← Quay lại trang sách

Chương 360 - Hai Đồng

“Cha, người dạy chúng con cách làm tướng, sao lại dẫn ra đồng?” Bên ngoài thành Trường An, tại mấy mẫu ruộng mà Lữ Bố đặc biệt để lại, Lữ Linh Khởi ngồi thẳng dậy, vươn vai mệt mỏi, nhìn cha mình đang ngả lưng trên ghế mộc bên bờ ruộng với vẻ bất mãn. Hoa An và Điển Mãn tuy không dám nói gì trước cách hành xử có phần “ngược đãi” của Lữ Bố, bắt trẻ con làm việc mà không trả công, nhưng Lữ Linh Khởi thì chẳng bận tâm đến điều đó. Nàng chạy thẳng tới, lay gọi cha dậy.

“Đây chẳng phải là dạy hay sao?” Lữ Bố chỉ vào mảnh ruộng, nhìn con gái đáp.

“Đây rõ ràng là làm nông.” Lữ Linh Khởi không hài lòng.

“Vậy con nói thử xem, thế nào là đạo làm tướng?” Lữ Bố ngồi dậy, mỉm cười hỏi con gái.

“Đạo làm tướng là phải khoác giáp cầm thương, thân chinh nơi chiến trận, không màng hiểm nguy, thưởng phạt phân minh, để binh sĩ đồng tâm, thì mới có thể bách chiến bách thắng, công phá không thành.” Lữ Linh Khởi đáp lại một cách trôi chảy, có vẻ như đã thuộc lòng những lời này.

Con gái không ưa nữ trang, chỉ mê võ trang?

Lữ Bố nhìn con gái với vẻ bất lực, dung mạo nàng dần lộ nét kiên cường, chẳng còn chút nào nét nhõng nhẽo ôm lấy chân cha như xưa. Chờ vài năm nữa chắc phải gả đi thôi, sao chẳng giống mẹ nàng chút nào?

Nhìn thoáng qua Hoa An và Điển Mãn đang chăm chú lắng nghe, Lữ Bố gọi cả hai đến gần. “Lời nói thì ai cũng hiểu, nếu tất cả tướng lĩnh đều như vậy, mà tướng địch cũng vậy, các con nghĩ sẽ làm sao để giành thắng lợi?” Lữ Bố nhìn cả ba đứa trẻ hỏi.

Điển Mãn gãi đầu, quả là một vấn đề khó. Đang suy nghĩ, đột nhiên thấy một luồng sát khí lạnh lẽo bao trùm lên mình, giật mình ngẩng đầu, liền thấy cha đang nhìn mình với ánh mắt sát khí đằng đằng.

Vấn đề đơn giản thế này mà không biết, nói ngay đi, đừng để chủ công mất mặt, không khéo ta đánh cho nhừ tử!

Điển Vi không nói lời nào, nhưng ánh mắt ông đã nói lên tất cả, khiến Điển Mãn toát mồ hôi, vội đáp: “Vậy thì phải tiên phong, cố gắng chém chết tướng địch!”

Điển Vi hài lòng gật đầu.

“Tướng địch có võ nghệ tương đương, không chém nổi.” Lữ Bố liếc Điển Vi rồi nhìn ba đứa trẻ.

“Dùng kế mà phá!” Hoa An mắt sáng lên.

“Đúng.” Lữ Bố gật đầu. “Cụ thể thì phá thế nào?”

“Cái này…” Hoa An gãi đầu, thực ra chỉ là nghe người ta nói vậy thôi, nhưng cụ thể thì không biết.

“Nói đơn giản nhé, có một con đường mà địch tất phải qua, hướng về phía Đông, hai bên một bên là núi, một bên là rừng, các con sẽ bày phục binh thế nào?” Lữ Bố nhặt một cành cây, vạch ra một bản đồ đơn giản trên mặt đất.

Ba đứa trẻ ngẩn người, chẳng phải cứ mai phục trong núi hay trong rừng là được sao?

“Trong núi có chỗ nào từ dưới nhìn lên không thấy? Làm sao để chọn vị trí? Trong rừng thì bố trí thế nào để địch không phát hiện? Nếu đánh bất ngờ thì chọn vị trí nào? Lúc đó thời tiết ra sao?” Lữ Bố lần lượt hỏi.

Cả ba ngơ ngác, Lữ Linh Khởi nhíu mày: “Cha, bản đồ là cha vẽ, thời tiết ra sao chẳng phải cũng do cha nói sao?”

“Ai bảo vậy, ta vừa nói từng chi tiết đều có liên quan tới điều này, thời tiết cũng nằm trong đó.” Lữ Bố gõ nhẹ vào đầu con gái bằng cành cây.

“Phải chăng là vì ‘mây hướng đông’?” Lữ Linh Khởi nhớ lại, hỏi không chắc chắn, vì những điều cha nàng nói chỉ có chi tiết về mây là có vẻ hơi lạ và cũng liên quan đến thiên tượng.

“Đúng vậy, con biết vì sao không?” Lữ Bố hỏi.

Ba người lắc đầu.

“Những người làm ruộng quanh năm sẽ nói với con rằng, ‘mây về Đông, trời sẽ gió mưa; mây về Nam, mưa sẽ kéo dài.’” Nói rồi, Lữ Bố nằm xuống.

“Mấy điều này, sao cha không nói thẳng với chúng con?” Lữ Linh Khởi hỏi.

“Ta đã từng nói, không được nói trong bữa ăn, các con nghe không? Ta bảo phải làm thế nào, các con nghe không?” Lữ Bố nhìn Lữ Linh Khởi, hỏi lại: “Ta sẽ chỉ dạy các con cách nhận biết thời tiết, cách canh tác, sẽ ghi chép ra sách. Nhiệm vụ của các con trong năm nay là chăm sóc sáu mẫu ruộng này, mỗi người hai mẫu, đến mùa thu, nếu hai mẫu đạt sản lượng ba trăm cân lúa, ta sẽ chính thức dạy các con đạo làm tướng!”

“Còn không mau đi!” Điển Vi trừng mắt nhìn Điển Mãn. Đây là Lữ Bố tự mình dạy đấy, tên ngốc này sao còn lề mề. Nếu không phải Lữ Bố ở đây, ông đã muốn đánh cho con một trận rồi.

Ba đứa trẻ nghe lời vội chạy ra đồng làm việc cho xong.

“Chủ công dạy học như thế này quả là hiếm thấy.” Giọng Từ Du từ phía sau vang lên, Lữ Bố thấy ông đến, liền đứng dậy mỉm cười: “Công Đạt hôm nay rảnh rỗi sao?”

“Mùa vụ bận rộn, nha môn lại rảnh, không có việc gì làm, đành đến thăm chủ công, mong được nghe lời chỉ giáo.” Từ Du cười đáp.

Lữ Bố lắc đầu: “Công Đạt là bậc tài cao, nói vậy thật quá khiêm tốn.”

Nói rồi, ánh mắt dừng lại ở mấy cuốn sách trong tay Từ Du, cười hỏi: “Công Đạt cũng ghé qua phố sách?”

“Phải.

” Từ Du gật đầu: “Ta đến gặp chủ công cũng vì chuyện này.”

Kỹ thuật in đã được phát triển ở mức sơ bộ, mực in chưa đạt tiêu chuẩn của Lữ Bố, nhưng tạm thời vẫn có thể dùng được, vì vậy đã bắt đầu lưu hành sách ra ngoài, dù quy mô chưa lớn.

“Có vấn đề gì sao?” Lữ Bố thắc mắc.

Từ Du lắc đầu: “Không có vấn đề gì cả.”

Sách có thể có vấn đề gì, thỉnh thoảng có lỗi chính tả cũng là chuyện bình thường, miễn là đọc hiểu được là được.

“Vậy thì…” Lữ Bố nhìn Từ Du.

“Chủ công, cuốn sách này chỉ có giá hai đồng? Nhưng liệu chi phí làm ra hết bao nhiêu đồng?” Từ Du chỉ vào sách, thắc mắc hỏi.

“Giấy mới của Đức Hành làm ra rẻ hơn giấy của Thái Hầu, một cuốn thế này, không tính công thợ thì mất khoảng mười đồng.” Lữ Bố đáp. Sách này không trang nhã, chỉ đóng sơ sài.

“Vậy mà bên ngoài lại bán chỉ với giá hai đồng!?” Từ Du càng không hiểu. Nói thật, một cuốn sách như vậy, bán trăm đồng, ngàn đồng vẫn có người mua, vậy mà với tính cách của Lữ Bố, lại không tranh thủ kiếm lợi?

“Công Đạt này, ông nghĩ ta làm sách để ai đọc?” Lữ Bố hỏi.

Để ai đọc?

Từ Du giật mình, nhà đại tộc, gia đình giàu có không thiếu sách, tất nhiên chẳng cần mua; còn nhà hào phú nghèo hơn cũng có thể tự sao chép, cũng chẳng nhất thiết phải mua.

Vậy… là để dân chúng đọc?

Từ Du nhìn Lữ Bố, cuối cùng mỉm cười, gật đầu: “Chủ công nhìn xa trông rộng, ta bội phục.”

Nếu là cho dân chúng, đừng nói trăm đồng, ngàn đồng, chỉ mười đồng thôi cũng chẳng ai mua, vậy nên giá phải thật rẻ thì mới khơi dậy sự tò mò của những người mong muốn học.

Chiêu này của Lữ Bố… cao tay.

Từ Du suy nghĩ rồi nói: “Nhưng dân chúng chưa chắc đã muốn đọc.”

Việc đồng áng vốn đã vất vả, dù sách rẻ đi nữa cũng không phải ai cũng muốn học, chẳng có động lực nào thúc đẩy họ.

“Ta tự có cách.” Lữ Bố cười mà không giải thích thêm.

Từ Du nheo mắt, xem ra mấu chốt vẫn nằm ở quyển vô tự thư, đã là Lữ Bố chủ đạo thì quyển vô tự thư không thể chỉ đơn giản là… có lẽ ẩn chứa bí mật nào đó mà ông chưa biết, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng.

Từ Du cất sách đi, vô tình làm rơi quyển vô tự thư.

“Vô tự thư?” Điển Vi tinh mắt, ngạc nhiên nhìn Từ Du nhặt quyển sách, ngỡ ngàng hỏi: “Tiên sinh, ông cũng xem quyển này?”

Qua phản ứng của người bán sách trước đó, Từ Du dù chưa mở ra xem nhưng cũng đoán được nội dung có phần khó nói. Giờ lại bị Điển Vi hỏi, ông cảm thấy có chút lúng túng.

“Thì ra Công Đạt đã xem rồi, thế nào?” Lữ Bố liếc nhìn, cười nói: “Sách này là ta soạn.”

Ta còn chưa xem mà.

Từ Du dở khóc dở cười, nhìn thái độ thoải mái của Lữ Bố, có lẽ ông đã nghĩ quá xa, nhưng sao ánh mắt của Điển Vi lại có vẻ là lạ?

“Con người ấy, nếu thúc ép phải học chữ, sẽ sinh phản cảm. Đừng tưởng dân chúng nghe lời ta, ép họ học đa phần sẽ không muốn, nên mới lấy cách này để khơi gợi sự tò mò, tự nhiên họ sẽ muốn học. Dù gọi là vô tự thư, nhưng thực ra vẫn có chữ, chỉ là không nhiều.” Lữ Bố cười giải thích.

Thì ra là vậy, thật cao minh.

Từ Du gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, không ngần ngại mở sách ra xem. Chỉ vừa lật trang đầu tiên, một bức họa sống động đập vào mắt. Bức tranh có đường nét tinh tế, tuy phác họa trang phục buông lơi nhưng lại rất chừng mực, toát lên một vẻ quyến rũ mà kín đáo, khiến người ta không khỏi tò mò. Chỉ là tranh thôi nhưng đã đủ khiến người nhìn không thể rời mắt.

Từ Du vội gấp sách lại, tuy là người từng trải, nhưng công khai xem thứ này vẫn khiến ông cảm thấy bối rối.

“Chỉ là mồi nhử thôi, nếu không làm vậy thì có ai muốn xem.” Thấy phản ứng của Từ Du, Lữ Bố bật cười, đáp.

“Ta hiểu rồi.” Từ Du gật đầu, nhẹ ho một tiếng, phải thừa nhận tay họa sĩ quả là tài tình… Ông lắc đầu cười gượng: “Chủ công quả là khiến người ta không kịp trở tay.”

Một lúc sau, Từ Du tạm biệt ra về, tâm trí ông vẫn không khỏi xao động. Khi về đến nhà, ông mới thở phào, mang sách vào phòng, còn dặn người hầu: “Bảo mọi người, không có việc gì đừng quấy rầy.”

“Dạ!” Người hầu ngạc nhiên nhìn Từ Du, rồi gật đầu rời đi.

Từ Du về phòng, hít sâu một hơi rồi mở vô tự thư. Trang đầu tiên khiến máu trong người sục sôi, nhưng sang trang thứ hai lại là nội dung nghiêm chỉnh. Đọc một lúc, ông nhận ra đây là câu chuyện về nhà Thương, chỉ có điều nhân vật Trụ Vương lại có nét hao hao Lữ Bố.

Câu chuyện kể về việc Trụ Vương chống lại việc thần tiên nô dịch người phàm, ông đứng lên phản kháng dù thất bại. Sự hào hùng bi tráng ấy khơi lên một hình ảnh Trụ Vương khác trong lòng Từ Du. Ông nhớ lại các sách sử, biết rằng Trụ Vương không phải một hôn quân. Trong truyện, Trụ Vương quyết tâm xóa bỏ chế độ nô lệ dù khiến thiên hạ phản đối, điều này có vẻ cũng có nguyên mẫu, dù ít ỏi nhưng tinh thần bất khuất của nhân vật ấy thực khiến người ta cảm phục…