là người ngoại quốc trên đất Pháp, mọi sự thay đổi chỗ ở dù chỉ là từ nhà này sang nhà bên cạnh đều phải khai báo cho sở cảnh sát. Cảnh sát Pháp để cho các ông tự do và không hề kiếm chuyện như cảnh sát các nước khác, nhưng họ vẫn phải theo dõi các ông chứ. Dĩ nhiên như thế. Ông thuộc thành phần mà cảnh sát theo dõi ngày đêm. Mọi người ngoại quốc ở Paris đều phải bị như thế cả. Làm sao mà theo dõi ông được, nếu ông đổi nhà mà không khai báo.

Marie vẫn cố chùi sạch các ngón tay. Pillat vẫn nhìn viên thanh tra. Ông này ra lịnh:

- Ông bà có thể ra về. Nhưng đừng quên là mỗi lần thay đổi địa chỉ phải khai báo đấy.

Pillat cảm ơn ông ta đã không tống giám hai vợ chồng, rồi vội vã dẫn vợ về khách sạn tắm rửa. Mùi của hành lang quận cảnh sát đã dính vào áo quần họ. Ông Dupont hỏi:

- Thế là ông bà may mắn đấy. Chỉ có ở Pháp, cảnh sát mới tử tế với người ngoại quốc như thế thôi.

Marie dấu các ngón tay đi nhưng hình như con ông Dupont đang tò mò nhìn. Con gái ông ta thì không bao giờ bị bắt nên dỉ nhiên ngón tay lúc nào cũng trắng trẻo và sạch sẽ vì không bao giờ ngón tay họ bị nhúng vào mực tàu. Trong tận đáy lòng, Marie tủi hổ về các ngón tay dơ bẩn của mình. Nàng thèm khát các ngón tay sạch sẽ của các con gái con của ông Dupont mà từ nay nàng không bao giờ có được nữa, nàng vừa từ sở cảnh sát về, nàng vừa bị bắt, nghĩ thế mà nàng bật khóc.

Bỗng ông Dupont cằn nhằn:

- Tôi đã cấm bà bao nhiêu lần là không được nấu ăn trong phòng, bà làm dơ hết tường và nền nhà.

Và Pillat không còn thấy chìa khóa phòng ở chỗ hộc cũ nữa.

Đồ đạc đổ la liệt ở văn phòng khách sạn, cái trên bàn, cái trên đất kể cả quần áo dơ bẩn, nồi nấu bằng cồn, và vài củ khoai tây. Ông Dupont đã dọn hết đồ đạc trong phòng họ ra ngoài, và để các đồ vật tang chứng lên trên cùng: khoai tây, bánh mì, lạng mỡ, rồi bảo:

- Tôi thấy cả khoai tây, cả nồi cồn, cả son chảo, nghĩa là bà đã làm bếp trong phòng mặc dầu tôi đã triệt để ngăn cấm. Tôi không thể chấp chứa ông bà trong khách sạn tôi nữa. Tìm chỗ khác mà ở.

- Ông Dupont, Pillat năn nỉ, ông Dupont...

- Lần cảnh cáo chót, ông bà lên tầng sáu mà ở và hứa với tôi là không được nấu ăn trong phòng nữa.

Pillat, Marie thu dọn đồ đạc và bước lên từng thứ sáu. Để chứng tỏ là họ không làm bếp nữa, Pillat để lại mấy củ khoai dưới đất. Ông Dupont lượm vứt vào thùng rác ra vẻ khinh bỉ.

Con gái ông Dupont nhìn Pillat bước lên các bực cầu thang như thể là chàng đang bước lên đoạn đầu đài. Marie vẫn còn khóc.

Vào phòng nàng rửa tay ngay, cố chùi các ngón tay thật mạnh nhưng những vết mực đèn vẫn còn, không thể nào nàng chùi sạch được.

Một tuần nữa đã đến lễ Phục sinh. Pillat bảo:

- Hôm nay là ngày đầu của tuần Thánh lễ.

Hai vợ chồng đều nghĩ về xứ Lỗ ma ni thân yêu của mình.

IV

Một tuần lễ trước ngày lễ Phục sinh, các hội từ thiện làm việc gắt gao hơn thường lệ. Pillat nhận được tiền giúp đỡ của hội Tin Lành Hoa Kỳ. Chàng trả tiền phòng cho ông Dupont. Hai vợ chồng muốn thực hiện giấc mơ của mình. Sửa soạn một bữa tiệc cho ngày lễ Phục sinh. Suốt thời gian lang thang lưu đày, họ chưa bao giờ nghĩ rằng có ngày họ sẽ ăn được một bữa thịt ngỗng rô ti. Bây giờ, trả tiền phòng xong, họ vẫn còn thừa tiền để thực hiện cái mơ ước của những ngày đói khổ, của những đêm dài nằm mơ mấy củ khoai tây, một khúc bánh mì bơ mà thực tế họ chỉ uống nước để cho dịu cơn đói mà thôi.

Ngày thứ sáu thánh họ mua nửa con ngỗng và khoai tây, như thế là họ có cảm tưởng tiêu phí hết cả gia tài, nhưng biết là sắp đi Venezuela nên họ tự cho phép một lần tiêu sang. Vào ngày lễ đó, Pillat nhịn đói hoàn toàn, không ăn bánh, không uống nước. Chàng thành tâm cầu nguyện Chúa Trời giúp đỡ cho vợ chồng mình được di cư sang Venezuela để có thể tái tạo một cuộc đời mới. Họ cầu nguyện cho linh hồn đứa con Doina Australie được yên ổn mà nắm mồ đang ở trên mảnh đất buồn tẻ của Đức Quốc. Họ cầu nguyện cho Ion Kostaky đang ở bên kia bờ Thái Bình Dương, cho Ileana có lẽ bây giờ đang ở trong ngục tối, và sau cùng cho hàng triệu người bạc phước đang lang thang sau ngày chiến thắng không nhà không cửa trên trái đất hãy còn khốn đốn trong cảnh tù đày. Họ còn nghĩ đến Eddy Thall, đến Motok đang sống trong địa ngục của rắn rết, họ cầu nguyện cho Ante Petrovici mà dù giàu có trên xứ Argentine vẫn chưa biết có thể bị bắt giữ lúc nào vì còn thiếu vài ly mét ở chân phải, họ cũng không quên Varlaam đang chiến đấu cho xứ Do Thái.

Đêm về thật yên tĩnh. Hình như thời gian trôi qua không đúng như chiếc đồng hồ treo trên tháp trước khách sạn, hay như những chiếc đồng hồ các cô gái con ông Dupont đang đeo trên tay, cũng không đúng như đồng hồ của Cảnh Sát và Quân Đội. Đó là một thứ thời gian của vũ trụ vĩnh cửu, chiếc đồng hồ không hề đo thời gian bằng giây, bằng phút.

Ở đâu đây, lùi xa vào dĩ vãng, thi hài đấng Jésus Christ đang được đặt vào trong mộ. Người ta cảm thấy được nỗi rã rời của hàng trăm triệu người đang bị đóng mình vào thập tự giá trên khắp hoàn cầu, lìa đời vì những quyết định trên các hiệp ước nghị hòa như là chiếc đinh đóng sâu vào da thịt họ và đang chờ ngày bước xuống khỏi thập tự giá của cảnh lưu đầy để được chôn vùi trên mảnh đất quê hương.

Đêm về Pillat nhen bếp cồn và bắt đầu nấu ăn. Món thịt ngỗng đang ở trên soong, họ lại đang đói nhưng họ vẫn muốn nhịn ăn cho đến ngày lễ Phục sinh. Marie nằm gối đầu lên vai Pillat. Cả hai không nói năng gì. Trong nhà không còn thứ ánh sáng nào ngoài ngọn lửa xanh leo lét của cây đèn cồn.

Cửa sổ mở. Hai vợ chồng mơ ước trong yên lặng. Marie ngủ yên, Pillat tắt đèn, nằm xuống ôm vợ trong tay. Họ ngủ bên nhau như thế trong ý hướng về xứ Venezuela, về Jésus và về sự phục sinh của Ngài. Đó là một đêm tinh khiết nhất của đời họ, nên Pillat tuy ngủ mà nụ cười vẫn có trên môi. Nhưng khi thức giấc, đầu chưa rời khỏi gối, họ đã nghe thấy tiếng đập cửa lúc trời hừng sáng. Đã có tiếng gọi:

- Mở cửa mau, có cảnh sát đến.

Lệnh gọi được lập đi lập lại nhiều lần. Pillat nghĩ bụng:

Giấy cư ngụ của mình còn hợp lệ, sao cảnh sát còn trở lại. Mình làm điều gì phi pháp đến nỗi họ trở lui chăng?

Marie nhảy xuống giường, muốn mặc lại áo trong bóng tối nhưng không tìm thấy áo ở đâu cả.

- Mở cửa mau, có cảnh sát đến.

Nhiều bước chân dồn dập trên hành lang. Marie muốn dấu cái soong và bếp cồn. Pillat thắp đèn. Marie bảo:

- Khoan mở cửa, chờ em một chút đã.

Nàng tìm áo, nhưng không thấy. Chưa bao giờ nàng tuyệt vọng và kinh hoàng đến thế, ngay cả lúc người Nga đến, ngay cả lúc trốn vào rừng hay băng qua biên giới, chưa bao giờ nàng sợ hãi đến thế.

- Cảnh sát đây mở cửa mau.

Marie lo sợ:

- Họ đến bắt chúng mình đấy. Em không muốn bị bắt, không.

Nàng bám vào cánh tay Pillat. Chàng nói:

- Anh phải mở cửa. Em cứ mặc áo đi, bình tĩnh, thế nào anh cũng mở cửa cho họ vào.

- Mở cửa mau. Cảnh sát An ninh đến xét đây.

Marie tiến đến cửa sổ, hai tay che mắt. Thân nàng run lên như cánh cửa lớn bị cảnh sát gõ mạnh. Nàng có cảm tưởng cái nắm tay đập cửa đó đang đập lên chính thân thể mình, lên trán, lên ngực, lên đầu. Tất cả xảy ra nhanh đến chóng mặt. Marie không còn chịu đựng được nữa. Rồi thân thể nàng vắt qua cửa sổ, như là một cây bạch lạp cong lại trong ngày lễ Phuc sinh lúc trời quá nóng trong nhà thờ.

Nàng phóng người ra thật giản dị, run lên, tan vào khoảng không. Marie chưa bao giờ làm việc gì rắc rối trong đời.

Nàng không còn chống cự được nữa. Nàng để cho thân thể nàng mềm ra như là một cây bạch lạp đang tan dần, thân nàng rơi xuống mềm nhũn từ cửa sổ từng thứ sáu xuống đường. Mọi sự xảy ra giản dị, chỉ có thế thôi.

Lúc Pillat quay đầu lại, thì Marie không còn trong phòng nữa. Chàng chạy đến cửa sổ. Chàng chỉ quay lưng lại Marie có một chốc, một chốc thật ngắn để mở cửa cho cảnh sát vào, rồi chàng nghe một tiếng động, mơ hồ, xa xôi ở dưới đường, rồi chàng nhìn xuống. Trước khách sạn, đã có ngọn đèn hơi cháy sáng, chàng thấy vệ đường và thân thể Marie nát nhàu, bất động như một vết mực trên nhựa đường. Người qua đường bu quanh.

Hai người cảnh sát và một người mặc thường phục bước vào phòng. Pillat vẫn còn nhoài mình ra cửa sổ. Một người lên tiếng nghi ngờ:

- Có gì xảy ra ở đây?

Cảnh sát tiến đến cửa sổ, nhìn xuống đường và cùng hỏi: «Có gì đang xảy ra?».

Trước thân thể sóng soải của Marie dưới đường và đám đông đang bu quanh, một người cảnh sát nắm lấy Pillat lôi ra ngoài phòng, chàng nghiến răng và không còn suy nghĩ gì nữa cả. Chàng chỉ muốn nghiến răng đến nát mà thôi. Cảnh sát hỏi:

- Ai đó? Có phải từ đây bà ta nhảy xuống lầu phải không? Trả lời mau.

Cửa phòng vẫn mở. Người trong khách sạn đã đứng đầy hành lang, bước chân người dồn dập. Pillat muốn ra khỏi phòng xuống lầu.

- Đứng yên. Đi đâu đấy?

Pillat muốn vùng vẫy nhưng bị giữ lại. Chàng biết mọi cố gắng bây giờ đều vô ích. Không còn gì phụ thuộc vào ý chí của chàng nữa, như là từ ngày chàng bị lưu đày, không có gì tùy thuộc vào ý chí của chàng cả. Chàng đã bị cầm tù một lần nữa.

- Tên ông là gì?

- Pillat.

Trước mặt chàng là thân thể nát nhàu của Marie đang nằm sóng soải trên vệ đường. Ngoài ra chàng không còn thấy gì nữa cả.

- Căn cước đâu?

Như trong mơ, chàng lục túi tìm giấy tờ. Cảnh sát vẫn theo dõi từng cử chỉ chàng. Người kia đóng cửa sổ và cầm giấy tờ, giấy mỏng như một tấm giấy hút thuốc. Đó là giấy phép cư ngụ ở Pháp nhưng không phải của Pillat mà là của Marie. Giấy của chàng ở phía sau. Ngạc nhiên cảnh sát hỏi:

- Bà ở dưới kia là Marie Pillat?

- Đúng là vợ tôi đấy.

Chàng cắn môi đến chảy máu. Cố nhịn khóc nhưng sự đau đớn cực độ đã làm chàng bật khóc.

Mấy người cảnh sát đọc giấy phép cư ngụ và cùng nhìn nhau thất vọng; người mặc thường phục quay về phía Pillat:

- Không phải hắn. Anh ở phòng số mấy?

- 604.

Dưới đường, vẫn có tiếng la hét, tiếng máy xe nổ. Hành lang trước phòng vẫn đầy người và cánh cửa lớn vẫn để mở. Cảnh sát nói:

- Tên Hy lạp mà chúng mình kiếm ở phòng 504. Chúng mình bị nhầm từng lầu.

- Vâng bị nhầm lầu.

Pillat muốn ra ngoài, nhưng bị giữ lại. Chắc lại bị cầm tù rồi đấy. Cảnh sát hỏi:

- Vợ ông?

- Vâng, vợ tôi.

- Tại sao bà tự tử?

Pillat không trả lời. «Tại sao bà làm thế?» Cảnh sát hỏi có vẻ với giọng nghiêm khắc, kết tội. Hắn muốn xử tội và lập lại câu hỏi:

- Tại sao bà tự tử? Ông bà cãi cọ nhau?

- Không, chúng tôi không hề cãi nhau.

- Thế tại sao bà nhảy xuống lầu tự tử? Trả lời ngay.

Pillat nắm tay, nghiến răng. Thịt trên thân chàng co rút lại. Tim chàng co rút lại.

- Có gì đã xảy ra?

- Chỉ vì sự nhầm lẫn của các ông đó.

Pillat trả lời như thế và cắn môi đến chảy máu. Chàng lẩm bẩm, nhầm lầu, nhầm lầu.

Chàng đá chiếc soong. Mở văng trên nền nhà thành một vũng và không bao giờ chùi sạch được, không bao giờ cả.

- Chúng tôi phải giữ ông để lập biên bản.

Chàng bị đẩy ra khỏi phòng. Trước khách sạn đã có xe hồng thập tự. Thân thể Marie nằm trên vệ đường. Pillat nhảy bổ đến bên vợ.

Nhưng chung quanh Marie đã có hàng rào cảnh sát với những áo quàng đen như những cánh quạ. Cảnh sát đến thật đông, bên xác Marie, người nào cũng mang áo choàng đen, như những cánh quạ mở rộng, như những loài chim báo hiệu tử thần.

Xác Marie được mang lên xe, xa dần. Sau xe là hàng xe cảnh sát nối đuôi, với áo choàng đen như một bầy quạ vừa ngửi thấy máu người. Họ đi theo xe và biến mất lúc đến góc đường. Ai cũng buồn vì chuyện vừa xảy ra, ai cũng cảm động. Người Pháp thường cảm động như thế khi một việc bất hạnh xảy ra cho một người đàn bà con trẻ.

Trước cửa khách sạn Dupont, còn một vết máu lớn. Hai con mèo đến lảng vảng bên vũng máu muốn liếm. Các cô con gái ông Dupont hoảng sợ gọi mèo vào nhà, và đổ sửa cho mèo khỏi phải đi liếm máu người đàn bà đã chết. Bà Dupont mang một thau nước đến lau sạch vết máu để cho mèo đừng ngửi thấy mùi nữa. Ông Dupont bảo:

- Bà lau sách là phải lắm.

Và ông ta nghĩ: «Người ngoại quốc chỉ làm mình thêm rắc rối. Vâng, nếu mình bị bực bội cũng chỉ tại họ, chỉ tại lầm lỗi của họ mà thôi».

Đánh máy: Nguyễn Đ Thanh & Ct.Ly
Nguồn: Nhà xuất bản Lá Bối ngày 7- 10- 1968
casau - VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 10 năm 2014